Lịch sử chữ viết
bắt đầu khi các hệ thống chữ viết đầu tiên của loài người xuất hiện vào đầu thời kỳ đồ
đồng (cuối thiên niên kỷ 4 trước Công nguyên) từ các biểu tượng tiền ký tự của thời kỳ đồ
đá mới.
Các biểu tượng Tartaria, tìm thấy ở Romania 2.700 năm TCN
Mục lục
[giấu]
• 1 Hệ thống biểu tượng tiền ký tự.
• 2 Phát minh ra chữ viết
• 3 Chữ viết thời kỳ đồ đồng
o 3.1 Chữ viết hình nêm
o 3.2 Chữ tượng hình Ai Cập cổ đại
o 3.3 Chữ viết Trung Hoa
o 3.4 Ký tự Elamite
o 3.5 Chữ tượng hình Tiểu Á
o 3.6 Ký tự Cretan
o 3.7 Những chữ cái cổ Semitic (Trung Đông)
o 3.8 Chữ viết Ấn Độ
• 4 Thời kỳ đồ sắt và sự ra đời hệ thống chữ viết Alphabet
• 5 Chữ viết và lịch sử
[sửa] Hệ thống biểu tượng tiền ký tự.
Những hệ thống chữ viết đầu tiên không tự xuất hiện. Chúng bắt nguồn từ các tập quán cổ
xưa của các hệ thống biểu tượng. Những hệ thống này không thể coi là chữ viết, nhưng
chúng có rất nhiều đặc điểm liên hệ với chữ viết sau này, vì vậy có thể gọi là hệ thống tiền
ký tự (nguồn gốc của chữ viết). Chúng là các hệ thống biểu tượng khá dễ nhớ và ghi lại ý,
cho phép truyền đạt thông tin nhất định. Tuy vậy, chúng không có nội dung ngôn ngữ.
Những hệ thống này xuất hiện ở đầu thời kỳ đồ đá mới, khoảng thiên niên kỷ thứ 7 TCN.
Đáng chú ý có hệ biểu tượng Vinca có những cải tiến về biểu tượng giản đơn ở đầu thiên
niên kỷ 7 TCN, dần tăng tính phức tạp trong thiên niên kỷ tiếp theo và lên đến đỉnh cao là
những bản ghi Tartaria vào thiên niên kỷ 5 TCN. Những biểu tượng được xếp theo hàng lối
chặt chẽ, giúp chúng ta liên tưởng ngay đến văn bản. Các ký tự tượng hình của Cận đông
thời cổ đại (Ai Cập, Cuneiform – tiền thân nền văn minh Xume, Cretan) dường như không
bắt nguồn từ những hệ thống biểu tượng trên. Vì vậy, khó có thể kết luận rằng hệ thống
chữ viết đã kế thừa biểu tượng tiền chữ viết ở thời điểm nào.
Những mai rùa tìm thấy ở Trung Quốc có các biểu hình vẽ được cho là chữ viết, 1.300 năm
TCN
Năm 2003, các biểu tượng khắc trên mu rùa được phát hiện ở Jiahu, tỉnh Hà Nam, Trung
Quốc. Phương pháp xác định tuổi bằng đồng vị cacbon cho thấy những mu rùa này có từ
thiên niên kỷ 2 trước công nguyên. Các mu rùa được tìm thấy khi khai quật những di chỉ ở
24 hang động thời đồ đá mới ở Jiahu, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Theo một số nhà khảo cổ,
những chữ viết trên mai rùa có những điểm tương đồng với ký tự viết trên những thẻ
xương động vật ở thiên niên kỷ 2 TCN. Tuy nhiên, nhiều nhà khảo cổ khác không đồng ý
với quan điểm đó. Họ cho rằng những phác họa hình học giản đơn như thế không hề liên
hệ đến chữ viết cổ xưa.
Ở nền văn minh sống Ấn, chuỗi biểu tượng tìm thấy có thể tạo thành hệ biểu tượng tiền ký
tự, có thể là chịu ảnh hưởng từ sự xuất hiện chữ viết ở Lưỡng Hà.
[sửa] Phát minh ra chữ viết
Những dạng cổ xưa nhất của chữ viết mang những yếu tố như ký tự viết tắt dựa trên những
yếu tố tượng hình và tượng ý. Đa phần các hệ thống chữ viết có thể chia làm ba loại: tượng
ý, tượng thanh và chia đoạn. Tuy vậy, cả ba loại này đều tìm thấy ở bất kỳ hệ thống chữ
viết nào với mức độ cấu thành khác nhau và khiến việc xếp loại mỗi hệ chữ viết trở nên
khó khăn và nhiều mâu thuẫn.
Lá thư tìm thấy ở Telloh của thầy tế Lu'enna gửi nhà vua (có lẽ tên là) Urukagina của thành
Lagash, Lưỡng Hà, thông báo con ngài đã chết trận, khoảng năm 2.400 TCN.
Phát minh chữ viết đầu tiên cùng lúc với sự ra đời của thời kỳ đồ đồng ở cuối thời đá mới,
thiên niên kỷ 4 TCN. Người ta tin rằng hệ thống chữ viết đầu tiên của loài người ra đời
cuối thiên niên kỷ 3 TCN tại vùng Sumer (Lưỡng Hà) ở dạng chữ hình nêm cổ xưa ở
triều đại Ur thứ ba. Cùng thời gian đó, những dạng tiền chữ viết Elamite phát triển thành
chữ viết Elamite có hàng lối (dạng chữ viết này cho đến nay vẫn chưa giải mã được).
Sự phát triển của chữ viết tượng hình Ai cập song song với những ký tự vùng Lưỡng Hà và
không nhất thiết là độc lập với nhau. Hệ thống tiền ký tự của người Ai Cập tiến hóa thành
những ký tự tượng hình cổ xưa vào khoảng 3.200 năm TCN và phổ biến rộng rãi ở giữa
thiên niên kỷ 3 TCN.
Ký tự của nền văn minh sống Ấn phát triển trong suốt thiên niên kỷ 3 cả ở dạng tiền chữ
viết hoặc dạng chữ viết cổ xưa, tuy vậy quá trình phát triển này tiến nhanh hơn khi nền văn
minh đi qua giai đoạn đỉnh điểm vào khoảng 1.900 năm TCN.
Chữ viết của người Trung Quốc có lẽ là không cùng nguồn gốc với các nền văn minh
Trung Đông. Từ hệ thống biểu tượng tiền chữ viết ở cuối thời kỳ đồ đá mới khoảng 6.000
năm TCN, chữ viết Trung Quốc ra đời khoảng 1.500 năm TCN vào thời nhà Thương.
Những hệ thống chữ viết ở Châu Mỹ (bao gồm nền văn minh Maya và Olmec) cũng có
những nguồn xuất xứ độc lập.
Phần lớn các hệ thống chữ viết trên thế giới ngày này đều bắt nguồn từ Ai Cập hoặc Trung
Quốc. Có một vài ngoại lệ là hệ thống tượng ý của người Maya xuất hiện thế kỷ thứ 3
TCN và các ký tự tìm thấy trên đảo Phục Sinh.
[sửa] Chữ viết thời kỳ đồ đồng
[sửa] Chữ viết hình nêm
Hệ thống chữ viết nguyên thủy của người Sumer bắt nguồn từ những phiến đất sét được sử
dụng để chỉ tên đồ vật. Cho đến cuối thiên niên kỷ 4 TCN, hệ thống này đã phát triển thành
một phương pháp lưu lại các bản kê, sử dụng bút trâm đầu tròn ấn lên tấm đất sét theo các
góc khác nhau để ký hiệu con số. Cách ghi này dần được gia tố các biểu tượng ghi bằng
bút trâm sắc để chỉ ra cái gì được đếm. Ghi chép sử dụng bút trâm đầu tròn và bút trâm đầu
sắc, theo thời gian, được thay thế bằng bút trâm đầu hình nêm (vì thế mà có tên chữ viết
hình nêm) vào khoảng 2.700 – 2.500 năm TCN. Ban đầu chỉ có những ký hiệu ghi hình
(xem chữ tượng hình) nhưng đã phát triển, đưa vào yếu tố ngữ âm ở thời gian thế kỷ 29
TCN. Chừng 2.600 năm TCN, chữ viết hình nêm bắt đầu thể hiện âm tiết trong nhóm ngôn
ngữ Xume (Sumer) vùng Lưỡng Hà. Cuối cùng, chữ viết hình nêm trở thành hệ thống chữ
viết phổ biến ghi lại ký hiệu ghi hình, âm tiết và con số. Kể từ thế kỷ 26 TCN, dạng chữ
viết này du nhập vào ngôn ngữ Akkadian (một ngôn ngữ trong nhóm Xume) và các ngôn
ngữ khác như Hurrian (ngôn ngữ được nói ở phía bắc Lưỡng Hà khoảng 2.300 năm TCN
và gần như biến mất 1.000 năm TCN) và Hittite (ngôn ngữ của đã biến mất, đã từng được
nói ở trung tâm Tiểu Á từ 1.600 đến 1.100 năm CN). Những ký tự tương tự còn được tìm
thấy trong ngôn ngữ Ugaritic (ngôn ngữ đã biến mất, từng được sử dụng ở Ugarit, Syria)
và Ba Tư cổ.
[sửa] Chữ tượng hình Ai Cập cổ đại
Chữ viết đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đế chế Ai Cập, và đọc và viết là đặc
quyền của nhóm người được giáo dục để ghi chép và giữ gìn văn bản. Chỉ những người
với xuất thân nhất định mới được đào tạo để trở thành nguời ghi chép và giữ gìn văn bản.
Họ phục vụ trong đền thờ, quân đội và hệ thống hành chính của nhà vua (Pharaon). Hệ
thống chữ viết tượng hình Ai Cập luôn phức tạp, khó học, nhưng trong nhiều thế kỷ sau
khi ra đời, chúng còn trở nên khó học hơn nhiều. Chủ ý của thực tế này là nhằm duy trì đặc
quyền của những người ghi chép và giữ gìn văn bản.
[sửa] Chữ viết Trung Hoa
Ở Trung Quốc, các nhà sử học biết được rất nhiều điều về những triều đại Trung Hoa đầu
tiên nhờ những văn bản còn sót lại. Từ thời nhà Thương, đa số những ghi chép này tìm
thấy trên xương động vật hoặc bản ghi bằng đồng. Những chữ ghi trên mai rùa, qua
phương pháp xác định tuổi carbon cho thấy chúng được viết khoảng 1.500 năm TCN. Các
nhà sử học phát hiện ra rằng loại vật liệu được sử dụng có ảnh hưởng đến văn bản được
ghi chép và cách thức sử dụng chúng.
Có những phát hiện gần đây về các mai rùa có niên đại khoảng 6.000 năm TCN như các ký
hiệu tìm thấy ở Jiahu, nhưng liệu chúng đã đủ phức tạp để được coi là chữ viết hay chưa
thì vẫn còn tranh cãi. Nếu những hình vẽ này được xác định là ngôn ngữ ở dạng viết thì
chữ viết Trung Hoa là chữ viết cổ nhất của nhân loại, thậm chí ra đời tới 2.000 năm sớm
hơn chữ viết hình nêm của vùng Lưỡng Hà. Hiện nay, những bằng chứng có hệ thống về
chữ viết Trung Hoa bắt đầu từ 1.600 năm TCN.
[sửa] Ký tự Elamite
Những biểu tượng tiền ký tự Elamite vẫn chưa giải nghĩa được xuất hiện có lẽ từ 3.200
năm TCN và trở thành có hàng lối vào cuối thiên niên kỷ 3 TCN, chúng sau đó được thay
thế bằng chư viết hình nêm Elamite du nhập từ ngôn ngữ Akkadian.
[sửa] Chữ tượng hình Tiểu Á
Chữ tượng hình Tiểu Á là ký tự ghi lại hình để biểu đạt thông tin ra đời ở phía tây Tiểu Á.
Lần đầu tiên xuất hiện trên các con dấu hoàng gia để ghi lại ngôn ngữ Luwian (một ngôn
ngữ ngày nay đã tuyệt chủng) khoảng thế kỷ 20 TCN.
[sửa] Ký tự Cretan
Chữ tượng hình Cretan được tìm thấy tại các di chỉ của nền văn minh Minoan đảo Crete
(xuất hiện ở giữa thiên niên kỷ 2 TCN). Vẫn chưa được giải mã.
[sửa] Những chữ cái cổ Semitic (Trung Đông)
Những chữ cái đúng nghĩa đầu tiên (những chữ cái phụ âm, gán mỗi biểu tượng tương ứng
với một âm vị, nhưng không nhất thiết mỗi âm vị ứng với một biểu tượng) xuất hiện
khoảng 1.800 năm TCN ở Ai Cập Cổ đại, như một cách miêu tả ngôn ngữ được phát triển
bởi những người Semitic phục vụ ở Ai Cập, nhưng những nguyên tắc chữ cái này không
được du nhập vào hệ thống chữ viết tượng hình của Ai cập trong suốt thiên niên kỷ. Những
chữ cái phụ âm ban đầu này vẫn ít được coi trọng trong nhiều thế kỷ. Và chúng chỉ trở nên
quan trọng khi vào cuối thời kỳ đồ đồng, khi ký tự tiền chữ viết Sinaitic phân thành hai
nhánh là hệ thống tiền chữ cái Canaanite (khoảng 1.400 TCN) và hệ thống chữ cái nam Ả
rập (khoảng 1.200 TCN). Hệ thống tiền chữ cái Canaanite có lẽ bị ảnh hưởng bởi hệ thống
chữ viết ghép vần Byblos mà hiện này vẫn chưa giải mã được và sau đó truyền ảnh hưởng
vào chữ cái Ugantic (khoảng 1.300 TCN).
[sửa] Chữ viết Ấn Độ
Những ký hiệu tìm thấy của nền văn minh sông Ấn thời đồ đồng giữa vẫn chưa giải nghĩa
được. Vẫn chưa rõ những ký hiệu này được xếp vào ký hiệu tiền ký tự hay đó là một dạng
chữ viết biểu tượng-ngữ âm của các hệ thống chữ viết thời kỳ đồ đồng khác.
[sửa] Thời kỳ đồ sắt và sự ra đời hệ thống chữ viết
Alphabet
Chữ cái Phoenician là hệ thống tiền chữ cái Canaanite đuợc tiếp tục phát triển ở thời kỳ đồ
sắt (được cho là kế thừa từ sự chấm dứt của hệ thống này năm 1.050 TCN). Hệ thống chữ
cái này đưa đến sự ra đời của chữ viết Aramaic và chữ viết Hy Lạp; rồi thông qua người
Hy Lạp, dẫn đến sự ra đời của các chữ cái Tiểu Á và chữ cái Italic cổ (bao gồm tiếng
Latin) vào thể kỷ 8 TCN. Chữ cái Hy Lạp đưa vào các ký hiệu nguyên âm. Nhóm chữ viết
Brahmic của Ấn Độ có lẽ hình thành từ thế kỷ 5 TCN từ những tiếp xúc với chữ viết
Aramaic. Chữ viết Hy Lạp và Latin vào các thế kỷ đầu Công nguyên là phát tích của một
số hệ thống ký tự Châu Âu như chữ cái Runes, chữ cái Gothic và chữ cái Cyrillic. Trong
khi đó, chữ viết Aramaic là khởi nguồn của chữ cái Hebrew, chữ cái Syriac và chữ cái
Arabic; chữ cái nam Ả rập mang đến sự hình thành chữ cái Ge’ez.
Cũng thời gian này (thế kỷ 4 đầu Công nguyên), chữ viết Nhật Bản ra đời từ chữ viết
Trung Hoa.
[sửa] Chữ viết và lịch sử
Các nhà sử học phân định rạch ròi thời tiền sử và thời lịch sử, theo đó thời lịch sử bắt đầu
kể từ khi có các nguồn ghi chép đáng tin cậy. Sự xuất hiện của chữ viết ở một khu vực
được kế tiếp, trong vài thế kỷ sau đó, bằng những ghi chép rời rạc thì không được đưa vào