Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN TĂNG CƯỜNG CÔNG tác cán bộ của ĐẢNG TRONG QUÂN đội TRONG THỜI kỳ CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.82 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Lý luận và thực tiễn hoạt động của Đảng ta trong hơn 85 năm qua đã
chứng tỏ rằng: đối với một Đảng cách mạng, đường lối và tổ chức cán bộ là hai
vấn đề cốt yếu. Sau khi đã có đường lối đúng thì cán bộ là quyết định nhất.
Bước vào thời kỳ phát triển mới, đầy cơ hội và thách thức đan xen, Việt Nam có
trụ vững và đi lên được hay không, phụ thuộc rất lớn vào quy mô và chất lượng
nguồn nhân lực, trong đó trước hết phải kể đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt các ngành, các cấp, các đoàn thể chính trị - xã hội. Đội ngũ này phải
được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện thường xuyên để trở thành những người
“hiền tài” của đất nước, vừa có “tâm” vừa có “tài”; có nhân cách và phong cách
cán bộ cách mạng; hội tụ cả năng lực tư duy và năng lực hoạt động thực tiễn, đủ
sức gánh vác những nhiệm vụ to lớn, phức tạp trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và trong kỷ nguyên cách mạng khoa
học - công nghệ, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa.
Công tác cán bộ trong quân đội là một bộ phận quan trọng hợp thành công
tác cán bộ của Đảng, một nội dung cơ bản của hoạt động công tác đảng, công tác
chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Quá trình xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành gần 70 năm qua của quân đội đã khẳng định: dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy các cấp, công tác cán bộ đã góp
phần quan trọng vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Những năm qua, trong điều kiện đất nước tiến hành công cuộc đổi mới,
công tác cán bộ trong quân đội chịu sự tác động mạnh mẽ của những biến đổi
kinh tế - xã hội trong nước và quy luật xây dựng quân đội thời bình, trong khi
tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp. Quán triệt đường lối,
quan điểm của Đảng về công tác cán bộ, nhất là Nghị quyết Trung ương 3 (khóa
VIII) “Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, các quy định, quy chế của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, đặc biệt là nghị quyết số 769- NQ/QUTW ngày 21/12/2012 về xây dựng
1



đội ngũ cán bộ quân đội giai đoạn 2013 – 2020 và những năm tiếp theo, công tác
cán bộ trong quân đội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: xây dựng đội ngũ
cán bộ quân đội trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; luôn vững
vàng, kiên định với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội; là lực lượng nòng cốt
bảo đảm cho các đơn vị hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao; cùng
toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, trên thế giới, vấn đề hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu
thế chủ động, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Sự
nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 27 năm qua của nhân dân ta đã tạo
ra thế và lực mới, để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn tăng cường
chống phá đất nước ta, với nhiều âm mưu, thủ đoạn hết sức thâm độc trong
chiến lược "diễn biến hòa bình", sự nghiệp đổi mới của Đảng, nhiệm vụ của
quân đội có sự phát triển, vì vậy xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước vừa có tầm quan trọng đặc biệt đáp ứng đòi hỏi của
thực tiễn vừa là yêu cầu bổ sung, phát triển lý luận về công tác cán bộ, xây dựng
đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường công tác cán bộ của Đảng
trong quân đội thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, trong xây dựng Đảng và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ bao giờ cũng giữ vị trí vai trò đặc biệt
quan trọng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ và
quân đội; công tác cán bộ là khâu cốt lõi trong công tác xây dựng Đảng. Vai
trò của cán bộ được thể hiện ở việc xây dựng đường lối, tổ chức thực hiện
đường lối, xây dựng tổ chức, thúc đẩy phong trào cách mạng; thể hiện trong
mối quan hệ giữa cán bộ với đường lối chính trị, với tổ chức, với nhiệm vụ
chính trị, với quần chúng...Nó chẳng những có ý nghĩa quyết định đối với
công tác xây dựng Đảng mà còn có ý nghĩa quyết định đối với cả sự thành

2


bại của cuộc đấu tranh cách mạng. Khẳng định vai trò của cán bộ và công
tác cán bộ xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
1.1. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
Theo quan điểm của V.I.Lênin đội ngũ cán bộ có vai trò rất to lớn đặc biệt
khi đội ngũ đó được lãnh đạo được tổ chức sẽ tạo nên một sức mạnh to lớn:
“Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng và chúng tôi sẽ đảo
ngược nước Nga lên”1. Chính vì vậy V.I.Lênin đã chỉ ra “Trong lịch sử, chưa
hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” 2. Thực tế bằng cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917, V.I.Lênin đã làm đảo lộn nước Nga, lập ra
nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. Khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin tiến hành đánh giá sắp xếp lại
cán bộ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu và đòi hỏi của nhiệm vụ mới.
V.I.Lênin khẳng định: “Nghiên cứu con người tìm những cán bộ có bản lĩnh.
Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định
sẽ chỉ là mớ giấy lộn”3.
Kế thừa những tư tưởng của V.I.Lênin về vai trò của một tổ chức, của
những người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện
Đảng ta. Người đã thấy rõ vai trò của đội ngũ cán bộ và tầm quan trọng của
công tác cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ là lực lượng nòng cốt của tổ chức
trong mọi giai đoạn cách mạng. Vị trí của công tác cán bộ gắn liền với vai trò
của đội ngũ cán bộ. Công tác cán bộ giữ vị trí hàng đầu trong công tác xây dựng
Đảng. Làm tốt công tác này là vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài vừa là
vấn đề có tính cấp thiết. Hồ Chí Minh luôn coi “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc” và “công tác cán bộ là công việc gốc của Đảng” 4. Để sự nghiệp cách

1

V.I.Lê nin toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, M, 1974, tr.162
V.I.Lê nin toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, M, 1974, tr.473
3
V.I.Lê nin toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, M, 1974, tr.449
4
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, H.1984, tr.478
2

3


mạng của Đảng thành công phải cần đủ 3 yếu tố đó là: có đường lối cách mạng
đúng, có quần chúng nhân dân được giác ngộ, đồng tình ủng hộ và có đội ngũ
cán bộ lãnh đạo giỏi. Ba yếu tố đó có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một
quy trình khép kín trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Nếu thiếu một trong
những yếu tố đó cách mạng không thể thành công được. Trong đó đội ngũ cán
bộ giữ vai trò như một chiếc cầu nối giữa Đảng với quần chúng, một dây chuyền
của bộ máy tổ chức, nó có tác động to lớn và trực tiếp đến phong trào cách
mạng. Vai trò của cán bộ thể hiện ở chỗ, cán bộ vừa là người đem chính sách
của Đảng, của Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu và thi hành; vừa là người
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để có
chính sách đúng. Cán bộ có tốt thì công tác lãnh đạo của Đảng mới thực thi có
hiệu quả, ví như cây cầu có vững mới nối liền được 2 bờ, dây chuyền có tốt thì
toàn cỗ máy mới hoạt động; nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ
dù tốt đến mấy, toàn bộ cỗ máy cũng bị tê liệt. Chính vì vậy Hồ Chí Minh khẳng
định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” 5; “Cán
bộ là những người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho

Đảng, cho chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”6. Như vậy trong toàn
bộ tiến trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, cán bộ và công tác cán bộ luôn là
vấn đề nổi lên hàng đầu và giữ một vai trò hết sức trọng yếu. Thực tiễn lịch sử
đã chứng minh, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, kể cả thời kỳ khi chưa
giành được chính quyền và thời kỳ Đảng ta cầm quyền, nếu cán bộ kém thì chủ
trương của Đảng có hay mấy cũng không thể biến thành hiện thực. Cho nên,
trong các bài viết, bài phát biểu cũng như trong suốt cuộc đời hoạt động của
mình, Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề cán bộ và thường xuyên quân tâm đến
việc xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng theo những chuẩn mực nhất định, phù
hợp với từng giai đoạn cách mạng.

5
6

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, H.1984, tr.492
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2000, tr.269

4


Kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, từ khi thành lập đến nay Đảng ta luôn khẳng định: cán bộ là nhân tố
quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh
của Đảng, của đất nước, của chế độ và quân đội; công tác cán bộ là khâu cốt
lõi trong công tác xây dựng Đảng. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HÐH và hội nhập quốc tế, Ðại hội XI của Ðảng đã đề ra
nhiệm vụ: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”7và chỉ rõ “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán

bộ”, xây dựng được đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực đảm đương nhiệm
vụ, có tính kế thừa, phát triển, khắc phục cho được những hạn chế, yếu kém của
đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ thời gian qua.
1.2. Xuất phát từ mối quan hệ giữa cán bộ, công tác cán bộ với việc xây
dựng đường lối, tổ chức thực hiện đường lối, xây dựng tổ chức, thúc đẩy
phong trào cách mạng.
Cán bộ vừa là sản phẩm của đường lối chính trị, vừa là người xây
dựng đường lối, bảo vệ, giữ vững, phát triển đường lối của Đảng. Đường lối
chính trị đúng đắn là cơ sở, phương hướng để xây dựng đội ngũ cán bộ
ngang tầm nhiệm vụ. Đường lối chính trị quyết định đường lối cán bộ, quyết
định phương hướng lựa chọn, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm, quyết định nội dung
đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Ngược lại, có đội ngũ cán bộ tốt, vững mạnh,
trong sạch, vừa trung thành, tận tuỵ với Đảng, vừa có kiến thức, năng lực tổ
chức thực hiện đường lối giỏi, có kinh nghiệm lãnh đạo và vững vàng trong
mọi tình huống cách mạng thì Đảng mới lãnh đạo cách mạng thành công.
Cán bộ không chỉ là người tham gia đề ra đường lối và trực tiếp tổ
chức thực hiện thắng lợi đường lối, mà còn góp phần phát triển và hoàn
chỉnh đường lối ngày một đúng đắn hơn, phù hợp hơn với tình hình, đặc
điểm và nhiệm vụ của cách mạng qua các giai đoạn lịch sử. Vai trò đó thể
7

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.13

5


hiện ở chỗ, một mặt thông qua việc tổ chức thực hiện của cán bộ để khẳng
định sự đúng đắn, sáng tạo của đường lối chung, của các chủ trương, chính
sách lớn của Đảng; mặt khác cũng phát hiện và phản ánh những mặt hạn
chế, thiếu sót, những chỗ chưa phù hợp của đường lối chính sách để Đảng

kịp thời bổ sung, sửa đổi, phát triển, làm cho đường lối của Đảng ngày càng
phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn cuộc sống.
Cán bộ là thành viên, là lực lượng nòng cốt của tổ chức. Sức mạnh của
tổ chức trước hết là do sức mạnh tổng hợp của đội ngũ cán bộ trong tổ chức
tạo nên. Sự hình thành năng lực của tổ chức thông qua hoạt động tích cực,
sáng tạo của từng người cán bộ cụ thể, nhưng lại gắn bó với nhau trong một
tập thể, một tổ chức nhất định, theo những nguyên tắc tổ chức và hoạt động
nhất định. Mối quan hệ biện chứng thể hiện ở chỗ, đội ngũ cán bộ mạnh thì
tổ chức mới mạnh, mới hoàn thành được nhiệm vụ chính trị của mình; đồng
thời đến lượt nó, tổ chức mạnh thì mới có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ
mạnh. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong công tác cán bộ của
Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng.
Tác động của cán bộ đối với việc thực hiện nhiệm vụ, đối với phong
trào thường theo hai xu hướng chủ yếu: hoặc là thúc đẩy phong trào tiến lên,
hặc kìm hãm phong trào, cả hai trường hợp này đều tuỳ thuộc phần lớn vào
phẩm chất, năng lực, vào chất lượng của cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ tuyên truyền cho
nhân dân, tổ chức thi hành trong nhân dân, đồng thời nắm bắt thực tiễn, hiểu
rõ nhân dân, đem tình hình đó báo cáo cho Đảng. Vì vậy, nếu cán bộ dở, thì
chính sách hay cũng không thể có tác dụng trong thực tiễn; Đảng có quyết
tâm, quần chúng có nhiệt tình nhưng Đảng cũng không nắm chắc được quần
chúng; mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng cũng khó bền chặt.

6


Kinh nghiệm thực tiễn đã cho thấy: Một phong trào cách mạng mà có
đội ngũ cán bộ mạnh, với người chủ trì tài giỏi, có kiến thức sâu rộng, dày

dạn kinh nghiệm, biết nhìn xa trông rộng, nhạy cảm với cái mới, biết kết
hợp trí tuệ của tập thể với khả năng quyết đoán sáng suốt của cá nhân trên
cơ sở nắm vững tình hình, thì nhất định khơi dậy được nhiệt tình cách mạng
của quần chúng, phát động được phong trào cách mạng và đưa phong trào
đến thắng lợi. Như vậy, quần chúng là động lực cơ bản của cách mạng và
cán bộ chính là đại biểu của quần chúng, hướng dẫn, tổ chức và giữ vai trò
đầu tàu thức đẩy phong trào, thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ.
Khẳng định đúng đắn vai trò của cán bộ có ý nghĩa rất quan trọng.
Trên cơ sở đó mà có nhận thức đúng, đặc biệt coi trọng công tác cán bộ; giải
quyết tốt các yêu cầu của công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng. Đồng thời, trong quá trình xem xét và giải quyết các vấn đề cán bộ
cần luôn gắn chặt và xuất phát từ đường lối, nhiệm vụ chính trị, đường lối,
nhiệm vụ tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng của quần chúng. Có
như thế, công tác cán bộ mới có mục tiêu, phương hướng, nội dung, hình
thức, biện pháp công tác khoa học, có sức sống và hiệu quả cao. Đặc biệt,
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đang đặt ra yêu cầu cao và cấp bách đối với đội ngũ cán bộ quân đội cả
về số lượng, chất lượng; đòi hỏi cao đối với vai trò của công tác cán bộ
trong quân đội. Công tác cán bộ là một nội dung cốt lõi, quan trọng hàng
đầu của công tác tổ chức. Do đó, làm tốt công tác cán bộ cũng có nghĩa là
góp phần chủ yếu vào việc xây dựng tổ chức vững mạnh, trong sạch. Xuất
phát từ vị trí đó, công tác cán bộ của Đảng bao giờ cũng có tầm quan trọng
bậc nhất sau khi Đảng đã xác định được đường lối chính trị đúng đắn.
Thực tiễn đã chứng minh, đường lối của Đảng là kết quả của quá trình nhận
thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin kết hợp với tình hình thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Nhưng đường lối mới dừng lại ở ý chí, nguyện vọng, ước muốn của Đảng, của
dân. Đường lối đó muốn thành hiện thực thì phải trải qua nhiều khâu, nhiều việc,
7



phải có vai trò của nhiều lực lượng. Công tác cán bộ chính là để xây dựng một đội
ngũ cán bộ, lực lượng “gốc”, giữ vai trò nòng cốt tổ chức thực hiện đường lối và bảo
đảm cho đường lối đó thắng lợi. Không có công tác cán bộ hoặc công tác cán bộ
không có kết quả thì Đảng không thực hiện được sự lãnh đạo của mình đối với toàn
xã hội, đường lối của Đảng chỉ dừng lại ở lý luận mà thôi. Mặt khác, công tác cán
bộ góp phần xây dựng tổ chức vững mạnh. Việc bố trí, sắp xếp, sử dụng cán
bộ đúng sẽ phát huy tối đa tài năng, sức sáng tạo của cán bộ, phát huy cao
độ được sức mạnh của tổ chức. Công tác cán bộ có nhiệm vụ xây dựng lực
lượng và chuẩn bị lực lượng lãnh đạo cho đảng, vừa đáp ứng yêu cầu
nghiệm vụ trước mắt vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển lâu dài, bảo
đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được liên tục, thường xuyên, trên tất cả các
lĩnh vực hoạt động, qua các giai đoạn cách mạng.
Công cuộc đổi mới, phát triển đất nước ngày nay đặt ra những yêu cầu cấp
bách đối với công tác cán bộ của Đảng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác
cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng
khâu của công tác cán bộ”8.Lấy yếu tố con người làm trung tâm, đội ngũ cán bộ
và công tác cán bộ của Đảng là yếu tố quyết định đến kết quả của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, trách nhiệm của cấp ủy đảng các
cấp phải chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí, sử dụng sao cho
hiệu quả, phát huy hết được năng lực của cán bộ. Do đó, đội ngũ cán bộ và
công tác cán bộ của Đảng có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong việc
thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và trong công tác xây dựng Đảng.
Cho nên trong quá trình lãnh đạo của mình, các tổ chức đảng nói chung và
trong quân đội nói riêng cần phải coi trọng công tác cán bộ, phải quan tâm
đến việc xây dựng cán bộ, coi công tác này là khâu then chốt để giải quyết
mọi nhiệm vụ và công tác khác.
8


ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.261

8


1.3 Xuất phát từ sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc và xây dựng quân đội thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Những năm tới, hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn: tình hình chính
trị-xã hội của đất nước cơ bản ổn đình, kinh tế tiếp tục tăng trưởng; Đảng, Nhà
nước đã có nhiều chính sách quan tâm đầu tư cho xây dựng quân đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trước tiên tập trung xây dựng lực
lượng Hải quân, Phòng không - Không quân, Thông tin, Tác chiến điện tử và
Trinh sát kỹ thuật hiện đại. Đó là tiền đề, điều kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ
cán bộ quân đội
Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục cổ những diễn biển phức
tạp, khó lường, tranh chấp chủ quyền xẩy ra ở nhiều nơi, tính chất ngày càng phức
tạp; các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thục hiện chiến lược “Diễn biến hoà
bình", thúc đẩy tự diễn biến, thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”.
Nhiệm vụ, tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị, phương thức tác chiến của quân
đội có bước phái triển mới; số cán bộ đã qua chiến đấu giảm nhanh, đội ngũ cán
bộ trẻ tuy được đào tạo cơ bản, nhiệt tình, trách nhiệm, nhưng kinh nghiệm thực
tiễn chưa nhiều, sẽ tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng đội ngũ cán
bộ quân đội trong giai đoạn tới.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của quân đội ta đặt dưới sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, trong đó quân đội là lực
lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tham gia xây dựng đất
nước. Để quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao
phó, vấn đề đặt ra yêu cầu phải xây dựng quân đội vững mạnh. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng,

chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng
hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động
viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
trong mọi tình huống. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh;
9


tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang từng
bước được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực lượng hải quân, phòng không,
không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động. Đẩy mạnh công tác
nghiên cứu khoa học, nghệ thuật quân sự, an ninh, đánh thắng chiến tranh bằng
vũ khí công nghệ cao của các lực lượng thù địch”9.
Do đó, để đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội hiện
nay, vấn đề tất yếu khách quan không thể thiếu được là phải nâng cao chất lượng
toàn diện đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy có bản
lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân;
có trình độ kiến thức, chuyên môn hóa ngày càng cao, có năng lực chỉ huy, tổ
chức hoạt động thực tiễn giỏi, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao, đồng thời cần khẩn trương thực hiện ở tất cả các khâu tuyển chọn,
đào tạo, bố trí, sử dụng và sàng lọc cán bộ, tạo sự chuyển biến liên tục, vững
chắc giữa các thế hệ, để cán bộ quân đội thực sự làm nòng cốt trong xây dựng
quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
1.4. Xuất phát từ thực trạng tiến hành công tác cán bộ của Đảng,
xây dựng đội ngũ cán bộ của quân đội trong tình hình hiện nay.
1.4.1. Thực trạng tiến hành công tác cán bộ của Đảng
* Những ưu điểm
Nhiều chủ trương, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ
thể hóa và từng bước đi vào cuộc sống. Công tác cán bộ đã có những đổi mới về
nội dung, phương pháp và cách làm, mang lại một số kết quả tích cực: hệ thống

các quy định, quy chế về quản lý và phân cấp quản lý cán bộ được bổ sung, đổi
mới; các khâu của công tác cán bộ được thực hiện ngày càng đồng bộ; dân chủ,
công khai trong công tác cán bộ được mở rộng trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc
Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời
đề cao trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu tổ chức trong hệ thống
chính trị. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung được nâng lên cả về
9

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.234, 235

10


trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và năng lực thực hiện nhiệm
vụ. Cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số được quan tâm hơn;
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng; trình
độ, kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội ngày càng được nâng
cao. Phần lớn cán bộ, công chức giữ gìn được phẩm chất chính trị và đạo đức,
lối sống, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Ðảng, từng bước thích ứng
với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị
quyết Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp
lớn về công tác cán bộ được thể chế hoá, cụ thể hoá thành các quy chế, quy
định. Đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu: quản lý, đánh giá, tuyển
chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện
chính sách cán bộ, trong đó công tác quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán
bộ có những chuyển biến tích cực. Tăng cường phân cấp trong công tác cán
bộ. Đội ngũ cán bộ được bổ sung về số lượng, chú trọng nâng cao về chất
lượng”10.
* Những hạn chế, khuyết điểm
Tuy nhiên, việc đổi mới công tác cán bộ vẫn chưa đáp ứng yêu cầu nâng

cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Ðảng. Tình trạng suy thoái về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp
tục diễn biến phức tạp. Ðội ngũ cán bộ còn nhiều mặt hạn chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu trước mắt và lâu dài. Công tác cán bộ còn thiếu những giải pháp
mang tính đột phá; vẫn dựa trên cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa, cảm tính, nể
nang, ngại va chạm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể thật sự phát huy dân chủ,
phát hiện và sử dụng người tài. Mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, nhất là chế
độ trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác
cán bộ chưa được quy định rõ. Nhiều khuyết điểm, yếu kém vốn có trong công
tác cán bộ đã được nêu nhiều lần trong các văn kiện của Ðảng, nhưng khắc phục
chậm; nhất là việc chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ
10

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.162, 163

11


nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Chưa kiên quyết sắp xếp, bố trí lại
đội ngũ cán bộ nhằm thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, hoặc
yếu kém về phẩm chất và năng lực; việc triển khai chưa đồng bộ, toàn diện,
thiếu giải pháp cụ thể để tạo nguồn cán bộ cho lâu dài; chưa có chính sách và
biện pháp để khơi dậy tài năng, thu hút nhân tài. Tình trạng cục bộ, khép kín cán
bộ ở các địa phương, các bộ, ngành vẫn chậm được khắc phục. Tình trạng chạy
chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương... bị xã hội lên án gay
gắt, cán bộ, đảng viên bức xúc nhưng chưa có biện pháp cụ thể, hiệu quả để
ngăn chặn. Chương trình, nội dung, phương pháp và chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Môi trường làm việc, chính
sách cán bộ chưa tạo được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng

lực, sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận
tụy của cán bộ đối với công việc. Việc xem xét, giải quyết những vấn đề chính
trị hiện nay còn lúng túng, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa thật sự quan tâm chỉ
đạo công tác này. Đại hội XI tiếp tục chỉ rõ: “Việc đổi mới công tác cán bộ còn
chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công
tác cán bộ, phát hiện và sử dụng người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp
và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá
cán bộ vẫn là khâu yếu. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng
cấp, huân chương chưa được khắc phục. Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa.
Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp. Môi trường làm việc, chính sách
cán bộ chưa tạo được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự
cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tụy
của cán bộ đối với công việc”11.
1.4.2. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội
Nghị quyết số 769-NQ/QUTW ngày 21/12/2012 Về xây dựng đội ngũ
cán bộ quân đội giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo đã đánh giá:
* Những ưu điểm
11

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.173, 174

12


Các cấp ủy trong quân đội đã quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện nghiêm
túc đường lối, quan điểm, nguyên tắc của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về công tác cán bộ vào xây dựng đội ngũ cán bộ. Quân ủy Trung ương, Bộ
Ọuốc phòng đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành các nghị quyết, chỉ thị,
quy chế, quy định, hướng dẫn và các văn bản quy phạm pháp luật về công tác
cán bộ; chỉ đạo cấp ủy các cấp trong toàn quân thống nhất thực hiện. Nguyên tắc

công tác cán bộ luôn được giữ vững, đảm bảo đúng quy trình và thẩm quyền;
nền nếp chất lượng công tác cán bộ được nâng lên, đã tạo được sự đồng bộ trong
các khâu của công tác cán bộ và quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ.
Đã có nhiều chủ trương, giải pháp tập trung giải quyết số lượng, nâng cao chất
lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ. Chủ động xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, tuyển
dụng, bổ nhiệm cản bộ đáp ứng yêu cầu điều chinh tổ chức lực lượng, thực hiện
Nghị quyết 51-NQ/TW và các nhiệm vụ, Chỉ đạo đổi mới quy trình, chương trình,
nội dung, rút ngắn được thời gian đào tạo; kết hợp tốt được các loại hình đào tạo, gắn
đào tạo theo chức vụ với đào tạo nâng cao trình độ học vấn; đã có bước đột phá
về đào tạo cán bộ ở ngoài nước; tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học ngày
càng tăng. Công tác quản lý cán bộ được đỗi mới theo hướng mở rộng dân chủ;
phân cấp mạnh cho cấp ủy cấp dưới, phân rõ trách nhiệm của từng cấp. Việc quy
hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, chỉ huy theo Nghị quyết 42, Nghị quyết 11 của Bộ
Chính trị khóa IX đã được triển khai tích cực; tạo được sự chuyển tiếp liên tục
giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đã cụ thể hóa chế độ vè tiền
lương, bảo hiểm xã hội, phụ cấp, trợ cấp, chính sách hậu phương quân đội, các
chế độ chính sách đặc thù quân sự, chỉ đạo tham gia các dự án nhà ở, đất ở của
địa phương. Công tác sĩ quan dự bị (SQDB) có bước chuyển biến tiến bộ, huy động
được các nguồn ngân sách để đào tạo SQDB, từng buớc khắc phục tình trạng
mất cân đối về địa bàn và chuyên ngành.
Đội ngũ cán bộ có bước chuyến biến tích cực về số lượng, chất lượng,
cấu; đại bộ phận cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt



đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc,

với nhân dân, có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch; có ý thức tổ chức kỷ
13



luật nghiêm, tinh thần trách nhiệm cao; trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo,
chỉ huy, chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng tốt hơn.
Đội ngũ SQDB giữ được ổn định về số lượng, từng bước điều chỉnh được cơ cấu;
có trách nhiệm chính trị tốt; co bản đáp ứng yêu cầu mở rộng lực lượng của năm
đầu chiến tranh và yêu cầu động viên phục vụ các nhiệm vụ đột xuất.
Nhìn chung, công tác cán bộ trong quân đội bảo đảm đúng nguyên tắc:
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; mọi vấn đề
về công tác cán bộ đều do tập thể cấp ủy có thẩm quyền thảo luận và quyết định
theo đa số; những vấn đề hệ trọng đều được chuẩn bị kỹ, lấy ý kiến của cấp ủy,
chỉ huy và cán bộ có liên quan trước khi thảo luận, quyết nghị. Vai trò tham
mưu của cơ quan cán bộ các cấp được phát huy, giúp cho cấp ủy cùng cấp đề ra
được các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện của quân đội và đơn
vị. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ quân đội ngày càng trưởng thành cả về bản lĩnh
chính trị, năng lực trí tuệ, trình độ tổ chức chỉ huy, quản lý...; đã lãnh đạo, chỉ
huy đơn vị vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm
vụ, nhất là nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, công tác, sản xuất, tham gia xây dựng
cơ sở chính trị địa phương, giúp dân xóa đói, giảm nghèo, cứu hộ, cứu nạn,
phòng chống bạo loạn...
* Những hạn chế, khuyết điểm
Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chỉ huy có mặt còn hạn chế, một số
đối tượng cán bộ còn hẫng hụt nguồn kế cận, kế tiếp, nhất là khối doanh nghiệp;
chưa có quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vục, nhất
là cấp chiến dich, chiến lược. Việc quy hoạch hệ thống nhà trường, đôi mới mục
tiêu, nội dung, chương trình, đầu tư nguồn lực cho đào tạo còn hạn chế; chỉ tiêu
đào tạo giữa các chuyên ngành chưa cân đối. Một số cấp uỷ nhận xét, đánh giá
cán bộ còn nể nang, né tránh, thiếu nhất quán; xem xét đề bạt chưa chặt chẽ; kiểm
tra, giám sát công tác cán bộ chưa thường xuyên. Chậm chỉ đạo tháo gỡ khó
khăn trong thực hiện chính sách chuyển cán bộ ra theo Nghị định 21/2009/NĐ-


14


CP; công tác đăng ký, quản lý và thực hiện chế độ chính sách đối với SQDB ở
một số địa phương, đơn vị còn hạn chế, bất cập.
Cán bộ thừa, thiếu theo chức danh còn cao; cơ cấu ngành, chuyên ngành
còn mắt cân đối, tỷ lệ cán bộ tại chỗ khối quân binh chủng, bộ đội Biên phòng
còn thấp; diện bố trí cán bộ gồm 3 đối tượng (Sĩ quan, QNCN, CCQP) đang nảy
sinh nhiều bất cập trong quản lý và sử dụng cán bộ. Một số cản bộ thiếu tu
dưỡng, rèn luyện, học tập vươn lên, giảm sút ý chí, niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, làm việc cầm chừng, cơ hội thực dụng, thoái hoá biến chất, gia trưởng,
độc đoán, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân
đội. Một bộ phận cán bộ cơ sở không được đào tạo cơ bản, kiến thức thiếu hệ
thống, năng lực, kinh nghiệm chỉ huy, huấn luyện, quản lý bộ đội còn yếu. Đội ngũ
SQDB còn thiếu so với yêu cầu động viên, mất cân đối về địa bàn và chuyên ngành
đào tạo; chất lượng tổng hợp, trình độ chỉ huy, quản lý và tổ chức huấn luyện
còn hạn chế.
* Nguyên nhân của những hạn chề, khuyết điểm
Quân uỷ Trung ương chậm hoạch định chiến lược tổ chức, biên chế quân
đội. Một số cấp ủy, cẩn bộ chủ trì chưa quán triệt sâu sắc chủ trương, quan điểm
đổi mới về công tác cán bộ; chưa chủ động dự báo được khó khăn, phức tạp nảy
sinh trong quá trình thực hiện; còn bị\ động, lúng túng, trông chờ, ỉ lại vào trên,
nặng về giải pháp tình thế, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ có nơi còn hình
thức; kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên. Một số cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện,
chưa nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình.
Năng lực nghiên cứu. dự báo của cơ quan chiến lược về xây dựng đội ngũ
cán bộ còn yếu; cơ quan chính trị, cơ quan cán bộ một số đơn vị chậm đổi mới,
thiếu nhạy bén, chưa bám sát sự phát triển của tình hình nhiệm vụ.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, trong tình hình hiện nay chúng
ta tiếp tục khẳng định: đổi mới công tác cán bộ vừa là nhiệm vụ trước mắt và lâu

dài, vừa là mục tiêu, yêu cầu tất yếu, bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng trong công
cuộc đổi mới. Việc đổi mới công tác cán bộ phải đặt trong tổng thể của công tác
15


xây dựng Ðảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động
của hệ thống chính trị. Các cấp ủy, tổ chức đảng và toàn bộ hệ thống chính trị
phải thống nhất quan điểm, nhận thức, có giải pháp đồng bộ và quyết tâm cao để
thực hiện, tạo chuyển biến mạnh mẽ, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập
quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Quân đội ta là quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà
chiến đấu, do Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức rèn luyện, được Đảng xây dựng,
lãnh đạo, giáo dục và quản lý, không những là công cụ bạo lực sắc bén mà còn
là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, một trụ cột vững chắc của
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt nam. Đội ngũ cán bộ quân đội không chỉ là sản
phẩm của đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng mà còn là lực lượng
lớn đóng góp xây dựng, bảo vệ, giữ vững phát triển đường lối đồng thời tổ chức
thực hiện thắng lợi đường lối ấy. Như vậy, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN trong thời kỳ mới, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng
yêu cầu nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cho quân
đội luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của
Đảng, của Nhà nước, của nhân dân. Để thực hiện tốt vấn đề đó, thời gian tới,
công tác cán bộ trong quân đội cần phải có những giải pháp cụ thể, tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục những hạn chế, khuyết điểm để đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
2. Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu, giải pháp tăng cường công tác
cán bộ quân đội thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; từ thực tiễn xây dựng đội

ngũ cán bộ quân đội trong thời gian qua, việc xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội
trong giai đoạn tới cần nắm vững các quan điểm, mục tiêu, yêu cầu theo tinh
thần Nghị quyết số 769-NQ/QUTW ngày 21/12/2012 về xây dựng đội ngũ cán
bộ quân đội giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo sau đây:
16


2.1. Quan điểm
Một là, xuất phát từ đường lối chính trị, quân sự của Đảng, yêu cầu,
nhiệm vụ xây dựng quân đội; chấp hành nghiêm nguyên tắc Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ,
Hai là, quán triệt sâu sắc quan điểm giai cấp công nhân của Đảng; phát
huy truyền thống dựng nước và giữ nước; truyền thống đại đoàn kết dân tộc;
truyền thống của quân đội, sự đoàn kết gắn bó giữa cán bộ và chiến sĩ để xây
đựng đội ngũ cán bộ quân đội thực sự là lực lượng chính trị nòng cốt tin cậy của
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Ba là, có dự báo chiến lược, đón trước sự phát triển chủ động chuẩn bị
cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ
chức; xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên; xây dựng cán
bộ chủ trì với xây dựng cấp ủy; tạo nguồn vào đội ngũ cán bộ với nguồn phát
triển đảng viên.
Bốn là, có chính sách phù hợp để giữ và thu hút nhân tài, người có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao vào phục vụ trong quân đội và điều dộng cán bộ
đến công tác ở nơi khó khăn gian khổ.
Năm là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng hiện đại.
chuẩn hóa, chuyên sâu; gắn đào tạo cơ bản tại trường với bồi dưỡng tại chức và
rèn luyện cán bộ trong thực tiễn; thông qua thực tiễn đề đánh giá, tuyển chọn,
tạo nguồn và phát triển tài năng của cán bộ.
2.2. Mục tiêu, yêu cầu
2.2.1. Mục tiêu: Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội có bản lĩnh chính trị

vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, vởì Tồ quốc, với nhân dân; có phẩm
chất đạo đức cách mạng, ý thức tố chừc kỷ luật nghiêm, có kiến thức, năng lực
toàn diện, có sức khỏe, độ tuổi phù hợp; có số lượng và cơ cấu hợp lý, đồng bộ;
bảo đảm sự chuyền tiếp liên tục, vững chắc giữa các
nhiệm vụ, tồ chức biên chế, trang bị vũ

thế hệ cán bộ, đáp ứng sự phát triển về

khí của quân đội trong giai đoạn mới.

17


2.2.2.Yêu cầu: Trên cơ sở mục tiêu chung về chất lượng, yêu cầu cụ thể
đối với một số loại cán bộ như sau:
Với cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy: Thực sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị,
đạo đức lối sống, trí tuệ, có năng lực lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành tốt nhiêm
vụ, đủ tiêu chuẩn, tín nhiệm đê được bầu vào cấp ủy cấp mình và tham gia cấp ủy cấp trên. Chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ, có tính kỷ luật và tinh thần đoàn kết cao, phương pháp, tác phong công tác tốt. Cán bộ chủ trì cấp chiến dịch, chiến lược
phải hội tụ đủ những yếu tố cần thiết cả về phẩm chất và năng lực để lãnh đạo, chỉ đạo ở tầm chiến lược; ở các cơ quan, đơn vị trọng
yếu phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để có thể tham gia

Ban Chấp hành Trung ương. Đối với cán bộ

cấp cơ sở, nắm vững kỹ thuật, chiến thuật, nguyên tắc công tác, nhất là năng lực
thực tiễn, chỉ huy quản lý, tổ chức huấn luyện, rèn luyện bộ đội xây đụng đơn vị
vũng mạnh toàn diện.
Với cán bộ cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược. Có năng lực trí tuệ, hiểu biết
các loại hình đơn vị, thông thạo về nghiệp vụ, có khả năng nghiên cứu, tham
mưu dề xuất cho lãnh đạo, chỉ huy tổng kết, hoạch định chính sách ở tầm chiến

tược. Với cấp sư đoàn và tương đương trở xuống nắm vũng các nghị quyết, chỉ
thị, hướng dẫn của trên, các văn bản quv phạm pháp luật theo từng chuyên ngành
để tham mưu, đề xuất việc thực hiện ở cấp mình và hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị
thuộc quyền triển khai thực hiện có hiệu quả. Kịp thời phát hiện những khó
khăn, vuớng mắc ở cơ sở đế kiến nghị với trên bổ sung, sửa đổi cho phù hợp.
Với cán bộ chuyên môn, kỹ thuật: Có năng lực chuyên môn, kỹ thuật, có khả
năng tiếp thu những thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại; khai
thác, quản lý, sử dụng, cải tiến nâng cao chất lượng các loại vũ khí, trang bị hiện
có; kịp thời tiếp cận, khai thác có hiệu quả vũ khí trang bi mới theo chương
trình, mục tiêu hiện đại hoá Quân chủng PK-KQ, Hải quân, lực lượng Thông tin,
Tác chiến điện tử và Trinh sát kỹ thuật. Tiếp nhận, làm chủ công nghệ lắp ráp,
tiến tới chế tạo được một số vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại theo mục
tiêu Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 16 tháng 7 nám 2011 cùa Bộ Chính trị về xây
dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp
theo. Trên từng chuyên ngành kỹ thuật, có chuyên gia đầu ngành đủ tầm tham
mưu cho Bộ Quốc phòng chỉ đạo và tổ chức thực hiện trong toàn quân.
18


Với cán bộ nghiên cứu, giảng dạy: Có tư duy độc lập, sáng tạo, say mê trong
nghiên cứu và ứng dụng khoa bọc, công nghệ, bám sát thực tiễn quân đội, năng
lực, phương pháp sư phạm tốt, đáp ứng nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Tham gia nghiên cứu đề xuất những chủ trương, giải pháp xây dựng quân đội;
tích cực đấu tranh trên mặt trận chính trị tư tưởng, bảo vệ đường lối, quan điểm
của Đảng. Phấn đấu 100% giảng viên các học viện, trường sĩ quan có trình độ
đại học, trong đó có trên 60% trình độ sau đại học, (có 25% trở lên là tiến sĩ);
90% giáo viên các trường trung cấp, cao đẳng, thiếu sinh quân, trường quân sự
quân khu, quân đoàn có trình độ đại học, trong đó có 25% trình độ sau đại học.
Với cán bộ doanh nghiệp, sản xuât quốc phòng: Hiểu biết sâu sắc quan điểm kết
hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Bám sát thực tiền, nghiên cứu

và ứng dụng những thành tựu mới về khoa học, công nghệ trong sản xuất, nhất là
các công nghệ sản xuất vũ khí, trang bị cho quân đội. Nắm vững khoa học về
quản lý, kiến thức kinh tế thị trường, hiểu biết và chấp hành đúng pháp luật và
luật pháp, thông lệ quốc tế, cỏ khả năng tồ chức kinh doanh đạt hiệu quả, bảo
toàn và phát triển vốn.
Với cán bộ tư pháp, thanh tra, pháp chế: Có phẩm chất, đạo đạo đức nghề
nghiệp trong sáng, có kiến thức toàn diện về pháp luật, giữ vững nguyên tắc,
quy chế công tác nghiệp vụ, dũng cảm, công tâm, trung thực trong thực hiện
nhiệm vụ. Có khi năng tiếp thu những thành tựu mởi về khoa học, công nghệ và
ứng dụng có hiệu quả vào công tác nghiệp vụ.
Với SQDB: Có chất lượng tổng hợp đáp ứng yêu cầu mở rộng lực lượng
khi đất nước có chiến tranh, nhất là chất lượng chính trị; phấn đấu cỏ trên 50%
SQDB là đảng viên, 100% SQDB được đào tạo đúng chương trình quy định.
2.3. Một số giải pháp tăng cường công tác cán bộ của Đảng trong
quân đội thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Một là, tổ chức tốt việc quán triệt, tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách
nhiệm của các tổ chức, các lực lượng, trước hết là cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan
chính trị, cơ quan nghiệp vụ cán bộ các cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ.
19


Cần thống nhất nhận thức, công tác cán bộ là công tác của Ðảng và trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị, mà trước hết là của các cấp ủy, tổ chức đảng,
thủ trưởng cơ quan, đơn vị, trong đó cơ quan tham mưu về công tác cán bộ là
nòng cốt. Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
theo nguyên tắc tập trung dân chủ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ
chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị. Ðồng thời, đẩy
mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác cán bộ và xây
dựng đội ngũ cán bộ; nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ.

Tiếp tục quán triệt cho các đối tượng, nhất là cấp ủy, cán bộ chủ trì, đội
ngũ cán bộ làm công tác cán bộ các cấp nắm vững các quan điềm, tư tưởng chỉ
đạo, nguyên tắc tiến hành công tác cán bộ, các văn bàn quy phạm pháp luật về công
tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ trong quân đội; trọng tâm là mục tiêu, yêu
cầu, chủ trương và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội từ nay đến năm
2020 và những năm tiếp theo; tạo sự thống nhất về nhận thức; đề cao trách
nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, đề xuất, xây dụng kế hoạch, tiến hành
công tác cán bộ đảm bảo nguyên tắc, có hiệu quả, đúng đường lối công tác cán
bộ của Đảng trong quân đội.
Hai là, tiếp tục tập trung giải quyết số lượng, cải thiện cơ cấu, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở.
Trong những năm qua, công tác cán bộ đã chú ý tập trung vào giải quyết
số lượng gắn với điều chỉnh cơ cấu đội ngũ. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ hiện nay
ở một số đơn vị vẫn còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu; số thừa không bù đắp
được cho số thiếu, cán bộ cấp phân đội, cán bộ chuyên môn, kỹ thuật (chính trị
viên phó đại đội, trung đội trưởng thông tin, kỹ thuật, biên phòng, bác sĩ tuyến
cơ sở) chưa đáp ứng đủ yêu cầu biên chế; tỷ lệ cán bộ tại chỗ phía Nam của các
quân chủng, binh chủng, bộ đội biên phòng... còn thấp. Để giải quyết được vấn
đề này, công tác cán bộ phải nắm vững quan điểm, đường lối công tác cán bộ
của Đảng, hướng dẫn của cấp ủy cấp trên, có kế hoạch và các giải pháp nhằm
20


giải quyết tốt số lượng, nhất là số cán bộ dôi dư; từng bước khắc phục số thiếu
và tăng tỷ lệ cán bộ tại chỗ đối với các địa bàn quan trọng, phức tạp; chú trọng
đáp ứng cán bộ cho các đơn vị đủ quân sẵn sàng chiến đấu, đơn vị có biến động
về nhiệm vụ, tổ chức, biên chế; lựa chọn những cán bộ quân sự, chuyên môn
nghiệp vụ có tố chất hoạt động công tác đảng, công tác chính trị đưa đi chuyển
loại chính trị. Mặt khác, cần tổ chức tốt việc tuyên truyền hướng nghiệp và có
chính sách thu hút, động viên sinh viên tốt nghiệp đại học các chuyên ngành

chuyên môn, kỹ thuật cần thiết có chất lượng tốt vào phục vụ quân đội, thông
qua tuyển quân, tuyển dụng, đào tạo SQDB... Quan tâm chỉ đạo xây dựng đội
ngũ sĩ quan dự bị đủ số lượng, nâng cao chất lượng, phù hợp về cơ cấu địa bàn
và chuyên nghiệp quân sự, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài.
Ba là, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần xây
dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đội ngũ cán bộ phải
được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng toàn diện; trước hết là chất lượng
chính trị, năng lực lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, quản lý và chuyên môn nghiệp vụ.
Đào tạo cán bộ phải gắn chặt với quy hoạch tạo nguồn, theo yêu cầu dự kiến bố
trí công tác; thực hiện đào tạo theo chức vụ gắn với trình độ học vấn tương ứng.
Quá trình đào tạo phải góp phần vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, mặt bằng
kiến thức, trình độ cơ bản, chuyên ngành cho cán bộ, bảo đảm thực hiện tốt chức
trách nhiệm vụ được giao. Đối với cán bộ chỉ huy, quản lý phải chú ý kiến thức,
năng lực toàn diện; cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ phải chú ý trình độ chuyên
môn sâu; đào tạo càng cao càng phải nhuần nhuyễn giữa kiến thức khoa học xã
hội, nhân văn với kiến thức chuyên ngành và tạo được tiềm năng phát triển lâu
dài... Để thực hiện tốt vấn đề đó, cần thực hiện nghiêm quy trình, chương trình,
nội dung đào tạo; khắc phục sự trùng lặp kiến thức giữa các cấp học, bậc học.
Trong quá trình đào tạo, cùng với việc nâng cao trình độ lý luận, cần hết sức chú
ý bồi dưỡng năng lực thực tiễn, truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu; kết hợp giữa
đào tạo tại nhà trường với bồi dưỡng tại chức, gắn đào tạo với tự đào tạo. Các
21


học viện, nhà trường quân đội cần tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và
học, thực hiện có hiệu quả liên kết đào tạo giữa các trường quân đội với các
trường ngoài quân đội và đào tạo ở nước ngoài. Chú ý thực hiện nghiêm các quy
định về quản lý học viên, thường xuyên sâu sát, nắm chắc tình hình, chủ động
dự báo và làm tốt công tác tư tưởng, xử lý tốt mọi vấn đề nảy sinh... bảo đảm tỷ

lệ học viên tốt nghiệp ra trường đạt chất lượng cao.
Bốn là, thực hiện tốt công tác quy hoạch đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển
cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý.
Việc quy hoạch, sắp xếp cán bộ, chỉ huy quản lý phải coi trọng cả phẩm
chất, năng lực và kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy của người cán bộ; chú ý phát
hiện và mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ có tài năng, đức độ. Để thực hiện tốt
vấn đề đó, cấp ủy các cấp phải tập trung làm tốt việc xây dựng và thực hiện quy
hoạch cán bộ theo quy định; hằng năm phải tiến hành rà soát quy hoạch và có sự
bổ sung, điều chỉnh kịp thời; thực hiện nghiêm việc phê duyệt và quản lý quy
hoạch cán bộ từng cấp theo đúng quy định. Trong quy hoạch của các đơn vị,
phải bảo đảm mỗi chức danh có nhiều nguồn, nhiều độ tuổi; bảo đảm thường
xuyên có 1/3 số cán bộ trẻ; ở các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số,
phải có tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số phù hợp. Trong thực hiện luân
chuyển cán bộ, cần chú ý luân chuyển giữa cơ quan với đơn vị, giữa chủ lực với
địa phương và ngược lại. Đối với các đơn vị chủ lực, cần làm tốt việc luân
chuyển cán bộ từ nơi thuận lợi đến nơi khó khăn để rèn luyện, thử thách; định
kỳ, chuyển đổi chức danh đối với cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ theo đúng quy
định, thực hiện nghiêm việc bổ nhiệm có thời hạn và bổ nhiệm lại đối với cán bộ
chỉ huy, quản lý. Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ cần bám sát mục tiêu xây
dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2020 và những năm tiếp theo theo tinh thần nghị
quyết 769-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương. Việc bổ nhiệm, sắp xếp cán bộ
chỉ huy, quản lý các cấp phải gắn với việc chuẩn bị nhân sự cấp ủy nhiệm kỳ
mới, theo đúng Chỉ thị số 37/CT-TW của Bộ Chính trị. Chỉ thị số 377/CTĐUQSTW của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương và Hướng dẫn số
22


1413/HD-CT của Tổng cục Chính trị. Trong bổ nhiệm, các cấp ủy cần chú ý kết
hợp chặt chẽ giữa cán bộ tại chỗ với cán bộ luân chuyển từ nơi khác đến. Bổ
nhiệm, luân chuyển cán bộ là chỉ huy trưởng, chính ủy (chính trị viên) các cơ
quan quân sự địa phương, cần chú ý đầy đủ các tiêu chuẩn, nhất là độ tuổi để

tham gia cấp ủy địa phương theo quy định. Việc đề xét phong, thăng quân hàm
sĩ quan các cấp, phải coi trọng mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ và gắn với
việc sử dụng cán bộ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy đơn vị.
Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đối với công
tác cán bộ; thực hiện tốt công tác chính sách cán bộ; thực hiện nghiêm công tác
kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên; xây dựng cơ quan cán bộ
các cấp vững mạnh làm nòng cốt trong thực hiện công tác cán bộ.
Đường lối, quan điểm của Đảng là cơ sở, định hướng đúng đắn để xác
định mục tiêu, phương hướng, chủ trương, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
quân đội vững mạnh, đủ sức lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị thực hiện thắng
lợi mọi nhiệm vụ. Để thực hiện tốt công tác cán bộ, vấn đề cơ bản nhất là phải
thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ và thống nhất quản
lý đội ngũ cán bộ; tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, phát huy vai trò
của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị trong tổ chức
thực hiện công tác cán bộ. Các tổ chức đảng cần chú ý kết hợp chặt chẽ việc xây
dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ trì vững mạnh với xây dựng cấp ủy các cấp trong sạch vững mạnh, làm hạt
nhân lãnh đạo, chỉ huy và đoàn kết trong đơn vị. Thường xuyên nghiên cứu,
hoàn thiện Quy chế công tác cán bộ, phân cấp quản lý cán bộ và thực hiện đúng
thẩm quyền quản lý cán bộ theo quy định. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ
thống chính sách cán bộ, nhất là chính sách về tiền lương, phụ cấp; chính sách
nhà ở; chính sách đối với các đối tượng đặc thù; chế độ an dưỡng, bồi dưỡng,
khám chữa bệnh; bảo hiểm y tế cho thân nhân cán bộ theo quy định.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác
cán bộ của cấp ủy các cấp; thực hiện tốt việc giám sát thường xuyên đối với tổ
23


chức đảng và đảng viên; kiểm tra việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị, quy
định về công tác cán bộ ở các cấp. Đồng thời, chú ý phát huy vai trò của cơ quan

kiểm tra trong kiểm tra, giám sát công tác cán bộ theo đúng Quy định số 58/QĐTW của Bộ Chính trị; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung, dân chủ; chấp
hành các quy chế, chế độ, quy định về công tác cán bộ; ngăn chặn kịp thời mọi
thiếu sót, khuyết điểm trong công tác cán bộ.
Coi trọng xây dựng cơ quan và đội ngũ những người làm công tác cán bộ
các cấp vững mạnh, thực sự làm tốt vai trò tham mưu giúp cấp ủy xây dựng chủ
trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện
công tác cán bộ; bảo đảm cho công tác cán bộ luôn được thực hiện đúng với
quan điểm, đường lối của Đảng và sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên cũng
như cấp ủy cấp mình.
Sáu là, thực hiện tốt nền nếp, chế độ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm
công tác cán bộ.
Theo định kỳ, theo chuyên đề và theo từng nhiệm vụ, cấp ủy các cấp phải
tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác cán bộ. Nội dung sơ kết,
tổng kết phải gắn với nhiệm vụ, yêu cầu công tác cán bộ và điều kiện, đặc điểm
cụ thể của đơn vị. Thông qua sơ kết, tổng kết, các cấp cần kiểm điểm làm rõ
những việc làm được và chưa làm được; ưu điểm, khuyết điểm, trách nhiệm của
từng cấp; qua đó chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm chính trong
lãnh đạo; chỉ đạo thực hiện; từ đó đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp, tiếp tục
xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp vững mạnh đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.

KẾT LUẬN
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HÐH
và hội nhập quốc tế. Sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 27 năm qua
của nhân dân ta đã tạo ra thế và lực mới để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công
24


nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, các thế lực thù
địch vẫn tăng cường chống phá đất nước ta, với nhiều âm mưu, thủ đoạn hết sức
thâm độc trong chiến lược "diễn biến hòa bình". Tình hình đó đặt ra những yêu

cầu rất cao đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội nói chung và xây dựng đội ngũ
cán bộ quân đội nói riêng. Do vậy, tăng cường công tác cán bộ của Đảng trong
quân đội ngang tầm với nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng vừa mang tính cấp
bách vừa mang tính chiến lược lâu dài, vừa là mục tiêu, yêu cầu tất yếu, bảo
đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Trên
cơ sở đó, cần phát huy sức mạnh, trách nhiệm của các cấp, các ngành, tạo nên
sức mạnh tổng hợp để xây dựng đội ngũ cán bộ có số lượng và cơ cấu hợp lý,
cân đối, đồng bộ; nâng cao chất lượng toàn diện đội ngũ cán bộ, trước hết là cán
bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt
đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; có trình độ kiến thức, chuyên môn hóa ngày
càng cao, có năng lực chỉ huy, tổ chức hoạt động thực tiễn giỏi, sẵn sàng nhận
và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, các
cấp phải chú ý kết hợp giữa đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm với việc trẻ hóa đội
ngũ, tạo sự chuyển biến liên tục, vững chắc giữa các thế hệ, để cán bộ quân đội
thực sự làm nòng cốt trong xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước
và nhân dân giao phó./.

25


×