Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN xây DỰNG ĐẢNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG tự PHÊ BÌNH và PHÊ BÌNH ý NGHĨA đối với CÔNG tác xây DỰNG và CHỈNH đốn ĐẢNG TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.11 KB, 27 trang )

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan của cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, là điều kiện tiên quyết để giai cấp công
nhân Việt Nam thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Nguyên tắc xây dựng Đảng
dựa trên hệ thống các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, một trong những
nguyên tắc đó là: tự phê bình và phê bình. Tự phê bình và phê bình là quy luật
phát triển; một phương pháp căn bản để củng cố, tăng cường khối đoàn kết
thống nhất, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng
và là một trong những đặc trưng thể hiện bản chất giai cấp công nhân, tính
cách mạng và khoa học của Đảng Cộng sản. Tự phê bình và phê bình là vũ
khí sắc bén, là “thang thuốc hiệu nghiệm” để từng tổ chức đảng, mỗi cán bộ,
đảng viên đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm, nhận rõ nguyên nhân và tìm
ra con đường, biện pháp phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, góp phần
xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao. Thực tiễn hơn 83 năm xây dựng và lãnh đạo của Đảng
đã khẳng định vai trò to lớn của việc thực hiện nghiêm túc chế độ Tự phê bình
và phê bình trong giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên, xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh, thực sự là đội tiền phong, lãnh tụ chân chính duy nhất
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp
và chứa đựng những yếu tố khó lường. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân
tộc tiếp tục diễn ra gay gắt. Nhiều nơi trên thế giới và khu vực vẫn đang xảy ra
chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn lật
đổ. Cách mạng nước ta có thời cơ lớn nhưng cũng đang đứng trước nhiều thách



thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn
tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn
nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục
thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các
chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước
ta. Hoạt động trong bối cảnh phức tạp đó, các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ
đảng viên không tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm và thậm chí cả sai
lầm. Do vậy, nâng cao chất lượng hiệu quả tự phê bình và phê bình là một
trong những nguyên tắc cơ bản, là vũ khí sắc bén, là động lực, là quy luật của
sự tồn tại và phát triển của Đảng, là vấn đề mang tính cấp bách, một nhiệm vụ
trọng tâm, then chốt, quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp đổi
mới trong tình hình hiện nay.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về tự phê bình và phê bình
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tự phê bình và phê
bình
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khảng định: mọi sự vật hiện tượng
trên thế giới cũng như trong đời sống xã hội đều vận động và phát triển trong
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Đảng Cộng sản là một tổ chức
chính trị, một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội, do vậy Đảng cũng tồn
tại, vận động phát triển theo quy luật sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập, tự phê bình và phê bình trong Đảng là biểu hiện của quy luật đó và là
đòi hỏi tất yếu khách quan. Bản thân Đảng trong suốt cả quá trình hoạt động
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng cả khi chưa có chính quyền cũng như khi trở
thành đảng cầm quyền, có nhiều vấn đề thực tiễn đạt ra mang tính khó khăn,
phức tạp, nhiều vấn đề mới nảy sinh, từng cán bộ, đảng viên không thể nắm,
2



nhận thức đầy đủ và sâu sắc ngay những vấn đề đó, quá trình tham gia hoạt
động không thể tránh vấp ngã, sai lầm, khuyết điểm, do đó phải tiến hành
công tác tự phê bình và phê bình. Mác Ăngghen cho rằng, tự phê bình và phê
bình là rất cần thiết cho hoạt động và phát triển bình thường của Đảng cộng
sản. Ăngghen nhấn mạnh: Việc Đảng phê bình các hoạt động đã qua của mình
là việc tuyệt đối cần thiết, thông qua đó Đảng học cách hoạt động tốt hơn.
Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác-Ăng ghen coi tự phê bình và
phê bình là quy luật bất di bất dịch về sự phát triển của Đảng cách mạng, theo
ông Đảng phải luôn tự phê bình và phê bình, tự vạch ra sai lầm, khuyết điểm,
phân tích rõ nguyên nhân và tìm cách sữa chữa, coi đây là một trong những
căn cứ quan trọng để xem xét một đảng có thật sự là một Đảng Mác xít chân
chính hay không. Lênin cho rằng, trong quá trình lãnh đạo, Đảng có khuyết
điểm cũng là điều bình thường, điều quan trọng là có thái độ đúng đắn với sai
lầm của mình hay không. Người yêu cầu, trước những sai lầm của mình,
Đảng phải: công khai thừa nhận sai lầm, phân tích hoàn cảnh đẻ ra sai lầm,
nghiên cứu những biện pháp để sữa chữa sai lầm, người chỉ rõ: “và nếu một
đảng nào không dám nói thật bệnh tật của mình ra, không dám chẩn đoán
bệnh một cách thẳng tay, và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì đảng đó sẽ
không xứng đáng được người ta tôn trọng”1, đó là thái độ nghiêm túc của
Đảng, chỉ có đảng nghiêm túc như vậy mới là Đảng Mác xít chân chính. Đối
với Đảng viên Cộng sản Lênin đòi hỏi rằng, trước sai lầm của mình, người
đảng viên phải thực hiện tốt tự phê bình, người nói: “Người thông minh
không phải là không phạm sai lầm….người nào phạm sai lầm mà không nặng
lắm và biết sửa một cách dễ dàng và nhanh chóng, thì người đó là người
thông minh”2. Đối với Đảng cũng như các đảng viên, không có thái độ đúng
đắn đối với khuyết điểm thì chỉ có đi đến chỗ vi phạm những khuyết điển lớn
hơn mà thôi, Lênin đã khẳng định điều đó khi nói: “cứ giữ mãi sai lầm, đi
sâu thêm để bào chữa nó, “đưa nó đến chỗ tột cùng” thì từ một sai lầm nhỏ,

1
2

V.I. Lê nin toàn tập, Nxb tiến bộ M, 1979, tập 8, tr.366
V.I. Lê nin toàn tập, Nxb tiến bộ M, 1979, tập 8, tr.22, 23

3


người ta luôn luôn có thể làm cho nó thành một sai lầm lớn ghê gớm”3. Tuy
nhiên tự phê bình và phê bình theo quan điểm của Lênin không phải là theo
khuynh hướng của chủ nghĩa cơ hội, “tả khuynh”, theo lối cục bộ, bè phái gây
chia rẽ, mất đoàn kết. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình
Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái lợi dụng cái gọi
là: “tự do phê bình” để phá hoại tổ chức Đảng, người phê phán những người
Cộng sản “tả khuynh” đã không có thái độ nghiêm túc trước những sai lầm
của mình, cho nên họ không phải là đảng của giai cấp, không phải là đảng của
quần chúng, chỉ là những nhóm nhỏ mang tính bè phái, ông khẳng định: “Ai
không cố ý nhắm mắt lại thì không thể không thấy rằng, khuynh hướng “phê
bình” mới trong chủ nghĩa xã hội, chẳng qua chỉ là một loại hình mới của
chủ nghĩa cơ hội mà thôi...“tự do phê bình” là tự do của khuynh hướng cơ
hội chủ nghĩa trong Đảng Dân chủ-xã hội, là tự do biến Đảng Dân chủ-xã
hội thành một Đảng Dân chủ cải lương, là tự do đưa những tư tưởng tư sản
và những thành phần tư sản vào trong chủ nghĩa xã hội” 4, rằng: “Vấn đề đặt
ra hiện nay là: ...nhiệm vụ của những người muốn đánh đổ chủ nghĩa cơ hội
một cách thực sự... cần đấu tranh tích cực chống “phái phê bình” hợp pháp,
nó đã làm truỵ lạc đầu óc con người đến cùng cực”5, có một thực tế rõ ràng là
kể từ khi ra đời tồn tại và phát triển đến nay các Đảng cộng sản chân chính và
những người Mác xít luôn phải đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái
phản động, đây cũng được xem như là vấn đề có tính quy luật của Đảng cộng

sản . Trong bản thân nội bộ Đảng luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu
thuẫn là một tất yếu khách quan, song vấn đề cần phải được hiểu là những
mặt đối lập, những mâu thuẫn ấy trong Đảng( mâu thuẫn giữa cái tiến bộ và
cái lạc hậu; giữa phẩm chất, trình độ, năng lực còn hạn chế của đội ngũ cán
bộ, Đảng viên so với yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ ngày càng cao, mâu thuẫn
giữa các ý kiến trái ngược nhau trong Đảng, giữa hình thức, phương pháp
lãnh đạo cũ của Đảng với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
V.I. Lê nin toàn tập, Nxb tiến bộ M, 1979, tập 8, tr.33
V.I. Lê nin toàn tập, Nxb tiến bộ M, 1979, tập 8, tr.11
5 V.I. Lê nin toàn tập, Nxb tiến bộ M, 1979, tập 8, tr.25
3
4

4


mới..), không phải là mâu thuẫn đối kháng mà những mâu thuẫn đó được giải
quyết thông qua tự phê bình và phê bình. Như vậy mục đích của đấu tranh
phê và tự phê bình là nhằm giải quyết mâu thuẫn, là sự góp ý, nói thẳng, nói
thật, chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, đấu tranh chống những quan điểm sai
trái...tạo nên sự hiểu nhau hơn, đoàn kết thống nhất hơn, để cùng nhau hoàn
thành nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, giúp đỡ nhau cùng tiến. Cần tránh lợi dụng
tự phê bình và phê bình để chỉ trích cá nhân, nói xấu, đả kích lẫn nhau mà
xem đó là chế độ sinh hoạt bình thường, thường xuyên trong Đảng. Đấu tranh
phê bình và tự phê bình được diễn ra trên tất cả các mặt hoạt động của Đảng,
và yêu cầu thực hiện đối với mọi cán bộ đảng viên, bao gồm tự phê bình của
cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới đối với cấp trên và cùng cấp, được thể
hiện qua các hình thức như: hội nghị chi bộ, đảng bộ qua các thời kỳ, các đại
hội đảng các cấp, các đợt sinh hoạt chính trị tập trung, báo cáo quý, tháng…
của cấp dưới lên cấp trên, báo cáo nhiệm kỳ đại hội của cáp trên đối với cấp

dưới, qua các phương tiện thông tin đại chúng…Quá trình thực hiện công tác
tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính khách quan, chân thành, cởi mở,
phảI cứng rắn về nguyên tắc, mêm dẻo, khéo léo về cách thức, cần xác định
xem nên tiến hành vào thời gian nào, nên nói những gì, bằng cánh nào, nói
đến mức độ nào…làm tốt điều này làm tăng chất lượng của tự phê bình và
phê bình, Lênin đã dạy: “chính sách thì không nên có thái độ thẳng băng và
không nên kịch liệt, không nên cố chấp nếu không cần thiết”. Tiến hành công
tác này còn cần phải về mặt thể hiện rõ những đặc tính cơ bản và tuân thủ
những đòi hỏi bắt buộc như phải bảo đảm tính đảng: điều này đòi hỏi thực
hiện tự phê bình và phê bình phải đứng vững trên cơ sở chủ nghĩa Mác, quan
điểm chủ trương chính sách của Đảng, đấu tranh không khoan nhượng với
mọi tư tưởng và hành động sai trái, mặt khác không thụ động, bàng quang
trước sai lầm, khuyết điểm của bản thân và của đồng chí của tập thể…Trong:
“Dự thảo lời kêu gọi của ban chấp hành trung ương và của ban biên tập cơ
quan ngôn luận trung ương gửi các uỷ viên thuộc phái đối lập” và: “Bản tuyên
5


bố không đưa ra”, được viết khi bọn Mensêvích chưa chiếm được báo “Tia
lửa”, Lênin đã kịch liệt phê phán và kiên quyết phản đối những thủ đoạn đấu
tranh không mang tinh thần của Đảng, những thủ đoạn đấu tranh không thể
dung thứ được, mà bọn thủ lĩnh của phái Mensêvích đã áp dụng, như chủ
nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do vô chính phủ... “Những tổ chức ngoài miệng
thì thừa nhận báo “Tia lửa” là cơ quan lãnh đạo, nhưng trong thực tế lại
theo đuổi những kế hoạch riêng của mình và tỏ rõ là thiếu vững vàng về mặt
nguyên tắc”6, theo người: “Thiết tưởng, phải chọn lấy một trong hai điều sau
đây: hoặc là phải bày tỏ ý kiến thẳng thắn và dứt khoát thực chất của vấn đề
trước toàn thể đại hội, hoặc là không bày tỏ ý kiến gì cả” 7. Quá trình tự phê
bình và phê bình còn phải tuân thủ cương lĩnh, đường lối, chính sách, tôn
trọng bảo vệ lợi ích của Đảng và phải được tiến hành trong tổ chức Đảng,

không được lợi dụng tự phê bình và phê bình để đả kích cá nhân, gây rối nội
bộ, gây chia rẽ, mất đoàn kết đi đến việc phá vỡ sự tập trung thống nhất trong
Đảng, theo Lênin: “Toàn bộ công tác cả chúng ta, tất cả sự nỗ lực của chúng
ta sẽ dùng để làm gì, khi mà kết quả bao giờ cũng chỉ là cuộc đấu tranh để
gây ảnh hưởng ấy, chứ không phải là để hoàn toàn tranh thủ và củng cố ảnh
hưởng đó”8. phê bình và tự phê bình theo quan điểm của Lênin còn cần cụ thể
thiết thực và kịp thời, điều này đòi hỏi sự đấu tranh không phải mang tính
chất chung, trung bình chủ nghĩa mà cần có nội dung, địa chỉ rõ ràng, chỉ ra
được, cái đúng, chỗ sai, nguyên nhân của những vấn đề đó và phương hướng
khắc phục, phải gắn với điều kiện cụ thể của từng tổ chức đảng và mọi cán bộ
đảng viên, Người nói: “Tự phê bình là một điều rất hay, nhưng khi tất cả
chúng ta đã tán thành điều đó, thì sẽ là rất hay nếu chúng ta chú ý cả đến vấn
đề nội dung phê bình nữa”. Tính cụ thể, thiết thực của tự phê bình và phê bình
của Đảng còn thể hiện ở việc hướng vào việc kiểm điểm, phân tích, đánh giá,
phê phán những vấn đề cấp bách trước mắt của tổ chức đảng và cán bộ, đảng
viên, trước hết là hướng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, chức trách,
V.I. Lê nin toàn tập, Nxb tiến bộ M, 1979, tập 8, tr.225
V.I. Lê nin toàn tập, Nxb tiến bộ M, 1979, tập 8, tr.234
8 V.I. Lê nin toàn tập, Nxb tiến bộ M, 1979, tập 8, tr.369
6
7

6


nhiệm vụ và việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất năng lực, phong cách làm
việc của cán bộ, đảng viên. Thiết thực, cụ thể phải luôn gắn với tính kịp thời,
bởi vì nếu phê bình và tự phê bình được tiến hành một cách kịp thời sẽ hạn
chế được sai lầm, khuyết điểm, không để chúng tích tụ lại làm trầm trọng
thêm khuyết điểm, đồng thời ngăn chặn không cho những thiếu sót sai lầm

của tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên bị tái diễn, kéo dài, điều quan trọng
hơn là giúp uốn nắn ngay những lệch lạc, kích thích tính sáng tạo, động viên
thúc đẩy các tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên hoàn thành thắng lợi mục
tiêu nhiệm vụ đã đề ra.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình
Vấn đề tự phê bình và phê bình đã được Hồ Chí Minh đề cập rất sâu
sắc trong tác phẩm "sửa đổi lối làm việc" và nhiều bài viết cho chuyên mục
Sửa đổi lối làm việc của báo Sự thật, trong các bài viết đề cập đến vấn đề đạo
đức cách mạng, và trong hầu hết các bài nói, bài viết về xây dựng Đảng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình không những là vũ khí,
là "luật" trong xây dựng tổ chức mà còn được nâng lên tầm nghệ thuật trong
công tác xây dựng Đảng. Phê bình là gì và tự phê bình là gì? đôi khi, Hồ Chí
Minh dùng cách gọi "tự kiểm điểm và kiểm điểm" hoặc "tự sửa chữa" và
"giúp đồng chí mình sửa chữa" 9, "tự xét và xét đồng chí mình" để nhấn mạnh
ý nghĩa của tự phê bình và phê bình trong việc khắc phục khuyết điểm.
Nhưng quan niệm về tự phê bình và phê bình có ý nghĩa bao quát rộng hơn.
Theo Hồ Chí Minh, "Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng
chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của bản thân
mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau" 10. Điều đó có nghĩa là tự
phê bình và phê bình không phải chỉ vạch ra khuyết điểm mà phải nêu cả ưu
điểm; nêu ưu điểm trước, vạch khuyết điểm sau; nêu ưu điểm và vạch khuyết
điểm phải đi đôi với nhau, không coi nhẹ ý nghĩa của một mặt nào. Điều đó
biểu hiện rõ tính nhân văn và tính khoa học , nét đặc sắc trong quan niệm về
9

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG Hà Nội, 1995, tr. 233
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG Hà Nội, 1995, tr. 267

10


7


tự phê bình và phê bình của Hồ Chí Minh. Thứ tự, phương pháp tự phê bình
và phê bình là: nêu ưu điểm, vạch khuyết điểm của mình trước và nêu ưu
điểm, vạch khuyết điểm của đồng chí mình sau; dù là "xét", "kiểm điểm" hay
"phê bình" người khác thì người có khuyết điểm đó cũng là đồng chí mình
chứ không phải kẻ thù hay đối địch. Cho nên, một mặt là để sửa chữa cho
nhau, một mặt là để khuyến khích nhau, "bắt chước" nhau, cùng tiến bộ mãi.
Người có ưu điểm thì phải cố gắng phát huy, vươn lên không ngừng; người có
khuyết điểm, bị phê bình thì phải vui lòng nhận rõ để sửa chữa. Tự phê bình
và phê bình sẽ không gây nản chí hoặc oán ghét.Những biểu hiện tiêu cực
như: chỉ thiên về vạch khuyết điểm của người khác theo kiểu "bới lông, tìm
vết" để tìm cách hạ bệ nhau, làm giảm uy tín của nhau, chỉ thiên về phê bình
người khác mà không nghiêm khắc tự phê bình, chỉ nhấn mạnh ưu điểm khi
"phê bình cấp trên" theo kiểu tâng bốc, nịnh hót... thực chất là biểu hiện cơ
hội trong tự phê bình và phê bình, hoàn toàn trái với tư tưởng Hồ Chí Minh về
tự phê bình và phê bình. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, tự phê bình và phê
bình như mỗi ngày soi gương, rửa mặt, để làm cho sạch sẽ cơ thể. Đảng là
một thực thể chính trị xã hội, Đảng tồn tại trong xã hội thông qua đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng. Đảng viên có tốt, chi bộ mới tốt và Đảng mới vững.
Vì vậy, tự phê bình và phê bình đối với cán bộ, đảng viên hàng ngày là rất
thiết thực, thường xuyên, bám sát trong mỗi hoạt động và không thể thiếu
trong nếp sống "văn minh Cộng sản"; là vũ khí sắc bén cần thiết cho sự tiến
bộ, trưởng thành của mỗi cán bộ, đảng viên như cơm ăn, nước uống, như
không khí để thở hàng ngày. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên: "luôn
luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình nói, những việc mình đã làm,
để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời
phải hoan nghênh người khác phê bình mình" 11. Hồ Chí Minh chỉ rõ: tự phê
bình và phê bình là phương tiện quan trọng nhất để xây dựng, củng cố sự

đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng là đoàn kết thống nhất
rất cao, là đoàn kết thống nhất từ trong tư duy, nhận thức, từ trong lý tưởng
11

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG Hà Nội, 1995, tr. 644

8


đến hành động hàng ngày. Tự phê bình và phê bình sẽ giúp gột rửa, lọc bỏ
những sai lệch, những bất đồng và trên cơ sở đó tạo nên sự kết dính, gắn bó
hữu cơ trong nội bộ Đảng. Người viết: “muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng,
ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và
phê bình”12. Đối với tổ chức đảng: tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay
nhất để chữa nhiều thứ chứng bệnh, để bồi bổ cho cơ thể của Đảng ngày càng
thêm cường tráng. Theo Hồ Chí Minh, trong Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và
tổ chức Đảng không tránh khỏi những sai lầm khuyết điểm trong quá trình
hoạt động. "Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh lại
thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang. Nhưng, nếu mỗi cán
bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng còn
to tát hơn nữa. Cán bộ và đảng viên làm việc không đúng, không khéo, thì còn
nhiều khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì
thành tích nhiều. "Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng
viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm dồng chí
mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí
mình sửa chữa"13. Trong Đảng có nhiều khuyết điểm, cũng như cơ thể con
người mang bệnh trong mình. Muốn trị bệnh phải uống thuốc. Phương thuốc
hiệu quả là tự phê bình và phê bình. Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai
cũng có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng
vì dân, vì nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những

tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì tính xấu của một người thường chỉ có
hại cho người đó; còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ, sẽ có hại đến
Đảng, có hại đến nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ nguồn gốc của những "tính
xấu", của những khuyết điểm, của những chứng bệnh trong Đảng, để trên cơ
sở đó, có phương pháp đúng sửa chữa khuyết điểm. Đảng ta bao gồm đủ các
tầng lớp xã hội, có nhiều tính cách, rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại;
song trong Đảng ta cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết,
12
13

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG Hà Nội, 1995, tr. 492
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG Hà Nội, 1995, tr. 232 - 233

9


những khuyết điểm của xã hội bên ngoài lây, ngấm vào Đảng. "Đảng ta
không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói
chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số
chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa,… Những thói xấu
đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ, họ mang từ xã hội vào Đảng" 14. Hồ
Chí Minh còn phân tích rất sâu sắc "các hạng đảng viên": Đảng ta có rất đông
đảng viên. Phần đông cố nhiên đã hiểu biết vì dân, vì nước mà vào Đảng.
Nhưng cũng có phần vì lẽ khác mà theo Đảng. Có người tưởng vào Đảng thì
dễ tìm công ăn việc làm. Có người vào Đảng mong làm chức này, tước nọ. Có
người vì anh em bạn hữu kéo vào, v.v.. Đảng phải cảm hóa họ, dạy dỗ họ,
nâng cao sự hiểu biết và lòng phụ trách của họ lên dần dần, để họ có thể trở
thành những "người chiến sĩ khá". Biện pháp thiết thực là thường xuyên tự
phê bình và phê bình ráo riết. Khái quát những vấn đề đã nêu ở trên, Hồ Chí
Minh cho rằng, tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của

Đảng, đây là nguyên tắc có ý nghĩa sâu sắc bao trùm nhất. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: "Trong bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị bọn thực
dân khủng bố gắt gao và Đảng ta gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, nhưng
Đảng ta ngày càng phát triển, càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm
cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng
cái vũ khí sắc bén phê bình và tự phê bình" 15. Tự phê bình và phê bình được
Hồ Chí Minh xác định là một trong 12 điều "Tư cách của Đảng chân chính
cách mạng.
Mục đích của tự phê bình và phê bình theo Hồ Chí Minh: "Mục đích
phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa chữa cách
làm cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ" 16. Mục đích là
cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa những khuyết
điểm. Bởi lẽ, người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết
điểm; mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Do vậy, mục
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG Hà Nội, 1995, tr. 262 - 263
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG Hà Nội, 1995, tr. 317
16 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 232
14

15

10


đích tự phê bình và phê bình là làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở
như hoa mùa xuân, phần xấu bị mất dần đi. "Phê bình cho đúng, chẳng những
không làm giảm thể diện và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại, còn làm
cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín thể diện càng
tăng thêm"17.
Mục đích của tự phê bình và phê bình mà Hồ Chí Minh chỉ ra chứa

đựng yếu tố cách mạng và tính nhân văn sâu sắc. Để đạt được mục đích ấy
cần phải có thái độ đúng, phương pháp đúng, nêu lên vấn đề phải có lý, có
tình, trên tình đồng chí, trên tình thương yêu giai cấp. Trước hết phải có thái
độ đúng trong tự phê bình và phê bình.
Nội dung tự phê bình và phê bình của Đảng theo Hồ Chí Minh bao gồm
toàn bộ các mặt hoạt động của Đảng và mọi cán bộ, đảng viên, hướng vào
thực hiện đường lối nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ chính trị của tổ chức
đảng, vào tư cách đảng viên, chức trách nhiệm vụ của họ; hướng vào việc
chỉnh đốn Đảng, phê phán những quan điểm lệch lạc sai trái, những biểu hiện
thoái hoá về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng.
Hình thức tự phê bình và phê bình của Đảng theo Hồ Chí Minh bao
gồm tự phê bình của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới đối với cấp trên và
cùng cấp; thông qua các hội nghị sinh hoạt chi bộ, cấp uỷ, các đại hội Đảng,
các đợt sinh hoạt chính trị, các chế độ kiểm tra, báo cáo, qua các phương tiện
thông tin đại chúng, qua sự góp ý kiến của quần chúng.
Phương pháp tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh là
phải nắm vững nguyên tắc, mềm dẻo về cách thức. Theo Người việc khéo léo
sử dụng tự phê bình và phê bình sẽ làm tăng tác dụng của nó. Ngược lại
không khéo sử dụng tự phê bình và phê bình thì tác dụng thấp thậm chí nó
gây hậu quả xấu đến đoàn kết thống nhất, làm giảm sức mạnh của Đảng. Theo
Hồ Chí Minh tự phê bình và phê bình phải nắm vững nguyên tắc, tuân thủ
nghiêm ngặt Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng;
17

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 284.

11



tôn trọng và bảo vệ lợi ích của toàn Đảng; phải được tiến hành trong khuôn
khổ tổ chức; phải cụ thể, thiết thực, kịp thời, bảo đảm khách quan, trung thực
thẳng thắn chân thành, công khai. Trên cơ sở những nguyên tắc đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh yêu cầu phê bình mình cũng như phê bình người, phải triệt để,
thật thà không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết
điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình
việc làm chứ không phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui
lòng nhận để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét. Hồ
Chí Minh còn chỉ rõ "phải suy tính cho kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa,
chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy"18 . "Để chữa khỏi những bệnh kia, ta phải
tự phê bình ráo riết, và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật mà ráo riết
phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau" 19. Trong lúc phê
bình, khuyết điểm phải vạch ra rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc đến. Phải
biết khuyến khích nhau, bắt chước nhau, giúp nhau tiến bộ.
Hồ Chí Minh yêu cầu tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, liên
tục, kiên trì. "Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê
bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong đảng
sẽ không có bệnh mà đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng"20. Nếu không làm thường
xuyên thì khuyết điểm sẽ ngày càng tích tụ nhiều lên, lấn át ưu điểm. Những
cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, tham ô, tham nhũng, vi phạm tư cách
đảng viên, nguyên nhân suy cho cùng là do không thường xuyên tự phê bình
và tiếp thu phê bình. Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh nếu không kiên quyết sửa
chữa khuyết điểm của chúng ta thì cũng như giấu diếm bệnh tật trong mình,
không dám uống thuốc để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính
mệnh. Phát hiện càng sớm, điều trị bệnh càng chóng khỏi; để bệnh nặng rất
khó chữa, thậm chí có khi không chữa nổi.
Người đã dùng câu ngạn ngữ của cha ông ta: "Thuốc đắng dã tật, nói
thật mất lòng" để nói lên vai trò của tự phê bình và phê bình đồng thời nhắc
1818


Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 238.
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 238.
2020 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 239.
1919

12


nhở cán bộ, đảng viên cần đề phòng những biểu hiện tâm lý, tư tưởng, nhận
nhận thức không đúng về tự phê bình và phê bình. Người chỉ rõ, khen thì dễ
nhưng "phê" thì rất khó. Ai cũng muốn được khen mà không muốn bị chê,
chê là đụng chạm đến khuyết tật của con người, đụng chạm đến nó là sẽ đau.
Chính vì thế trên thực tế, không ít người sợ bị phê bình và ngại phê bình
người khác. Đó là một khuyết điểm.
Mặt khác, tự phê bình và phê bình phải thật sự dân chủ mới mong trong
Đảng có nhiều sáng kiến, mới tập trung được trí tuệ. Hồ Chí Minh vạch rõ
hiện tượng mất dân chủ, khiến cho "các đảng viên và cán bộ dù có ý kiến
cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình"21. Điều
đó dễ dẫn đến hậu quả: Cấp trên và cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với
Đảng xa rời nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì cái gì cũng
không dám nói rõ ra. Họ không nói vì sợ bị "trù". Không dám nói ra thì họ cứ
để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra "không nói trước mặt,
chỉ nói sau lưng", "trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm", sinh ra thói
"thậm thà thậm thụt và những thói xấu khác."…
Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ vừa phải dân chủ lắng nghe ý kiến
phê bình của cấp dưới, của quần chúng, vừa phải "biết cách phê bình sáng
suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết
điểm của mình, để tự mình sửa chữa" 22. Trong khi chỉ ra những yêu cầu về
thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình, Hồ Chí Minh cũng đã thẳng
thắn phê bình những biểu hiện tiêu cực về thái độ phê bình của một bộ phận

cán bộ, đảng viên.
Trong Đảng có một bộ phận "sao cũng mặc kệ, sao xong chuyện thì
thôi", không phê bình, không tự phê bình. Hồ Chí Minh coi đó là thái độ của
những cán bộ, đảng viên ươn hèn yếu ớt. Hoặc có biểu hiện lợi dụng sai lầm,
khuyết điểm của người khác để đạt mục đích tự tư tự lợi, đó là thái độ "của kẻ
đầu cơ". Hoặc một số khác thì "đối với những người có khuyết điểm và sai
2121
2222

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 243.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 244.

13


lầm đó, như đối với hổ mang, thuồng luồng. Họ đòi hỏi phải đuổi bọn kia ra
khỏi Đảng ngay. Nếu không làm như thế thì họ cho rằng: thôi hỏng hết rồi!
Do đó họ đâm ra chán nản, thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa hết. Thậm
chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ của những người máy móc quá. Đó cũng là
bệnh chủ quan"23.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, một
thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm trong tự phê
bình và phê bình. Đối với những người mắc bệnh "cá nhân" thì không phê
bình trước mà mặt để nói sau lưng. Khi sinh hoạt không nói gì, ra ngoài mới
nói. Không bao giờ đề nghị gì với Đảng. Ai có ưu điểm cũng không chịu học
theo, ai có khuyết điểm cũng không dám phê bình. Còn khi họ phê bình ai thì
không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà vì
"công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí".
Cần phải đề phòng tư tưởng cho rằng, chỉ người có cái tâm trong sáng,
có đức rộng, tài cao mới tự phê bình và phê bình được tốt; còn khi người đã

có khuyết điểm nói chẳng ai nghe. Quan niệm như vậy là có mặt đúng nhưng
mới là một chiều, đem đối lập giữa "người đúng" và "người sai", đối lập giữa
người "đức rộng, tài cao" với người có khuyết điểm; như vậy là chưa thấm hết
cái tinh thần cách mạng, khoa học, tính nghệ thuật trong tự phê bình và phê
bình của Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh. Thực tiễn cuộc sống luôn vận
động. Cái "tâm" cái "đức" cũng không bất biến mà nó vận động cả ở góc độ
chuẩn giá trị cộng đồng, cả ở góc độ với mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên. Vì
vậy, nếu quan niệm "tâm" "đức" là cái gốc rễ sức sống của tổ chức, của cách
mạng thì tự phê bình và phê bình là quá trình trao đổi chất thường xuyên giúp
cho việc không ngừng củng cố, bồi bổ cho sức sống ấy.
Hơn nữa, tự phê bình và phê bình thường xuyên còn làm cho cái "tâm"
cái "đức"- thuộc lĩnh vực tinh thần, tư tưởng - luôn ăn sâu, gắn chặt mà không
xa rời những điều kiện vật chất của nó; luôn theo kịp sự vận động của thực
tiễn. Tự phê bình và phê bình không phải là phương thuốc quý, là cái quyền
2323

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 264.

14


cho riêng ai, mà nó là quyền lợi, là nghĩa vụ, là đặc trưng phẩm chất cao quý
của tất cả những người cách mạng. Tự phê bình và phê bình giúp người có
khuyết điểm thì tiến bộ hơn lên, người tiến bộ thì tiến bộ mãi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: "Trong công tác, trong tranh đấu,
trong huấn luyện, các đảng viên, các cán bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi mình,
tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê
bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng
ta nhất định thắng lợi"24. Trong tự phê bình và phê bình phải đặt lợi ích của
Đảng lên trên hết, kiên quyết chống bệnh tự mãn, kiêu ngạo, tự tư tự lợi, ba

hoa. Phải thực hành khẩu hiệu "chí công vô tư".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình có giá trị lịch sử và
ý nghĩa lý luận, thực tiễn to lớn đối với Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ,
đảng viên ta. Những tư tưởng đó đã kịp thời định hướng, nâng cao nhận thức
và cổ vũ hoạt động tự phê bình và phê bình, khắc phục kịp thời những khuyết
điểm yếu kém của cán bộ, đảng viên và các tổ chức Đảng trong suốt quá trình
xây dựng và hoạt động lãnh đạo cách mạng. Thực tiễn qua hơn 83 năm xây
dựng và trưởng thành của Đảng đã chứng minh: ở đâu, nơi nào, khi nào, đảng
viên và tổ chức đảng nhận thức đầy đủ, có động cơ đúng, hành động kiên
quyết thì tự phê bình và phê bình phát huy tác dụng; ngược lại thì tự phê bình
và phê bình chỉ còn là hình thức, nửa vời, thậm chí trở thành công cụ cho
những kẻ vụ lợi, phá hoại Đảng. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê
bình là góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh.
2. Nhận thức và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vê tự phê
bình và phê bình
2.1. Tự phê bình và phê bình trong quá trình xây dựng Đảng
Quán triệt và thực hiện quan điểm về tự phê bình và phê bình theo quan
điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí minh, trong suốt quá
trình xây dựng và hoạt động, Đảng ta luôn coi trọng tự phê bình và phê bình.
Đảng ta khẳng định tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là
2424

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 265.

15


thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng và là ý thức, trách nhiệm của
Đảng với nhân dân. Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng để giải
quyết mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, để giữ vững và tăng cường bản chất giai

cấp công nhân của Đảng. Đảng là một tổ chức chính trị, tất yếu trong quá
trình vận động, phát triển, nội bộ Đảng sẽ nảy sinh mâu thuẫn. Đó là mâu
thuẫn giữa ưu điểm và khuyết điểm, cái mới và cái cũ, tiến bộ và lạc hậu…
nhưng đây không phải là mâu thuẫn đối kháng mà là mâu thuẫn nội bộ trong
một chỉnh thể thống nhất. Vì vậy giải quyết những mâu thuận đó không phải
bằng dấu tranh giai cấp, bài trừ nhau mà bằng tự phê bình và phê bình.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền và trong những lúc chuyển giai đoạn,
vấn đề tự phê bình và phê bình càng trở nên cần thiết, cấp bách hơn. Bởi vì,
Đảng phải giải quyết nhiều nhiệm vụ nặng nề, nhiều vấn đề mới phức tạp và
luôn luôn vận động nảy sinh, đòi hỏi Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải
có trình độ, phẩm chất, năng lực hoạt động thực tiễn ngang tầm với đòi hỏi
của cách mạng. Sự nắm bắt và nhận thức của cán bộ, đảng viên không thể
ngay lập tức đạt được sự sâu sắc mọi vấn đề; đồng thời càng khó tránh khỏi
những khuyết điểm sai lầm. Thông qua tự phê bình và phê bình chẳng những
giúp tổ chức đảng, cán bộ đảng viên vững vàng hơn về bản lĩnh chính trị,
nâng cao được đạo đức cách mạng, mà còn nâng cao được kiến thức, trình độ,
năng lực và đổi mới được phương pháp, tác phong công tác; phẩm chất đạo
đức được bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách.
Chính nhờ có sự trung thành, quán triệt và vận dụng đúng đắn quan
điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và
phê bình trong xây dựng và hoạt động, Đảng đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết,
mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình
trong toàn Đảng, mà Đảng mới có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đạt được những thành tựu to lớn
có ý nghĩa lịch sử.

16


Thực tiễn đã chứng minh: khi nào nguyên tắc tự phê bình và phê bình

bị buông lỏng, sao nhãng, hoặc thực hiện không đúng với tinh thần, tư tưởng
Hồ Chí Minh thì khi đó, tổ chức Đảng không thể vững mạnh, thậm chí rơi vào
tình trạng suy thoái, nguy cơ mất còn đối với Đảng, với sự nghiệp Cách mạng
của Đảng được đặt ra. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã báo động về
nguy cơ này khi nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu
hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ
hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham
nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”25. Tình trạng đó “đã làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức
đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI đã vạch rõ những nguyên nhân khách quan và chủ
quan của tình trạng trên đây, trong đó nhấn mạnh một nguyên nhân chủ quan:
“các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa
bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở
cho công tác kiểm tra, giám sát...”26.
Liên hệ với thức tế công tác xây dựng Đảng nói chung, trong sinh hoạt
đảng nói riêng trước khi có Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, việc tự phê
bình và phê bình diễn ra thường xuyên, đều đặn trong các kỳ sinh hoạt ở chi
bộ đảng. Nhưng thực chất ở nhiều tổ chức đảng buông lỏng, nặng tính hình
thức, làm qua loa, lấy lệ, “dĩ hòa vi quý”. Nhiều buổi tự phê bình và phê bình
biến thành những buổi tự khen mình và ca ngợi, tâng bốc, khen lẫn nhau, đặc
biệt với đảng viên có chức có quyền, người phê bình có nói chút ít đến khuyết
điểm, hạn chế nhưng chỉ là những thứ “vô thưởng vô phạt”, nói cho có ưu có
khuyết. Rất hiếm khi tự mổ xẻ, bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém thực sự
của mình, của đồng chí mình (về năng lực, trình độ, tư tưởng chính trị và đạo
25
26


Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 BCHTƯ (khóa XI, Báo Nhân Dân, số 20587, ngày 18-1-2012.
Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 BCHTƯ (khóa XI, Báo Nhân Dân, số 20587, ngày 18-1-2012.

17


đức, lối sống). Đặc biệt, những sai lầm, khuyết điểm, kể cả tội lỗi thực sự mà
mình biết, hoặc có dư luận (như tham nhũng, hối lộ, vô kỷ luật, vô nguyên
tắc, quan hệ bất chính..) thì càng không thể và không dám nói ra. Phê bình
theo lối: “cái tốt thì phô ra, cái xấu xa thì đậy lại”, triết lý “không đụng đến ta
thì ta không đụng đến người” được ngầm thỏa thuận, hiểu với nhau... Có tình
trạng đảng viên ít phát biểu trong sinh hoạt chi bộ, nhưng ngoài chi bộ lại nói
trái với nghị quyết của Đảng, của chi bộ. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,
thái độ an phận, e dè, nể nang, ngại đụng chạm, thờ ơ, ngậm miệng, thấy đúng
không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”... Thực tế có nhiều cán bộ, đảng
viên, nhất là những người có chức có quyền mắc tội tham nhũng, hối lộ, sa
đọa về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, nhưng hầu hết đều không do chi
bộ, cơ quan, đơn vị tự phát hiện, tự đưa ra ánh sáng, mà phải đến khi bị lộ bởi
tai mắt nhân dân, báo chí, sa lưới pháp luật thì chi bộ, cơ quan, đơn vị mới
biết. Thậm chí ở nhiều nơi, do đánh giá cán bộ, đảng viên không đúng mà
không khí phê bình rất nặng nề. Ðánh giá cán bộ là việc khó, ý kiến thường
khác nhau. Nhưng sẽ không khó khi người đứng đầu cấp ủy, đơn vị thật sự
công tâm, trong sáng, không sa vào bè phái, cục bộ, bản vị. Sẽ không khó khi
luôn lắng nghe mọi người, từ các đồng chí lãnh đạo đến nhân viên phục vụ,
để sàng lọc, phân tích. Ðiều rất quan trọng trong phê bình là phải đánh giá
đúng người, đúng việc. Ðánh giá sai, phê bình sẽ chệch hướng, thậm chí phản
tác dụng, biến phê bình thành nơi công kích lẫn nhau, nói xấu và bôi nhọ danh
dự người khác…Có thể nói nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong một thời
gian dài, qua mấy nhiệm kỳ đại hội Đảng đã bị buông lỏng, bị hình thức hóa,
những nguyên tắc, phương pháp, mục đích, ý nghiã thực sự của tự phê bình

và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh bị vô hiệu hóa, bị vi phạm nghiêm
trọng. Hậu quả là trong toàn Đảng đã có “một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống”, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” gây mất niềm tin trong nhân dân. Nếu tình trạng này không

18


được ngăn chặn, khắc phục sẽ là nguy cơ, thách thức đối với sự tồn vong của
Đảng, của chế độ như Nghị quyết Trung ương 4 nhận định.
Nguyên nhân của yếu kém trong tự phê bình và phê bình:
Thứ nhất, là do bị chi phối bởi chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội và sự
thiếu dân chủ trong Đảng, nên đảng viên không muốn, không dám tự phê bình
và phê bình lẫn nhau một cách chân thành, thực sự. Do vậy, tâm lý thực dụng,
cơ hội phát triển, người phê bình trung thực, thẳng thắn nói rõ khuyết điểm,
tội lỗi của mình thì “lạy ông tôi ở bụi này”. Người muốn thẳng thắn phê bình,
nói đúng sự thật yếu kém, khuyết điểm, tội lỗi của người khác thì sợ căng
thẳng, mất lòng, “mất phiếu tín nhiệm”, cấp dưới càng không dám thẳng thắn
phê bình cấp trên vì sợ bị trù dập, trả thù, “đấu tranh thì tránh đâu!”.
Thứ hai, công tác tổ chức của Đảng cũng thiếu những quy định cụ thể,
thiết thực cho việc tự phê bình và phê bình để làm cơ sở cho công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng cũng như của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên.
Cũng thiếu những cơ chế, quy định cụ thể để phát huy dân chủ trong Đảng và
phát huy quyền làm chủ của người dân tham gia xây dựng Đảng. Ở nhiều tổ
chức đảng hầu như “đóng cửa để bảo nhau”, công tác xây dựng Đảng nói
chung, việc tự phê bình và phê bình nói riêng xem như là công việc nội bộ
của Đảng, trong khi Đảng là lực lượng lãnh đạo quyết định vận mệnh của đất
nước, của nhân dân.
Ngày nay, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, chứa
đựng những yếu tố khó lường. Đảng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công

cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của Đảng rất nặng nề, phạm vi, quy mô
lãnh đạo ngày càng mở rộng, đối tượng lãnh đạo đa dạng, phức tạp; vai trò
lãnh đạo của Đảng tăng lên, đòi hỏi Đảng phải luôn luôn thực sự trong sạch
vững mạnh. Trong khi đó, cuộc sống sinh hoạt của cán bộ, đảng viên chịu
nhiều chi phối, tác động của nhiều yếu tố, cả tích cực và tiêu cực. Do những
tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, sự du nhập lối sống
19


ngoại lai, lối sống tư sản thực dụng và các tệ nạn xã hội… đã tác động, làm
nhiều người thay đổi về quan niệm thang giá trị đạo đức xã hội, làm xói mòn
nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp. Đó là những nguy cơ đe dọa sự sống còn
của Đảng và của cả hệ thống chính trị.
Trên cơ sở nhận thức đó và để tự phê bình và phê bình có hiệu quả,
khắc phục những hạn chế, yếu kém, lệch lạc trước đây, Đồng thời để thực
hiện tốt những nội dung, yêu cầu mới theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4
– khóa XI cần thực hiện tốt những giải pháp sau:
2.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tự phê
bình và phê bình trong giai đoạn hiện nay
Một là, phải làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao
nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về cuộc vận động tự phê bình
và phê bình.
Thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, làm
cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ tự phê bình và phê bình là
một nguyên tắc, là quy luật của quá trình tồn tại, phát triển của Đảng. Mỗi
thời kỳ cách mạng, Đảng có những yêu cầu mới về nhận thức, hành động. Vì
thế tự phê bình và phê bình là giúp ta tự thoát ra khỏi những gì bất cập, lạc
hậu để vươn tới đáp ứng những yêu cầu mới. Nếu ai đó không nhận rõ quy

luật này, ắt sẽ bị đào thải như Bác Hồ đã chỉ rõ. Đây là sự thống nhất biện
chứng của quy luật tồn tại, phát triển của mỗi đảng viên với toàn Đảng.Đồng
thời, thông qua giáo dục làm cho mọi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc hơn
nữa vai trò, sự cần thiết phải đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, mục đích,
phương pháp tiến hành tự phê bình và phê bình. Trên cơ sở đó, kiên quyết
duy trì thực hiện nghiêm túc nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong các
cấp ủy, tổ chức đảng. nâng cao giác ngộ lý tưởng cách mạng, trình độ kiến
thức mọi mặt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân (nhất là giáo dục chủ nghĩa
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta) nhằm nâng cao
20


kiến thức toàn diện cho họ, để họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, hiểu biết
sâu rộng, trung thực, thẳng thắn, dám bảo vệ cái đúng, phê bình cái sai, khắc
phục tình trạng che dấu sự thật, nể nang, sợ trù dập mà không dám phê bình.
Hai là, mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch; nâng cao trình độ,
kiến thức các mặt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cơ sở cho mọi
người tham gia tự phê bình và phê bình, giám sát, góp ý lẫn nhau.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cơ
quan, đơn vị, cấp ủy cần nêu gương, khuyến khích cán bộ, đảng viên tự phê
bình và phê bình, mạnh dạn nhận khuyết điểm, yếu kém của mình để sửa
chữa. Trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, các cấp ủy đảng thực hiện nền
nếp, chất lượng việc chất vấn, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật và nêu cao tính
chiến đấu nhằm tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng. Đồng thời,
phải công khai hoá mọi chủ trương có liên quan đến quần chúng theo tinh
thần dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, tinh thần phát huy dân chủ, nhất
là dân chủ trực tiếp thì tự phê bình và phê bình mới đạt hiệu quả cao. Cấp uỷ
phải xác định nội dung cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tế ở cơ quan, đơn vị
mình để quần chúng góp ý phê bình cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ
chốt, như: quần chúng xem xét đánh giá cán bộ, đảng viên qua việc quán triệt

chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, năng lực tổ chức
thực hiện và hiệu quả đem lại; về tinh thần trách nhiệm, ý thức lo lắng công
việc, ý thức tổ chức kỷ luật và tính năng động sáng tạo trong việc chấp hành
đường lối, chính sách, ý thức chăm lo đời sống của nhân dân, lối sống trong
sạch lành mạnh, giản dị, ý thức trong phòng và chống quan liêu, tham nhũng,
độc đoán, chuyên quyền, hách dịch, “quan cách mạng”.
Ba là, xây dựng động cơ trong sáng, phát huy tính tiên phong, vai trò
gương mẫu của cấp ủy và vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ chủ chốt
trong tự phê bình, phê bình.
Động cơ trong sáng, phương pháp đúng đắn là điều kiện quan trọng
đảm bảo sự thành công của tự phê bình và phê bình. Bởi vì, tự phê bình và
21


phê bình trong sinh hoạt đảng phải bắt nguồn từ ý thức tự giác của mỗi đảng
viên về vai trò, trách nhiệm của mình, đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm và
tình cảm với đồng chí, đồng đội.
Động cơ trong sáng thể hiện ở thái độ khách quan, nhìn thẳng sự thật,
đánh giá đúng sự thật, không né tránh, nể nang, không tô hồng, bôi đen; các
biện pháp khắc phục, sửa chữa phải cụ thể, thiết thực, khả thi. Tự phê bình và
phê bình trên tinh thần, thái độ thực sự cầu thị, thấy đúng phải khích lệ, thấy
sai dám nhận, dám phê phán và thể hiện rõ thái độ nghiêm túc sửa chữa. Tự
phê bình và phê bìnhphải trên tinh thần thương yêu đồng chí, đồng đội, vì
mục đích giúp đỡ đồng chí mình, cần đánh giá đúng mức sai lầm, chỉ ra biện
pháp khắc phục, sửa chữa. Mỗi cán bộ, đảng viên cần biết lắng nghe, tôn
trọng, bình tĩnh trước những ý kiến trái ngược.
Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải nêu gương trước. Khi người
đứng đầu có những vi phạm, “há miệng mắc quai” thì không nói được ai. Nếu
người đứng đầu gương mẫu tự phê bình trung thực sẽ có tác động tích cực,
khuyến khích đảng viên thực hiện tự phê bình và phê bình thẳng thắn. Khi cấp

trên thực sự có thái độ chân thành, cầu thị trong tự phê bình và tiếp thu phê
bình, dám thẳng thắn, nghiêm khắc tự phê bình bản thân, dũng cảm nói thẳng,
nói thật, tự phân tích những ưu điểm cũng như những hạn chế, khuyết điểm
của mình thì cấp dưới mới có thể dám mạnh dạn, thẳng thắn trong đóng góp
phê bình cấp trên, phê bình đồng chí đồng đội và tự phê bình bản thân. Ngược
lại, sẽ dẫn đến tình trạng dĩ hòa vi quý, bao che, né tránh khuyết điểm, biết
đúng không bảo vệ, biết sai không đấu tranh. Cấp trên phải nêu gương cho
cấp dưới về sự trung thực, dũng cảm, thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, đồng
thời phải khiêm tốn tiếp thu mọi ý kiến phê bình với thái độ thực sự chân
thành, cầu thị, không trù dập người phê bình và phải có lòng nhân ái, bao
dung, độ lượng, ân cần chỉ bảo cấp dưới khắc phục những hạn chế, khuyết
điểm để cùng tiến bộ.

22


Bốn là, duy trì tốt nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt Đảng.
Từng tổ chức đảng phải thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, duy
trì nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình. Công tác tự phê bình và phê bình
phải được duy trì thành chế độ thường xuyên, định kỳ và tổ chức sinh hoạt
theo chuyên đề , thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình trong
cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp từ trung ương đến cơ sở. Tự phê bình và phê
bình phải vừa giữ đúng nguyên tắc, vừa phải có tính thuyết phục, có lý, có
tình; kiên trì, bền bỉ, thường xuyên, liên tục, không chủ quan, nóng vội, máy
móc, cứng nhắc. Và, cũng kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp cố tình
không tự giác nhận và sửa chữa khuyết điểm, những trường hợp cố tình bao
che sai phạm, khuyết điểm. Xây dựng quyết tâm chính trị cao của mọi cán bộ
đảng viên, thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan,
không nể nang, né tránh. Nghị quyết Trung ương 4- khóa XI đã đặc biệt nhấn

mạnh phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, nhất là cán
bộ cấp cao trong tự phê bình và phê bình. Nghị quyết chỉ rõ: Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng, cán bộ chủ chốt, nhất
là cấp Trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu để
cho các cấp noi theo; phải làm kiên quyết, kiên trì, xác định rõ lộ trình thực
hiện, thời gian hoàn thành, làm từng bước vững chắc, thường xuyên kiểm tra,
giám sát chặt chẽ. Nghị quyết cũng chỉ rõ làm tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng
cũng chính là để thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị. Do đó, phải kết hợp tự
phê bình và phê bình với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và trên cơ sở
nhiệm vụ chính trị để tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình. Để đợt tự
phê bình và phê bình lần này có hiệu quả, các cấp ủy, tổ chức đảng phải bình
tĩnh, tỉnh táo, không nóng vội, cực đoan; đồng thời, không để rơi vào trì trệ,
hình thức, không chuyển biến được tình hình; phải giữ đúng nguyên tắc,
không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng, kích động,
xuyên tạc, đả kích gây rối nội bộ.
23


Năm là, kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong Đảng với động
viên, tổ chức cho quần chúng tham gia phê bình đảng viên và tổ chức Đảng.
Nếu chỉ tự phê bình và phê bình trong Đảng thì chưa thể khẳng định
thật rõ và khách quan những ưu điểm, thành tựu và cũng chưa thể chỉ rõ và
tìm cách khắc phục triệt để những khuyết điểm của tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên. Việc quần chúng góp ý kiến phê bình cho tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên là nguồn cung cấp thông tin quan trọng và cần thiết cho tổ chức
đảng nghiên cứu, xem xét đánh giá hoạt động của mình, cũng như phẩm chất,
năng lực của cán bộ, đảng viên. Nó gợi mở cho tổ chức đảng những cách
thức, phương pháp thực hiện nhiệm vụ và sửa chữa những khuyết điểm sai
lầm. Bởi vậy, việc quần chúng phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên là
nhân tố quan trọng để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của Đảng.

Mặt khác, việc nhân dân tham gia xây dựng Đảng cũng là rất hợp đạo lý. Vì
Đảng là lực lượng lãnh đạo, quyết định vận mệnh của đất nước, của nhân dân.
Nhân dân đã từng gửi gắm niềm tin yêu vào Đảng Cộng sản Việt Nam, coi đó
là Đảng của mình, và thường gọi là “Đảng ta”. Bởi đó là Đảng do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện với hơn 83 năm lịch sử vẻ vang đã có
công lao to lớn với đất nước, mang lại nhiều quyền lợi thiết thực cho nhân
dân. Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là “Đảng toàn dân”, nhưng Đảng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, là đội tiên phong và đại biểu cho lợi
ích, trí tuệ của toàn thể nhân dân và dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, người dân
phải có quyền tham gia xây dựng Đảng, và Đảng phải có cơ chế, quy định cụ
thể, thiết thực (không hình thức) để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, phê
bình, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chức trách
nhiệm vụ của họ. Những cơ chế, quy định đó phải cụ thể, thiết thực để khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi, dễ làm cho người dân muốn tham gia đóng
góp xây dựng Đảng. Làm được như thế không những hợp đạo lý mà còn hợp
lòng dân, chắc chắn sẽ được nhân dân đồng tình, ủng hộ và tham gia tích cực.
Bởi lẽ, lòng Dân và ý Đảng đã đồng hướng
24


Sáu là, phối hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình với công tác kiểm
tra, giám sát, công tác thanh tra và tăng cường kỷ luật
Việc phối hợp tự phê bình và phê bình với công tác kiểm tra, giám sát,
công tác thanh tra và tăng cường kỷ luật sẽ làm cho chất lượng tự phê bình và
phê bình được nâng lên. Thực tiễn cho thấy việc kết hợp tự phê bình và phê
bình với công tác kiểm tra, giám sát, công tác thanh tra của cấp uỷ và các cơ
quan chức năng đã đạt hiệu quả trong phát hiện và xử lý những cán bộ, đảng
viên tham ô, hối lộ, tham nhũng, những kẻ trù dập người phê bình, những kẻ
cơ hội lợi dụng tự phê bình và phê bình để đả kích gây chia rẽ nội bộ. Vì vậy
phải thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, công tác thanh tra, kịp

thời phát hiện và xử lý nghiêm những tổ chức đảng, đảng viên không thực
hiện tốt nghị quyết, chỉ thị của Đảng về tự phê bình và phê bình, nhất là
những người có thái độ thành kiến, trù dập người phê bình; cần làm rõ những
hạn chế, thiếu sót; có khuyết điểm phải xem xét kỷ luật nghiêm túc để nêu
gương, bảo đảm thực hiện "nói đi đôi với làm". Không thực hiện xử lý kỷ luật
nghiêm dẫn đến coi thường kỷ luật, lẫn lộn trắng đen, tốt, xấu, dung dưỡng
cho cái ác hoành hành. Không xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có
khuyết điểm sẽ còn tiếp tục gây mất niềm tin của đảng viên và nhân dân với
Đảng. Trong tình hình hiện nay, rất cần nêu cao tính chiến đấu, kiên quyết
xem xét, xử lý kỷ luật đối với cá nhân, tổ chức sai phạm. Đây cũng là một giải
pháp cấp bách để thực hiện phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong Đảng hiện nay. Đồng thời, phải có biện pháp bảo vệ người
phê bình đã dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và chỉ có như
vậy mới đảm bảo cho tự phê bình và phê bình thực sự vì sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng và trong toàn xã hội.
KẾT LUẬN
Tự phê bình và phê bình không phải hai chuyện khác nhau mà là hai
mặt của cùng một vấn đề. Tự phê bình và phê bình như tự mình soi gương và
người khác soi cho mình để thấy được cái hay, cái dở, mặt ưu, mặt khuyết của
25


×