Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại nngân hàng BIDV chi nhánh Khoái Châu – Hưng Yên (LV tốt nghiệp)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.41 KB, 66 trang )

................................................................................................................................
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG ĐÔ
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG TMCP BIDV- CHI NHÁNH KHOÁI CHÂU

Giảng viên hướng dẫn : Ths- Nguyễn Bích Ngọc
Sinh viên thực hiện
Khóa
Chuyên ngành

: Trần Văn Tùng
: TC1- Khóa 18
: Tài chính – Ngân hàng

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng em. Các số liệu trong báo cáo là hoàn
toàn trung thực, chính xác xuất phát từ thực tiễn của Ngân hàng TMCP BIDV chi nhánh
Khoái Châu.
Hà Nội ngày 5 tháng 05 năm 2017
Sinh viên
Trần Văn Tùng

LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp đại học được hoàn thành tại Trường đại học Đông Đô Hà Nội. Có được


bản khóa luận tốt nghiệp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Trường đại
học Đông Đô và Trường Học viện Ngân hàng, đặc biệt là;
Ths: Nguyễn Bích Ngọc đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ em những chỉ dẫn kiến
thức quý giá trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Giải pháp nâng
cao chất lượng tín dụng tại nngân hàng BIDV chi nhánh Khoái Châu – Hưng Yên”. Xin
chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy truyền đạt những kiến thức
chuyên ngành tài chính ngân hàng cho bản thân em trong những năm tháng qua. Em rất mong
nhận được sự đóng góp, phê bình của Quý thầy cô!
Xin chân thành cảm ơn!


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển, trong sự phát triển
kinh tế - xã hội, ngân hàng là một yếu tố không thể thiếu bởi các chức năng cơ bản của
nó: là trung gian tài chính, trung gian thanh toán, tạo phương tiện thanh toán…nếu nói
kinh tế là một hệ thống bao gồm các yếu tố cơ bản cần thiết thì hệ thống trung gian tài
chính nói chung và NHTM nói riêng đóng một vai trò không nhỏ trong cơ cấu guồng
máy của toàn hệ thống.
Xã hội ngày càng thay đổi, phát triển, để có thể đáp ứng được những nhu cầu luôn
luôn thay đổi của nền kinh tế, hệ thống NHTM của Việt Nam cũng đã có những đổi
mới đáng kể, hoạt động của các ngân hàng từng bước dần được hoàn thiện, quy mô
ngày càng lớn mạnh, đa dạng các loại hình dịch vụ, hoạt động hướng tới đông đảo các
tầng lớp xã hội,….
Như đã nói ở trên, hoạt động của ngân hàng là rất đa dạng, bao gồm rất nhiều các
dịch vụ, và một trong các nghiệp vụ quan trọng nhất của ngân hàng là nghiệp vụ tín
dụng. Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa phát triển,
nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là rất lớn, tích lũy không kịp
để mở rộng, do đó các doanh nghiệp cần sử dụng vốn để thực hiện mục đích của mình,
khi đó cần tới các tổ chức trung gian tài chính thực hiện nhiệm vụ luân chuyển vốn từ

nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Ở những nước phát triển, ngoài những NHTM còn có
các công ty bảo hiểm, công ty tài chính… làm nhiệm vụ này, nhưng ở nước ta hiện nay
chủ yếu mới có chỉ có hoạt động tín dụng ngân hàng làm nhiệm vụ này, do đó hoạt
động tín dụng không chỉ quyết định tới sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế. Vậy
nên thực hiện công tác tín dụng đạt hiệu quả, chất lượng tốt, giảm thiểu rủi ro là mục
tiêu đề ra của bất cứ một NHTM nào, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, việc đảm bảo
chất lượng tín dụng đã có phần khó khăn hơn trước, chất lượng tín dụng có cao hay
không ngoài việc phụ thuộc vào trình độ của thẩm định viên, quy trình tín dụng của
ngân hàng,…Nó còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khách quan khác mà con người
không thể dự đoán hết được. Các ngân hàng thương mại ngoài việc phải đảm bảo được
chất lượng tín dụng mà còn phải tham gia vào các cuộc chạy đua lãi xuất khiến cho các
NHTM rơi vào tình trạng khó khăn. Do đó, việc nâng cao chất lượng tín dụng là vô
cùng cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động
tín dụng cho nền kinh tế nói riêng.
Được thành lập từ năm 1957 đến nay ngân hàng BIDV đã trở thành NHTM lớn với
tổng giá trị tài sản lên tới ….tỷ đồng đội ngũ cán bộ nhân viên gần 25 ngàn cán bộ và
khỏang hơn 800 mạng lưới ngân hàng, phòng giao dịch trên toàn quốc, đồng thời thiết lập


quan hệ đại lý với ngân hàng Quốc gia và vùng lãnh thổ… do đó, việc ngiên cứu về 1
trong các ngân hàng của ngân hàng đầu tầu này mang một ý nghĩa rất quan trọng.
Xuất phát từ tình hình thực tế của ngân hàng BIDV chi nhánh Khoái Châu – Hưng Yên
em xin chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng BIDV chi
nhánh Khoái Châu –Tỉnh Hưng Yên”

2. Mục đích nghiên cứu
Thứ nhất, thông qua việc nghiên cứu những lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng,
hoạt động của NHTM, ta cần làm rõ tầm quan trọng của nguồn vốn tín dụng đối với
nền kinh tế cũng như việc phải đảm bảo chất lượng tín dụng, nâng cao chất lượng tín
dụng của ccas NHTM nói chung và ngân hàng BIDV chi nhánh Khoái Châu, Hưng

Yên.
Thứ hai, xem xét một cách thống nhất và tỏng quát thực trạng tín dụng tại ngân hàng
BIDV chi nhánh Khoái Châu, Hưng Yên để phát hiện những tồn tại và nguyên nhân tồn
tại.
Cuối cùng căn cứ vào những dữ liệu đã thu thập,xử lý và phân tích, đưa ra những đề
xuất, kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng BIDV
chi nhánh Khoái Châu, Hưng Yên.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng
của ngân hàng BIDVchi nhánh Khoái Châu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng đứng
trên góc độ ngân hang thương mại là người cho vay, nghiên cứu tín dụng và chất lượng
tín dụng của Ngân hàng BIDVchi nhánh Khoái Châu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng công cụ phân tích thông tin độc lập, các phương pháp nghiên cứu, phân tích,
so sánh thống kê, tổng hợp các biểu bảng cùng với phương pháp luận khoa học gắn
giữa lý thuyết và thực tiễn, phương pháp định tính và định lượng để đánh giá khái quát
tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng BIDV chi nhánh Khoái Châu, Hưng Yên.
5. Kết cấu của đề tài


Ngoài phần mở đầu và kết luận thì đề tài được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Lý thuyết chung về chất lượng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại BIDV chi
nhánh Khoái Châu, Hưng Yên.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân
hàng Thương mại BIDV chi nhánh Khoái Châu, Hưng Yên.
Phạm vi của đề tài là nghiên cứu nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Thương
mại BIDV chi nhánh Khoái Châu, Hưng Yên từ năm 2014 tới năm 2016. Trên cơ sở lý
luận và thực tiễn, bài viết đưa ra một số ý kiến nhằm phát triển hoạt động này tại ngân

hàng.
Để hoàn thiện đề tài này, em đã nhận được sự giúp đỡ vô cùng nhiệt tình và quý báu
của cô giáo ,Ths. Nguyễn Bích Ngọc. Bên cạnh đó, trong thời gian thực tập, em cũng
được sự giúp đỡ tận tình của các anh chị ở Ngân hàng Thương mại BIDV chi nhánh
Khoái Châu, Hưng Yên.

Em xin chân thành cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô
giáo và anh chị trong ngân hàng.

Sinh viên
Trần Văn Tùng


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CĂN BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1

Khái niệm và hoạt động của ngân hàng thương mại

1.1.1.1. Khái niệm tín dụng của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan
trọng trong nền kinh tế. Có nhiều quan điểm khác nhau về ngân hàng thương mại, theo đó
ngân hàng thương mại là tổ chức nhận tiền gửi để cho vay, ngân hàng thương mại là trung
gian tài chính có giấy phép của chính phủ để vay tiền và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các
khoản tiền gửi có thể dùng séc. Sở dĩ có nhiều quan điểm trên là do hoạt động của ngân hàng

thương mại rất đa dạng, nghiệp vụ lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi
chung của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất trong nền kinh tế.
Có nhiều khái niệm khác nhau về ngân hành thương mại chẳng hạn:
 Tại Mỹ: ngân hành thương mại được coi là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính.
 Tại Pháp: ngân hành thương mại là những tổ chức, xí nghiệp nhận của công chúng dưới
hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các dịch
vụ tài chính.
 Tại Việt Nam: theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước (nay
là chính phủ) ngân hành thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt dộng chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán
Như vậy thể hiểu một cách chung nhất Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ và cung ứng các loại hình dịch vụ vì mục đích lợi nhuận.


Tổng tài sản có của ngân hàng thương mại luôn có khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ
thống ngân hàng. Mặt khác, khối lượng séc hay tài khoản gửi không kỳ hạn mà nó có thể tạo
ra chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cung tiền tệ M1 của cả nền kinh tế:
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, ngân hàng được phân loại thành ngân hàng
thương mại, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp
tác…Trong đó, hoạt động cơ bản của ngân hàng là hoạt dộng kinh doanh tiền tệ và các dịch
vụ ngân hàng với hoạt động chính là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân
hàng như thanh toán, ký gửi, uỷ thác…
1.1.1.2.Các Hình thức tín dụng của Ngân hàng thương mại
Điều kiện tức là điều kiện về vốn, về cơ sở vật chất kỹ thuật, về con người nguồn nhân lực.
Ngân hàng thường có nhiều chi nhánh, sở hữu nhiều công ty, hoạt động trên nhiều lĩnh vực và

có thể có nhiều chi nhánh ở nước ngoài, tức là tổ chức bộ máy của ngân hàng thương mại phải
tuân theo một quy chuẩn và mang tính chuyên môn cao.
Là một doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp: mua bán
ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực
hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ cho các hoạt động của chính phủ, bảo lãnh, cho thuê
thiết bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán …
Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với
trách nhiệm hoàn trả.
NHTM là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết
khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác.

a.Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là hoạt động thường xuyên của ngân hàng thương mại.
Một ngân hàng thương mại bất kỳ nào cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc


huy động vốn. Đối tượng huy động của ngân hàng thương mại có thể là nguồn vốn
chủ sở hữu, nguồn tiền gửi nhàn rỗi từ dân cư hay đi vay từ các tổ chức khác…
-

Nguồn vốn chủ sở hữu:

Cũng giống như khi thành lập một doanh nghiệp, để bắt đầu hoạt động của ngân
hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn này sẽ chiếm một
tỷ trọng nhất định trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, tùy thuộc theo quy định của
pháp luật và các điều kiện của ngân hàng trung ương. Tùy theo tính chất từng ngân
hàng mà nguồn vốn hình thành vốn ban đầu có thể khác nhau: do ngân sách nhà nước
cấp, do các bên liên doanh đóng góp vốn hoặc vốn của chủ sở hữu tư nhân. Ngoài ra
nguồn vốn có thể bổ sung trong quá trình hoạt động như nguồn từ lợi nhuận, phát

hành thêm cổ phần, góp thêm…
-

Nguồn tiền gửi

Tiền gửi là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Là cơ sở
của hoạt động tín dụng, là nguồn gốc của lợi nhuận và sự tăng trưởng của ngân hàng.
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích khác nhau hoặc để tiết kiệm hoặc
để thanh toán. Tùy theo mục đích của ngân hàng có các hình thức huy động như:
+ Tiền gửi thanh toán: Là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân
hàng để nhờ ngân hàng giữ hộ, thanh toán.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: nhiều khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau khoảng thời gian
xác định.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: các lớp dân cư có các khoản thu nhập tạm thời
chưa sử dụng, họ đều có thể gửi vào tài khoản ngân hàng nhằm mục tiêu bảo toàn
và sinh lời.
+ Ngoài ra còn có tiền gửi của các ngân hàng khác…
Có thể thấy nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng có ý nghĩa to
lớn đối với người gửi tiền, bản thân ngân hàng và nền kinh tế, thông qua hoạt động
này mà ngân hàng có thể tập hợp các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé, phân tán trong
dân cư thành nguồn tiền lớn tài trợ cho nền kinh tế, góp phần tiết kiệm chi phí lưu
thông tiền tệ và sử dụng hiệu quả nguồn lực kinh tế.
• Nguồn vay NHTW, các tổ chức tín dụng khác
Vay NHTW: NHTW là ngân hàng của các ngân hàng, là người cho vay cuối cùng
của các tổ chức tín dụng trong trường hợp họ không có đủ khả năng thanh toán, đây


là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả, đảm bảo khả năng thanh
khoản của ngân hàng. Đây là hình thức vay không được khuyến khích, vì nó chỉ

được sử dụng như là cách cuối cùng và có thể ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Vay các tổ chức tín dụng khác: đây là nguồn ngân hàng vay mượn lẫn nhau hoặc
vay của các tổ chức tín dụng khác. Đây được xem là hình thức vay mượn khá phổ
biến của các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng nhằm giải quyết nhu cầu thiếu
hụt tạm thời của mình.
Ngoài ra, một trong những nguồn vốn không kém tầm quan trọng là nguồn phát
hành kỳ phiếu, việc phát hành kỳ phiếu hay trái phiếu phụ thuộc vào quy mô vốn cần
huy động, thời gian huy động vốn cùng cơ cấu nợ và tài sản của ngân hàng.

b. Hoạt động tín dụng
Cùng với việc huy động vốn, khả năng cho vay đối với đối với khách hành chính là
điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển. Huy động được vốn rồi, ngân hàng phải
có kế hoạch sử dụng nguồn vốn đó sao cho hợp lý có hiệu quả nhất, đem lại lợi nhuận
cho ngân hàng. Chỉ có lãi thu được từ hoạt động tín dụng mới bù đắp được chi phí dự
trữ, chi phí kinh doanh, chi phí quản lý.
Kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu về vốn của nền kinh tế ngày càng tăng lên,
lượng cho vay của ngân hàng thương mại ngày càng tăng nhanh và loại hình cho vay
cũng trở nên vô cùng phong phú, đa dạng.
c. Hoạt động trung gian
Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động vốn và hoạt động tín dụng, thì ngân hàng
thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho các khách hàng của mình, bao
gồm nhiều loại dịch vụ khác nhau như: thanh toán hộ, thu hộ, chuyển tiền, bảo lãnh,
tư vấn, quản lý hộ tài sản…các nghiệp vụ này được thực hiện theo sự ủy nhiệm của
khách hàng trên cơ sở khách hàng có tài khoản thanh toán tại ngân hàng. Những
nghiệp vụ này không những mang lại cho ngân hàng một khoản thu nhập dưới dạng
phí dịch vụ mà nó còn có ý nghĩa lớn trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của
khách hàng và nhu cầu phát triển cũng như cạnh tranh của ngân hàng.
Nói chung, 3 lĩnh vưc: Hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng và hoạt động
cơ bản của ngân hàng thương mại, có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy
nhau phát triển. Có huy động vốn thì mới có hoạt động cho vay, cho vay có hiệu quả



thì mới có uy tín, thúc đẩy phát triển kinh tế từ đó mới có nguồn vốn để huy động
vào. Đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì ngân hàng cần phải làm tốt vai
trò trung gian. Chính sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động của
ngân hàng và tạo xu hướng kinh doanh tổng hợp đa dạng của ngân hàng thương mại.
1.1.2.Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi
có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích hiệu quả và có khả năng
hoàn trả nợ vay (gốc, lãi) đúng hạn.
Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng một tài sản có thời hạn. Ngân hàng là trung
gian tài chính “đi vay để cho vay” nên mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có
thời hạn, đảm bảo cho ngân hàng khả năng hoàn trả vốn huy động. Ngân hàng căn cứ
vào tính chất thời hạn của nguồn vốn của mình và quá trình luân chuyển vốn của đối
tượng cho vay để xác định thời hạn cho vay hợp lý.
Thứ ba, tín dụng dựa trên nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi, nếu không có sự hoàn trả thì
không được coi là tín dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Nghiã là
ngoài việc hoàn trả giá trị gốc, khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản lãi, đây
chính là quyền sử dụng vốn vay. Giá trị của khoản lãi luôn luôn là một số dương, có như
vậy mới bù đắp được chi phí hoạt động và đào tạo ra lợi nhuận, phản ánh bản chất hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ tư, tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng. Việc thu hồi tín dụng
không chỉ phụ thuộc vào bản thân khách hàng mà còn phụ thuộc vào môi trường hoạt
động những yếu tố khách quan như sự biến động về giá cả, lãi xuất, tỷ giá, lạm phát, tăng
trưởng kinh tế, thiên tai…khi khách hàng gặp khó khăn khi môi trường kinh doanh thay
đổi dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ, điều này khiến cho ngân hàng gặp rủi ro tín
dụng.
Thứ năm, tín dụng dựa trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Quá trình xin vay và
cho vay phải dựa trên những căn cứ pháp lý chặt chẽ như: hợp đồng xin vay, khế ước

vay tiền, hợp đồng bảo hiểm tiền vay, bảo lãnh…Trong đó bên đi vay phải cam kết hoàn
trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến hạn. Từ những đặc điểm trên cho thấy
tín dụng ngân hàng phải đảm bảo được hai nguyên tắc cơ bản sau:
Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích
Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi theo đúng thời hạn và cam kết trên hợp đồng.


1.1.1.1.

Phân loại tín dụng ngân hàng

Dựa trên các phương thức cho vay khác nhau có thể có nhiều hình thức vay vốn khác
nhau, cụ thể là:
a. Dựa vào thời hạn cho vay:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là khoản vay với thời hạn dưới một năm nhằm đáp ứng nhu cầu
vay vốn ngắn hạn, thường được sử dụng để bổ sung tạm thời thiếu hụt vốn lưu động,
phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân… đây là loại hình tín dụng có rủi ro thấp, thời gian
quay vòng vốn nhanh nên hình thức tín dụng này chiếm tỷ trọng khá lớn trong tín dụng
NHTM.

Kế thừa quy định về loại cho vay tại Quyết định 1627, Thông tư 39/2016/TTNHNN quy định TCTD xem xét cho khách hàng vay theo 3 loại cho vay sau: (i) Cho
vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay tối đa 01 năm; (ii) Cho vay trung
hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 01 năm và tối đa 05 năm; (iii) Cho vay
dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 05 năm. Như vậy, so với quy định
1627, Thông tư 39 đã thay đổi căn cứ tính thời hạn của khoản vay từ tháng sang năm.
Quy định này đã thay đổi thời hạn vay tính theo ngày của các loại cho vay.
b.Dựa vào đối tượng trả nợ, chủ thể vay vốn

Khác với quy định tại Quyết định 1627 nêu trên, trên cơ sở quy định của Bộ luật dân
sự 2015 về chủ thể (chỉ bao gồm cá nhân, pháp nhân), Thông tư 39/2016/TT-NHNN

quy định chủ thể vay vốn chỉ bao gồm cá nhân Việt Nam, cá nhân có quốc tịch nước
ngoài, pháp nhân thành lập và hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân thành lập ở nước
ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Như vậy, theo quy định tại Bộ luật dân sự
2015 và Thông tư 39/2016/TT-NHNN, tổ chức không có tư cách pháp nhân sẽ không
đủ tư cách chủ thể vay vốn như hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư
nhân... Đồng thời, Thông tư 39/2016/TT-NHNN cũng quy định cá nhân được vay vốn
cho nhu cầu sử dụng vốn của hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân do chính cá nhân là
chủ hộ kinh doanh hoặc chủ doanh nghiệp tư nhân.

+ Tín dụng trực tiếp: là hình thức tín dụng mà trong đó người vay cũng là người trực tiếp
trả nợ.
+ Tín dụng gián tiếp: Là hình thức tín dụng mà trong đó người đi vay và người trả nợ là
hai đối tượng khác nhau. Ngân hàng thông qua một số tổ chức uy tín trong xã hội làm
trung gian đứng ra bảo lãnh, đảm bảo cho người vay. Hình thức tín dụng này mang đến


nhiều cơ hội vay đối với các khách hàng không đủ tài sản thế chấp, cũng như giảm thiểu
rủi ro cho ngân hàng.
c. Dựa vào hình thức đảm bảo tiền vay:
+ Tín dụng bảo đảm: Là hình thức mà người vay muốn được vay vốn của ngân hàng phải
có tài sản đảm bảo, cầm cố, thế chấp đồng thời những tài sản này phải có tính thanh
khoản, tức là có thể mua bán trao đổi trên thị trường. Với những tài sản bảo đảm, ngân
hàng sẽ hạn chế được rủi ro khi cho vay.
+ Tín dụng không có bảo đảm: là hình thức tín dụng mà các khoản vay phát ra không cần
các tài sản thế chấp mà chỉ cần tín chấp. Loại hình tín dụng này thường được áp dụng
với các khách hàng truyền thống, uy tín, độ tin cậy cao, hoạt động kinh doanh ổn định,
tài chính vững mạnh. Đây là một hình thức tín dụng tiềm ẩn rủi ro cao, nếu việc kinh
doanh của khách hàng không hiệu quả thì việc thu hồi vốn sẽ gặp khó khăn, do đó ngân
hàng chỉ áp dụng hình thức này khi chắc chắn 100% khách hàng sẽ trả được nợ.
d. Dựa trên mục đích vay vốn:


Thông tư 39/2016/TT-NHNN không giới hạn mục đích vay vốn như quy chế 1627
cũ mà chia nhu cầu vay vốn thành 02 nhóm: (i) Cho vay phục vụ nhu cầu đời sống; và
(ii) Cho vay phục vụ hoạt động kinh doanh, hoạt động khác. Thông tư 39/2016/TTNHNN cũng bổ sung các quy định áp dụng riêng đối với hoạt động cho vay phục vụ
hoạt động nhu cầu đời sống và cho vay phục vụ hoạt động kinh doanh, hoạt động khác
phù hợp với đặc điểm của từng mảng cho vay này (như phương án sử dụng vốn,
phương thức cho vay, thời hạn cho vay, lưu giữ hồ sơ).

+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại cấp phát tín dụng cho các doanh
nghiệp và các chủ thể kinh tế phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng
hóa.
+ Tín dụng nông nghiệp: Là khoản tín dụng cấp cho hoạt động nông nghiệp, nhằm trợ
giúp người nông dân có thêm vốn để tăng gia sản xuất.
+ Tín dụng học tập: Là hình thức cấp tín dụng phục vụ nhu cầu học tập của sinh viên: du
học, trang trải học phí, mua sách giáo khoa…
Ngoài ra, căn cứ vào mục đích sử dụng vốn còn có thể có nhiều hình thức tín dụng
khác…
1.1.1.2.

Vai trò của tín dụng ngân hàng


-

Đối với nền kinh tế:

Thứ nhất, tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, trong nền kinh
tế, tại một thời điểm luôn luôn tồn tại hai nhóm đối tượng là nhóm đối tượng “tạm thời
thừa vốn” có nhu cầu sử dụng số vốn này để kiếm lời trong một khoảng thời gian xác
định và nhóm đối tượng “tạm thời thiếu vốn” có nhu cầu tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi để

đáp ứng nhu cầu hiện tại. Hai lọai nhu cầu này tuy trái ngược nhau nhưng lại có chung
tính chất tạm thời và mục tiêu là cùng có lợi. Tuy nhiên trên thực tế, những đối tượng có
vốn nhàn rỗi không phải lúc nào cũng có thể tìm được những đối tượng cần vốn để thảo
mãn nhu cầu của mình và ngược lại. Họ bị ngăn cách bởi các rào cản về địa lý, không
gian, thời gian, trình độ chuyên môn…nắm bắt được thực tế này, với đặc điểm là nơi có
chuyên môn cao, hiểu biết cũng như sự tin cậy và được trợ giúp bởi một hành lang pháp
lý an toàn, ngân hàng với vai trò là một trung gian, hay nói cách khác là cầu nối giữa
những đối tượng thừa vốn và thiếu vốn. Với hoạt động tín dụng, ngân hàng đã huy động
được mọi nguồn tiền nhàn rỗi để phân phối lại trên cơ sở có hoàn trả, qua đó đã phân
phối được nguồn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn khiến cho dòng vốn liên tục
được lưu thông trong nền kinh tế.
Thứ hai, tín dụng huy động, tập chung vốn thúc đẩy phát triển kinh tế. Bất kỳ một quốc
gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng cần phải có một nguồn vốn đầu tư lớn để đổi
lới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá thành, chiến thắng cạnh tranh, và chỉ có
quan hệ tín dụng mới có thể huy động được nguồn vốn lớn đến như vậy.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, nhà nước thông qua
các hoạt động của ngân hàng thương mại mà chủ yếu là hoạt động tín dụng để thực hiện
những chính sách của mình qua đó điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế.
Cuối cùng, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối
ngoại. một quốc gia hoạt dộng tín dụng phát triển với những hình thức thanh toán đa
dạng, an toàn và hiệu quả sẽ tạo được lòng tin với các bạn hàng quốc tế thông qua việc
rút ngắn thời gian thanh toán, giao dịch qua đó tạo điều kiện phát triển lưu thông hàng
hóa, giúp cho nền kinh tế phát triển.
-

Đối với doanh nghiệp:

Thứ nhất, bằng việc cung ứng nguồn vốn một cách đầy đủ và kịp thời đáp ứng nhu cầu
về vốn lưu động và vốn có định của doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng là điều kiện đảm
bảo cho quá trình sản xuất kinh danh của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên và liên tục,

góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, trang
thiết bị, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Với cơ chế giám sát liên tục,


tín dụng ngân hàng đã giúp cho các phương tiện tiền tệ tạm thời trở thành những phương
tiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Thứ hai, thông qua những yêu cầu khắt khe khi cho vay, cũng như việc giám sát chặt
chẽ việc sử dụng nguồn vốn và yêu cầu phải sử dụng vốn có hiệu quả, hoạt động tín
dụng ngân hàng đã khiến cho các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả
sử dụng vốn qua đó tăng năng suất lao động giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
-

Đối với ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại về mặt bản chất cũng giống với một doanh nghiệp kinh doanh
thông thường, đều hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Bản thân ngân hàng có
nhiều hoạt động đem về lợi nhuận nhưng hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của
ngân hàng, nó chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số lợi nhuận của ngân hàng. Qua đó thấy
được hoạt động tín dụng có vai trò rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
thương mại.
1.2.

CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng
Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Ngân hàng là ngành dịch vụ đã có lịch sử tồn tại và phát triển hàng trăm năm. Nó là ngành
mang lại cho giới Ngân hàng siêu lợi nhuận song đồng thời nó cũng là ngành chịu nhiều
rủi ro. Một trong những rủi ro đáng sợ đối với Ngân hàng là rủi ro tín dụng và nó cũng là
một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của Ngân

hàng, bằng chứng là đã xảy ra những cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới... Có thể nói
bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng có thể lâm và tình trạng đó, vì thế vấn đề nâng
cao chất lượng tín dụng không chỉ đối là cần thiết đối với Ngân hàng, với khách hàng mà
còn đối với toàn xã hội nữa.
2. Về phía Ngân hàng: Ngân hàng thương mại giống như các nhà kinh doanh: bỏ vốn của
mình ra và mong muốn thu được lợi nhuận và thu hồi vốn. Như vậy đảm bảo chất lượng
cho các khoản vay và cho vay bản thân nó đối với Ngân hàng đã là một nhu cầu cấp thiết.
Đặc biệt đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay không còn là cái bóng
của Ngân hàng Trung Ương mà đã và đang dần trở thành một chủ thể kinh doanh độc lập,
tự kiếm lợi nhuận lời ăn lỗ chịu, chịu trách nhiệm với khách hàng, với Ngân hàng Trung
Ương. Do vậy mà Ngân hàng không thể không cần đến sự an toàn với các khoản vay.
3. Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ để chuyển sang một nền kinh tế thị
trường. Bản thân mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chưa thoát khỏi tư tưởng bao cấp, tư
duy về nền kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế, do đó việc làm ăn của các doanh nghiệp
có nguy cơ dẫn đến rủi ro là rất lớn. Vì thế để nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng
không chỉ là người cung cấp vốn cho các doanh nghiệp mà Ngân hàng còn phải là người
hiểu rõ hơn ai hết về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, có như thế thì Ngân hàng mới


mở rộng được các dịch vụ của mình như dịch vụ tư vấn...giúp doanh nghiệp tránh khỏi
được những rủi ro không đáng có.
4. Như vậy, có thể thấy mục tiêu nâng cao chất lượng cho vay là điều kiện tối ưu cần thiết
cho mỗi Ngân hàng, nó vừa là yếu tố không những đảm bảo cho Ngân hàng duy trì hoạt
động mà còn giúp Ngân hàng phát triển. Nếu đi ngược lại mục tiêu trên, Ngân hàng sẽ đi
đến chỗ tự huỷ diệt chính mình.
5. Về phía nhà đầu tư: Khách hàng của Ngân hàng có hai loại: Người gửi tiền và người vay
tiền. Người gửi tiền thì họ quan tâm đến khả năng thanh toán của Ngân hàng mà khả năng
thanh toán của Ngân hàng lại có mối quan hệ mật thiết với chất lượng của các khoản tín
dụng vì vậy đối với họ nâng cao chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết vì nó ảnh hưởng
trực tiếp đến những khoản tiền gửi của họ vào Ngân hàng. Người vay tiền là người trực

tiếp sử dụng giá trị sử dụng của các khoản vốn vay Ngân hàng, mà đối với họ chất lượng
tín dụng chính là sự thoả mãn của họ về khoản tín dụng đó. Cuối cùng phải làm sao cho
khoản tín dụng đó đem lại lợi nhuận cho họ để họ có thể trang trải chi phí và có lãi. Bởi thế
bản thân người vay tiền coi vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết và ngày càng
phải được nâng cao.
6. Nếu xét trên quan điểm toàn xã hội thì vấn đề chất lượng tín dụng cũng là vấn đề cần thiết.
Bởi một đồng vốn của Ngân hàng cho vay nó là đầu mối trong tất cả các mối quan hệ kinh
tế, nếu người sử dụng vốn đó hiệu quả thì cũng đồng nghĩa với việc nó co hiệu quả đối với
Ngân hàng và xã hội bởi nó sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đóng góp phát triển
các công trình phúc lợi xã hội. Hơn nữa sự xụp đổ của hệ thống Ngân hàng sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến nền kinh tế nó có thể làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái trầm
trọng và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ xã hội. Do đó vấn đề nâng cao chất lượng tín
dụng cũng được cả xã hội quan tâm.

Trong hoạt động của ngân hàng thì tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại thu nhập chính
cho ngân hàng, tín dụng còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội. Vì
vậy vấn đề chất lưởng tín dụng luôn được quan tâm thích đáng, nhưng thực chất chất
lượng tín dụng là gì?
Nói một cách khái quát thì chất lượng tín dụng hay chất lượng của một khoản vay
được hiểu là lợi ích kinh tế mà khoản vay đó mang lại cho cả người đi vay và người cho
vay. Một khoản vay của ngân hàng được coi là chất lượng tốt khi khi nó mang lại lợi ích
kinh tế cho cả ngân hàng và khách hàng, tức là vốn vay đưa vào quá trình sản xuất kinh
doanh tạo ra một số tiền lớn đủ trang trải chi phí, trả được số gốc và lãi cho ngân hàng và
có lợi nhuận, góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Quan hệ tín dụng có sự tham gian của hai chủ thể ngân hàng và khách hàng, mối quan
hệ này được đặt trong sự vận động chung của nền kinh tế xã hội. Vì thế sẽ thật phiến
diện khi xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng chỉ từ góc độ của ngân hàng hay


khách hàng. Việc xem xét chất lượng tín dụng phải có sự đánh giá từ nhiều góc độ khác

nhau: từ phía ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
-

Xét từ góc độ ngân hàng:

Chất lượng tín dụng thể hiện ở mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng hoạt
động này mang lại. Khi cho vay, điều mà ngân hàng quan tâm là khoản vay đó phải
được đảm bảo an toàn, sử dụng đúng mục đích, phù hợp với chính sách tín dụng của
ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường.
-

Xét từ góc độ khách hàng:

Một khoản tín dụng được khách hàng đánh giá là tốt khi có thảo mãn được nhu cầu của
họ. Mức độ thảo mãn của khách hàng thể hiện ở chỗ khoản tín dụng đó được cung ứng
một cách đầy đủ, kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn của họ với lãi xuất, kỳ hạn, phương thức
giải ngân, thu nợ hợp lý, các thủ tục vay vốn được tiến hành nhanh gọn, tiết kiệm thời
gian và chi phí.
-

Xét từ góc độ nền kinh tế - Xã hội

Chất lượng cho vay là khả năng đáp ứng những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong
lĩnh vực khoản tín dụng ngân hàng tham gia hoạt động.
Chất lượng các khoản tín dụng tốt đồng nghĩa với việc sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, sản phẩm cung ứng với chất lượng tốt và giá thành hợp lý, đáp ứng nhu cầu trong
nước, một phần cho xuất khẩu và có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, ngoài ra nó còn thể
hiện tính an toàn cao của hoạt động ngân hàng, nâng cao khả năng thanh toán, chi trả và

hạn chế được rủi ro.
Như vậy chất lượng tín dụng cao là thỏa mãn được đồng thời cả ba mục tiêu của ngân
hàng, của khách hàng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Trong khi ba mục tiêu này
lại có mặt mâu thuẫn với nhau : ngân hàng muốn đạt được lợi nhuận cao nhất từ các
khoản vốn vay vì thế họ muốn khoản tín dụng đó có lãi suất cao mà lại được hoàn trả
gốc và lãi đúng hạn: còn với khách hàng tiền lãi là một khoản chi phí, muốn đạt lợi
nhuận cao họ phải tối thiểu hóa chi phí, nên họ mong muốn có được khoản vốn vay với
mức lãi suất thấp; mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi hoạt động tín dụng của
ngân hàng phải giải quyết được cong ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế
công cộng, bảo vệ môi trường hướng tới việc phát triển kinh tế - xã hội một cách bền
vững. Vì thế hoạt động tín dụng tốt là phải dung hòa được lợi ích của ngân hàng, khách


hàng và nền kinh tế - xã hội, có như vậy ngân hàng mới hoạt động và phát triển bền
vững.
1.2.2.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
Khó có thể đưa ra các tiêu chuẩn, cụ thể cho các chỉ tiêu định tính. Do đó, tùy vào mỗi
ngân hàng khác nhau sẽ tự xác định tiêu chí cho các chỉ tiêu định tính. Có thể kể đến vài chỉ
tiêu như sau:

“Thông tư 39/2016/TT-NHNN đã hệ thống nội dung của 08 văn bản QPPL hiện hành
thành một Thông tư quy định chung về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách
hàng. Đồng thời, Thông tư 39/2016/TT-NHNN đã quy định rõ nguyên tắc áp dụng pháp
luật trong hoạt động cho vay, cụ thể:
Thứ nhất, hoạt động cho vay của TCTD thực hiện theo quy định tại Luật các TCTD,
Thông tư 39/2016/TT-NHNN và các quy định của pháp luật có liên quan.
Thứ hai, các hoạt động cho vay cụ thể được quy định tại văn bản riêng của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ và NHNN, thì việc cho vay được thực hiện theo quy định tại văn
bản riêng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và NHNN.

Thứ ba, trường hợp văn bản riêng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và NHNN có
quy định dẫn chiếu áp dụng Thông tư 39/2016/TT-NHNN hoặc các nội dung liên quan
đến hoạt động cho vay không được quy định tại văn bản riêng, thì thực hiện theo quy
định có liên quan tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
Vì các chỉ tiêu định tính rất khó xác định hiệu quả thực hiện nên người ta thường sử
dụng các chỉ tiêu định lượng để đánh giá chất lượng của hoạt động cho vay. Đây là các chỉ
tiêu rất quan trọng với các NHTM, thông qua các chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xác định một
cách tương đối chính xác về chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do đó, việc tính toán cần đảm
bảo sự chính xác và đầy đủ.
-

Doanh số cho vay đối với khách hàng thể hiện tổng lượng vốn mà ngân hàng đã cho
các tổ chức, cá nhân vay trong một thời kỳ cụ thể. Nó được tính bằng cách cộng dồn


các khoản cho vay trong một thời kỳ. Con số này thể hiện xu hướng hoạt động cho
vay là tăng hay giảm.
Ngoài sử dụng giá trị tuyệt đối để cho thấy xu hướng cho vay với khách hàng, ngân
hàng còn sử dụng chỉ tiêu về tỷ lệ tăng trưởng doanh số cho vay qua các năm:
-

Dư nợ cho vay đối với khách hàng
Chỉ tiêu phản ánh số vốn của ngân hàng đang cho khách hang vay tại một thời điểm cụ

thể. Nó được tính trên số dư cuối kỳ trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Cùng với chỉ tiêu doanh số cho vay, chỉ tiêu trên cũng dùng để đánh giá mức độ tăng
trưởng tín dụng đối với các DN của ngân hàng. Đây là chỉ tiêu mà ngân hàng phải theo dõi
thường xuyên để biết tình hình sử dụng vốn của khách hàng. Nếu dư nợ cuối kỳ thấp và có xu
hướng giảm, nó phản ánh chất lượng cho vay thấp. Vì vậy hoạt động cho vay không thu hút

khách hàng, không được mở rộng. Tuy nhiên, dư nợ với các DN, tổ chức, cá nhân cuối kỳ cao
cũng chưa thể đánh giá là chất lượng cho vay với các DN tốt được. Chỉ tiêu này còn phải kết
hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá một cách toàn diện.
Nếu cả hai chỉ tiêu trên đối với khách hàng cùng cao và với tốc độ tăng trưởng của hai
chỉ tiêu này đều cùng dương thì chứng tỏ ngân hàng đang có tăng trưởng trong chất lượng tín
dụng đối với khách hàng, sản phẩm cho vay này đã có uy tín và thu hút khách hàng. Qua đó,
nhu cầu về vồn của các DN, tổ chức, cá nhân được ngân hàng đáp ứng tốt.
Doanh số thu nợ với khách hàng:
Chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn đã cho khách hàng vay và đã được hoàn trả trong một
thời kỳ cụ thể. Nó được xác định bằng cách cộng dồn các khoản thu nợ trong một thời kỳ.
Doanh số cho vay lớn thì cần kèm với doanh số thu nợ cao thì mới đảm bảo chất lượng tín
dụng. Nếu doanh số thu nợ thấp thể hiện dư nợ quá hạn lớn, khả năng thu hồi vốn và lãi thấp
thì chất lượng tín dụng là kém.

-

Tỷ lệ nợ quá hạn (%)
Nợ quá hạn


Tỷ lệ nợ quá hạn =

X 100%
Tổng dư nợ

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các khoản nợ quá hạn của DN. Có thể là nguyên nhân
xuất phát từ phía doanh nghiệp như trình độ quản lý, sản xuất yếu kém, công nghệ lạc
hậu...hoặc do sự thay đổi của các nguyên nhân khách quan như: sự bất ổn của nền kinh tế, sự
thay đổi chính sách kinh tế...Nguyên nhân cũng có thể xuất phát từ trình độ đánh giá, phân
tích yếu kém của cán bộ tín dụng khi phân tích các khoản vay không có khả năng hoàn trả

ngay từ khi xem xét hồ sơ tín dụng.
Nhìn chung, các nguyên nhân đều đánh giá được khi tỷ lệ nợ quá hạn của DN thì
đương nhiên, ngân hàng đó có chất lượng cho vay đối với loại hình này là kém.

-Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ không hoàn hảo khi người đi vay không
thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng đúng hạn.
-

Chỉ tiêu này cho thấy tình hình nợ quá hạn tại ngân hàng, đồng thời phản ánh khả
năng quản lý tín dụng của ngân hàng trong khâu đi vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân
hàng đối với các khoản vay

-

Đây là chỉ tiêu được dùng để đánh giá chất lượng tín dụng cũng như rủi ro tín dụng
tại ngân hàng

-

Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng kém, và
ngược lại. Tỷ lệ này càng cao thì ngân hàng càng gặp khó khăn trong kinh doanh vì
sẽ có nguy cơ mất vốn dẫn tới mất khả năng thanh toán từ đó suy giảm lợi nhuận. Do
đó các ngân hàng đều đặt ra mục tiêu là không có nợ quá hạn nhưng trên thực tế thì
việc này là không thể hiện duy trì tỷ lệ này ở mức thấp nhất có thể.

-

Hiện nay để thuận tiện trong việc phân loại và quản lý nợ quá hạn, các ngân hàng
thường chia nợ quá hạn thành các nhóm khác nhau, cụ thể tại Việt Nam, theo quyết
định 493/2005/QĐ -HNN và thông tư 02/2013/TT-NHNN thì nợ quá hạn được chia

làm 5 nhóm:

+ Nhóm 1: Các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ quá hạn 10 ngày và được đánh giá
là có khả năng thu hồi.
+ Nhóm 2: Các khoản nợ đã quá hạn từ 10 - 90 ngày và các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn
trả nợ lần đầu.


+ Nhóm 3: Các khoản nợ đã qua hạn từ 91 - 180 ngày
+ Nhóm 4: Các khản nợ quá hạn từ 181 - 360 ngày
+ Nhóm 5: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày

• Tỷ lệ nợ xấu (%)
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =

X 100
Tổng dư nợ

Quyết định 02/2012/QĐ- NHNN đã quy định về phân loại nợ, trích lập, dự phòng rủi
ro của các tổ chức tín dụng và thông tư 02/2013/TT-NHNN. Các khoản nợ quá hạn gồm có:

-

• Nhóm 2: Nợ cần chú ý (< 90 ngày)
• Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn (> 90 ngày và < 180 ngày)
• Nhóm 4: Nợ nghi ngờ ( >180 ngày và nhỏ hơn 360 ngày )
• Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn ( > 360 ngày )
Tỷ lệ nợ xấu của các DN


Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu bao gồm: nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn. Chỉ tiêu
này bổ sung cho chỉ tiêu trên vì đối với các khoản nợ cần chú ý thì ngân hàng có thể cơ cấu lại
khoản nợ để thu hồi vốn.

Với khoảng thời gian quá hạn trên 360 ngày, nợ nhóm 5 được coi là nợi không có khả năng
thu hồi. Tỷ lệ nợ nhóm 5 trên tổng dư nợ cho thấy trong tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng
có bao nhiêu phần trăm khoản nợ không thể thu hồi. Như đã nói ở trên, mọi ngân hàng đều
đặt ra mục tiêu không có nợ có khả năng mất vốn.


Tuy nhiên thực hiện được nhiều này là vô cùng khó khăn vì hoạt động của ngân hàng luôn
tiềm ẩn rủi ro mà ngân hàng không lường trước được. Tỷ lệ này càng cao thì chất lượng tín
dụng càng thấp, nguy cơ ngân hàng không thu hồi được khoản tín dụng đã cấp càng lớn gây ra
tổn thất với ngân hàng càng cao.
• Vòng quay vốn tín dụng
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Đây là chỉ tiêu thường được các ngân hàng thương mại tính toán hàng năm để đánh giá
khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu
cầu vốn của khách hàng.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng được sử dụng cho vay mấy lần trong
một năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ nguồn vốn của ngân hàng đã luân
chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
• Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Số tiền trích lập dự phòng RRTD
Tỷ lệ trích lập DP RRTD =

x 100

Tổng dư nợ

Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy
ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện được nghĩa vụ theo cam kết. Dự
phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín
dụng. Dự phòng rủi ro tín dụng bao gồm: Dự phòng chung và dự phòng cụ thể.
Trong đó:
* Dự phòng chung: Là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa
xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các
trường hợp khó khăn về tài chính của tổ chức tín dụng khi chất lượng các khoản nợ suy
giảm. Thông thường, các tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung
bằng 0.75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
* Dự phòng cụ thể: Là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ
để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với
nhóm nợ 1 đến 5 lần lượt là: Nhóm 1 (0%); nhóm 2 (5%); nhóm 3(20%); nhóm 4(50%);


nhóm 5(100%). Riêng đối với các khoản nợ đang chờ chính phủ xử lý thì được trích lập
dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
Tỷ lệ trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro của ngân hàng càng cao hay số tiền trích lập quỹ
dự phòng rủi ro càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ của ngân hàng chứng tỏ chất
lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp vì tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể chỉ tính dựa
trên dư nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Nhóm nợ càng cao thì chi phí hoạt động của ngân
hàng này càng lớn, làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
* Tỷ lệ xử lý tài sản đảm bảo

Tỷ lệ thu hồi xử lý TSĐB
Tỷ lệ xử lý TSĐB =

X 100

Nợ quá hạn

Tỷ lệ xử lý tài sản đảm bảo phản ánh phần trăm nợ thu hồi từ xử lý tài sản đảm bảo so
với tổng nợ quá hạn của ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao điều này chứng tỏ chất lượng tín
dụng cuả ngân hàng thấp bởi tài sản đảm bảo chỉ là nguồn thu nợ thứ hai bổ sung khi
khách hàng không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Ngược lại, nếu tỷ lệ xử lý tài sản
đảm bảo của ngân hàng càng thấp thì chất lượng tín dụng của ngân hàng càng cao.
* Ngoài ra để đánh giá chất lượng tín dụng, các ngân hàng thương mại còn dựa vào các
chỉ tiêu như: Sự hài lòng của khách hàng, thời gian thẩm định…
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là kết quả của cả một quá trình từ khoản tín dụng được ngân hàng
xét duyệt, giải ngân cho đến khi được thu hồi. Trong quá trình đó có rất nhiều những tác
động gây rủi ro dẫn đến việc ngân hàng không thu hồi được vốn và phải chịu thua thiệt.
Để quản lý chất lượng tín dụng đòi hỏi phải hiểu rõ về các nhân tố gây ảnh hưởng tới nó.
a, Các yếu tố chủ quan (yếu tố thuộc bản thân ngân hàng).

* Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng phản ánh định hướng cơ bản cho hoạt động
tín dụng, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Để
đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng phù
hợp với đường lối phát triển kinh tế, đồng thời kết hợp được lợi ích của người gửi tiền
của ngân hàng và người vay tiền.


* Quy trình tín dụng: quy trình tín dụng là trình tự tổ chức thực hiện các bước kỹ thuật
nghiệp vụ cơ bản, chỉ rõ cách làm, trình tự các bước khi bắt đầu đến khi kết thúc một
giao dịch thuộc chức năng, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có liên
quan. Quy trình tín dụng là yếu tố quan trọng, nếu nó được tổ chức khoa học, hợp lý sẽ
cho phép đảm bảo thực hiện các khoản cho vay có chất lượng.
* Kiểm soát nội bộ: Đây là hoạt động mang tính thường xuyên và cần thiết đối với mọi
ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng thường

xuyên, chặt chẽ sẽ làm cho hoạt động tín dụng kịp thời sửa chữa, tạo điều kiện thuận lợi
nâng cao chất lượng tín dụng.
* Tổ chức nhân sự: con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thất bại trong mọi hoạt
động kinh doanh nói chung và tất nhiên nó cũng không loại trừ khỏi hoạt động của một
ngân hàng. Muốn nâng cao được hiệu quả trong kinh doanh, chất lượng trong hoạt động
tín dụng, ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi, được đào tạo có hệ
thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc biệt trong lĩnh vực tham gia
đầu tư vốn , nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng.
Trong bố trí sử dụng, người cán bộ tín dụng cần phải được sàng lọc kỹ càng và phải có
kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng những kiến thức cần thiết để bắt kịp với nhịp độ phát
triển và biến đổi của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, họ còn phải có tiêu chuẩn về đạo
đức và sự liêm khiết, bởi lẽ nếu người cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm hay cố tình vi
phạm có thể sẽ gây tổn thất rất lớn cho ngân hàng.
* Thông tin tín dụng: Hoạt động tín dụng muốn đạt được hiệu quả cao, an toàn cần phải
có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Vai trò và yêu cầu thông tin
phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng là hết sức quan trọng. Muốn nâng
cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần xây dựng được hệ thống thông tin đầy đủ và linh
hoạt, nhờ đó cung cấp các thông tin chính xác, kịp thời, tăng cường khả năng phòng
ngừa rủi ro tín dụng.
b, Các yếu tố khách quan
* Nhóm nhân tố từ phía khách hàng
- Uy tín, đạo đức của người vay
Trong qui trình tín dụng các ngân hàng thường chỉ đưa ra quyết định cho vay sau khi đã
phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đến uy tín và khả năng trả nợ của người vay
nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro chủ quan của người vay có thể gây nên.
Đạo đức của người vay là yếu tố quan trọng của qui trình thẩm định, tính cách của
người vay không chỉ được đánh giá bằng phẩm chất đạo đức chung mà còn phải kiểm


nghiệm qua những kết quả hoạt động trong quá khứ, hiện tại và chiến lược phát triển

trong tương lai. Thực tế kinh doanh đã cho thấy, tính chân thật và khả năng chi trả của
người vay có thể thay đổi sau khi món vay được thực hiện. Khách hàng có thể lừa đảo
ngân hàng thông qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn
vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, phương án kinh doanh…
Việc khách hàng gian lận tất yếu sẽ dẫn đến những rủi ro cho ngân hàng.
Uy tín của khách hàng cũng là một yếu tố đáng quan tâm, uy tín của khách hàng là tiêu
chí để đánh giá sự sẵn sàng trả nợ và kiên quyết thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong
hợp đồng từ phía khách hàng. Uy tín của khách hàng được thể hiện dưới nhiều khía
cạnh đa dạng như: chất lượng, giá cả hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm, mức độ chiếm lĩnh thị
trường, chu kỳ sống của sản phẩm, các quan hệ kinh tế tài chính, vay vốn, trả nợ với
khách hàng, bạn hàng và ngân hàng. uy tín được khảng định và kiểm nghiệm bằng kết
quả thực tế trên thị trường qua thời gian càng dài càng chính xác. Do đó, ngân hàng cần
phân tích các số liệu và tình hình suốt quá trình phát triển của khách hàng với những thời
gian khác nhau mới có kết luận chính xác.
-

Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng:

-

Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức, kinh nghiệm quản lý
kinh doanh của người vay. Đây chính là tiền đề tạo ra khả năng kinh doanh có hiệu
quả của khách hàng thực hiện cam kết hoàn trả đúng hạn nợ ngân hàng cả gốc và lãi.
Nếu trình độ của người quản lý còn bị hạn chế về nhiều mặt như học vấn, kinh
nghiệm thực tế…thì doanh nghiệp rất dễ bị thua lỗ, dẫn đến khả năng trả nợ kém, ảnh
hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.

* Nhóm nhân tố của môi trường
- Môi trường kinh tế
Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của mỗi quốc gia luôn có

các tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp trên thị trường. Tính ổn định về kinh tế mà trước hết và chủ yếu là ổn định về tài
chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát là những điều mà các doanh nghiệp
rất quan tâm và ái ngại vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Nền kinh tế ổn định sẽ là điều kiện, môi trường thuận lợi cao, từ đó góp phần tạo
nên sự thành công trong kinh doanh của ngân hàng. Trong trường hợp ngược lại, sự bất
ổn tất nhiên cũng bao chùm đến các hoạt động của ngân hàng, làm ảnh hưởng tới chất
lượng tín dụng, gây tổn thất cho ngân hàng.
-

Môi trường chính trị:


-

Môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh,
đặc biệt đối với các hoạt động kinh daonh ngân hàng. Tính ổn định về chính trị trong
nước sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh có hiệu quả. Nếu xảy ra các diễn biến gây bất ổn chính trị như: chiến tranh,
xung đột đảng phái, cấm vận, bạo động, biểu tình, bãi công…có thể dẫn đến những
thiệt hại cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế nói chung (làm tê liệt sản xuất, lưu thông
hàng hóa đình trện…) và như vậy, những món tiền doanh nghiệp vay ngân hàng sẽ
khó được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng.

-

Môi trường pháp lý

-


Một trong những bộ phận bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp nói chung và NHTM nói riêng là hệ thống pháp luật. Với một môi trường
pháp lý chưa hoàn chỉnh, thiếu tính đồng bộ, thống nhất giữa các luật, văn bản dưới
luật, đồng thời với nó là sự sắc nhiễu của các cơ quan hành chính có liên quan sẽ
khiến cho doanh nghiệp gặp phải những khó khăn, thiếu đi tính linh hoạt cần thiết,
vốn đưa vào kinh doanh dễ bị rủi ro. Do đó, xây dựng môi trường pháp lý lành mạnh
sẽ tạo thuận lợi trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của cá doanh nghiệp trong
đó có các NHTM.

-

Môi trường cạnh tranh

Có thể đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động
kinh doanh chung của NHTM. Sự tác động đó diễn ra theo hai chiều hướng: thứ nhất, để
chiếm ưu thế trong cạnh tranh ngân hàng luôn phải quan tâm tới đầu tư trang thiết bị tốt,
tăng cường đội ngũ nhân viên có trình độ, củng cố và khuyếch trương uy tín và thế mạnh
của ngân hàng. Hướng tác động này tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy
nhiên, ở hướng thứ hai, dưới áp lực của cạnh tranh gay gắt các ngân hàng có thể bỏ qua
những điều kiện tín dụng cần thiết khiến cho độ rủi ro tăng lên, làm giảm chất lượng tín
dụng.
-

Môi trường tự nhiên

Các yếu tố rủi ro thiên nhiên gây ra như lũ lụt, hỏa hoạn, động đất, dịch bệnh…có thể
gây ra những thiệt hại không lường trước được cho cả người vay và ngân hàng. Mặc dù
những rủi ro này là khó dự đoán nhưng bù lại nó chiếm tỷ lệ không lớn, mặt khác ngân
hàng thường được chia sẻ thiệt hại với các công ty Bảo hiểm hoặc được Nhà nước hỗ trợ.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


×