Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Đảng trong hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện ba tơ, tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.72 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG QUÂN

ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI – 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG QUÂN

ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS LƯU VĂN QUẢNG

HÀ NỘI – 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các tư liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Nếu có điều gì
sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Hồng Quân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG8TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ ........................................................................................ 8
1.1. Nhận thức chung về Đảng chính trị, về hệ thống chính trị và hệ thống
chính trị ở cơ sở ................................................................................................ 8
1.2. Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị ở cơ sở ...... 20
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ HUYỆN BA TƠ (QUẢNG NGÃI) ........................... 32
2.1. Khái quát đặc điểm, tình hình huyện Ba Tơ và các nhân tố ảnh hưởng đến
tổ chức, hoạt động của tổ chức Đảng ở cơ sở ................................................. 32
2.2. Tổ chức và hoạt động của tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở
huyện Ba Tơ .................................................................................................... 34
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CỦNG CỐ, KIỆN TOÀN VÀ
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ HUYỆN BA TƠ, TỈNH
QUẢNG NGÃI................................................................................................... 60
3.1. Dự báo tình hình và các yếu tố tác động đến tổ chức, hoạt động của tổ
chức Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở.................................................... 60

3.2. Quan điểm củng cố, kiện toàn tổ chức và đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở ........................ 62
3.3. Một số nhóm giải pháp củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt
động của tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở ................................ 63
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua các thời kỳ lịch sử đã chứng minh trong mọi xã hội có giai cấp, chủ thể
cầm quyền thực hiện quyền lực của mình bằng một hệ thống thiết chế nhất định. Đó là
hệ thống chính trị - một chỉnh thể bao gồm các tổ chức chính trị trong xã hội được liên
kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào quá trình của đời sống xã
hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể
cầm quyền.
Trong chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở Việt Nam, hệ thống chính trị là một cơ
chế, đồng thời là công cụ thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị luôn được thể hiện,
ghi nhận qua các bản Hiến pháp và Cương lĩnh của Đảng. Đó là cơ sở của mối quan hệ
giữa xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng trong hệ thống chính trị. Khác với các nước dân chủ trên thế giới, ở Việt Nam hệ
thống chính trị cơ sở là bộ phận của hệ thống chính trị không thể tách rời.
Trong những năm qua, nhất là từ năm 2010 trở lại đây, ở huyện Ba Tơ (Quảng
Ngãi), đảng bộ các cấp từ huyện đến cơ sở đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
trên các lĩnh vực đạt nhiều kết quả quan trọng: Đảng bộ không vi phạm về đường lối,
chính sách; kinh tế - xã hội có những bước phát triển khá; quốc phòng, an ninh được
tăng cường, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội. Công tác xây dựng Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị đạt được những kết quả quan trọng, góp phần củng cố niềm tin
của Nhân dân đối với Đảng.

Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa đồng đều giữa các vùng trong huyện; các
nguồn lực chưa được khơi dậy và phát huy đúng mức; công tác lãnh đạo, chỉ đạo
chuyển dịch cơ cấu chưa mạnh, phát triển thương mại - dịch vụ còn nhỏ lẻ. Lĩnh vực
văn hóa, y tế, giáo dục còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, học tập và
chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là ở vùng cao, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Tình hình trật tự xã hội còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Công tác xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội có nơi
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
1


Những hạn chế, yếu kém do nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên
nhân chủ yếu là cơ cấu tổ chức của Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở còn nhiều bất
cập, chưa phù hợp; nội dung, phương thức hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng chưa thật
sự đổi mới, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng ở cơ sở còn hạn chế,
chưa bảo đảm là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Sự đúng đắn và tính hiệu quả của những chủ trương, quan điểm về kiện toàn tổ
chức bộ máy, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Đảng không chỉ đặt ra ở
cấp vĩ mô mà phải tiến hành đồng bộ ở các cấp. Làm thế nào để cấp cơ sở thực hiện và
vận dụng sáng tạo, hoạt động hiệu quả hơn, phát huy những mặt tích cực, khắc phục
những tiêu cực, yếu kém, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
đảng là một yêu cầu bức thiết đặt ra cho đảng bộ các cấp trong tỉnh Quảng Ngãi nói
chung và của tổ chức đảng ở cơ sở huyện Ba Tơ nói riêng. Đặc biệt, hiện nay, khi mà
Đảng ta đang thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII là vấn đề có tính thời sự và rất đáng nghiên
cứu. Từ nhận thức và thực tiễn ấy, tác giả chọn vấn đề "Đảng trong hệ thống chính trị
cơ sở từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi" để nghiên cứu, làm đề tài luận văn
Thạc sỹ, ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, mối quan hệ giữa các bộ

phận trong hệ thống chính trị và nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị, đặt biệt là của tổ chức đảng ở cơ sở đã được nhiều người nghiên cứu
trong các chương trình, đề tài khoa học được công bố ở một số tạp chí, nhà xuất bản
trong nước; đồng thời cũng được nhiều người làm khoa học nghiên cứu, tiêu biểu là
một số công trình sau:
- Lê Đức Bình (2003) “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước”.
- Trần Quang Cảnh (2007), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của huyện ủy đối
với chính quyền huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc". Luận văn Thạc sĩ.
- Đỗ Tiến Dũng (2015), Các đảng chính trị ở Anh, Pháo, Mỹ - sự tương đồng và
khác biệt. Luận văn thạc sỹ, mã số 60.31.02.01. Tác giả đã phân tích điểm giống và khác
2


nhau giữa các đảng chính trị ở Anh, Pháp, Mỹ, góp phần hoàn thiện về mặt lý luận cho
Đảng ta tham khảo và vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2011), Đảng Cộng sản Việt Nam: Nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
+ Trần Đình Huỳnh (chủ nhiệm) (2000), Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà
nước". Đề tài khoa học 96.98.058. Tác giả nghiên cứu về phương thức lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với Nhà nước ở Việt Nam trong điều kiện đã giành được chính
quyền. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không chỉ là vấn đề nội dung mà còn
là vấn đề tổ chức thực hiện nội dung, trong đó phương thức lãnh đạo của Đảng giữ vai
trò quan trọng.
- Nhị Lê (2006), về sự cầm quyền của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 16, tháng 8. Tác
giả bàn về vấn đề cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nguyễn Viết Mạnh (2014), Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ cấp xã
trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sỹ, bảo vệ tại
Học viện báo chí và Tuyên truyền. Tác giả đánh giá thực trực và đề ra những giải pháp
nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng bộ xã trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành

phố Hà Nội.
- Lê Hữu Nghĩa (2001), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của chính quyền cơ sở. Tạp chí cộng sản số 19.
- Lê Hữu Nghĩa (2014), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
trong điều kiện Đảng cầm quyền. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
- Trần Đình Nghiêm (chủ nhiệm) (1993), Phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước. Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.05 03. Đề tài này tác giả nghiên cứu,
phân tích làm rõ về vai trò và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước theo
quy định của Hiến pháp 1992.
- Trần Đình Nghiêm (chủ biên), các chuyên đề “Đảng cầm quyền”, “Đảng lãnh
đạo chính quyền”. Đề tài cấp nhà nước KX.05.09 (giai đoạn 2001-2005) đã nghiệm
thu và in thành sách. Tác giả làm rõ hơn vị trí, vai trò của Đảng cầm quyền; phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền.

3


- Vũ Hữu Ngoạn (chủ biên) (1994),“Đặc điểm, nội dung,phương thức lãnh đạo
của Đảng trong hệ thống chính trị, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn
thể tổ chức xã hội” Đề tài cấp nhà nước KX.05.06. Tác giả làm rõ hơn mối quan hệ
giữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính
trị Việt Nam.
- Nguyễn Thị Xuân Nữ (2013), Nâng cao năng lực của Đảng bộ phường trên
địa bàn quận cầu giấy, Thành phố Hà Nội hiện nay. Luận văn Thạc sỹ, bảo vệ tại Học
viện Báo chí và Tuyên truyền. Tác giả phân tích những biện pháp nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng bộ cấp phường trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
- Phạm Ngọc Quang (chủ biên) (giai đoạn 2001-2005), “Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và chính quyền các cấp”. Tác giả làm rõ hơn
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước chính quyền các cấp.
- Phạm Ngọc Quang - Nguyễn Khánh (2004), “Đổi mới phương thức lãnh đạo

của Đảng đối với nhà nước và xã hội”, Tạp chí cộng sản (9) và hội thảo lý luận giữa 2
Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng Sản Trung Quốc.
+ Tạ Ngọc Tấn, (chủ biên) (2012), Một số vấn đề về các đảng chính trị trên
thế giới, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội. Tác giả giới thiệu 20 đảng chính trị
tiêu biểu trên thế giới, trong đó có đảng chính trị Anh, Pháp, Mỹ. Đồng thời giới thiệu
sự hình thành và phát triển của các đảng chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo, kinh nghiệm
tranh quyền và cầm quyền, kinh nghiệm xây dựng, phát triển của các đảng chính trị,
kinh nghiệm điều chỉnh chiến lược, sách lược của các đảng chính trị hiện nay.
+ Ngô Đức Tính, (chủ biên) (2004), Một số Đảng chính trị trên thế giới, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến các đảng chính trị Anh,
Pháp, Mỹ ở góc độ phạm vi từng quốc gia.
- Trần Văn Tường (2006), Sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính
quyền cơ sở ở huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, trong giai đoạn hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ.

4


- Trần Vĩnh Tuyến (2005), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Thành ủy với
chính quyền Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay - thực trạng và giải pháp, Luận văn
Thạc sĩ.
- Nguyễn Văn Vĩnh, Hệ thống chính trị và đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay. Bài giảng chuyên đề.
- Nguyễn Khánh Vinh (chủ nhiệm) (2015), Hệ thống chính trị cơ sở phục vụ
phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.
Các công trình và tài liệu nghiên cứu đã làm rõ hơn các khái niệm như đảng
chính trị, hệ thống chính trị và hệ thống chính trị ở cơ sở; nghiên cứu về tổ chức bộ
máy, chức năng, nhiệm vụ, nội dung và phương thức lãnh đạo, mối quan hệ giữa thành
tố Đảng với các thành tố khác trong hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị ở
cơ sở. Tuy nhiên, hầu hết các công trình trên đây chủ yếu nghiên cứu về phương thức

lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, ít có đề tài nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối
với cả hệ thống chính trị. Hơn nữa, các công trình đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn
ở cấp vĩ mô, chưa đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm giữa vấn đề lý luận và thực tiễn ở
cơ sở trong nội dung, phương thức hoạt động của Đảng đối với hệ thống chính trị. Và
đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề tổ chức Đảng trong hệ
thống chính trị ở cơ sở từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, vì vậy đề tài này sẽ
đi sâu vào nghiên cứu để làm rõ hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về Đảng chính trị, tổ chức Đảng trong hệ
thống chính trị ở cơ sở; đánh giá đúng thực trạng về tổ chức bộ máy, nội dung, phương
thức hoạt động của tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở, huyện Ba Tơ; tìm
những nguyên nhân ưu điểm, khuyết điểm, từ đó đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm
phát huy những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, tiếp tục đổi mới
nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng nói chung và tổ chức
Đảng trong hệ thống chính ở cơ sở huyện Ba Tơ nói riêng.
Để đạt được mục đích trên, tác giả phải thực hiện một số nhiệm vụ sau:

5


- Hệ thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận về tổ chức bộ máy, chức năng,
nhiệm vụ, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị nói
chung và hệ thống chính trị ở cơ sở nói riêng.
- Phân tích những yếu tố tác động và thực trạng về tổ chức, hoạt động của tổ
chức Đảng ở cơ sở; nêu bật những vấn đề còn hạn chế, khuyết điểm, những bất cập,
chưa phù hợp giữa lý luận và thực tiễn cần được giải quyết.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở Đảng nhằm
bảo đảm về tổ chức, hoạt động và vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị cơ sở, đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng
Tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của các đảng bộ cấp xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, nội dung và phương
thức hoạt động, lãnh đạo của Đảng bộ 20 xã, thị trấn trực thuộc Đảng bộ huyện Ba Tơ;
phương thức hoạt động của một số chi bộ thôn trực thuộc đảng bộ xã, thị trấn.
+ Về không gian: Địa bàn 20 xã, thị trấn; một số thôn, khu dân cư thuộc 20 xã
thị trấn.
+ Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng nói
chung và tổ chức đảng ở cơ sở nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Logic - lịch sử, phân
tích, tổng hợp, thống kê, nghiên cứu tài liệu, khảo sát, tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức, nội dung và
phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở huyện Ba Tơ trên cơ sở khái quát những

6


quan điểm của Đảng, cũng như một số kinh nghiệm trong quá xây dựng tổ chức, đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị ở cơ sở.
- Đánh giá đúng thực trạng về tổ chức, nội dung và phương thức lãnh đạo của tổ
chức đảng ở cơ sở huyện Ba Tơ.
- Nêu quan điểm và đề xuất giải pháp củng cố, kiện toàn tổ chức, đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của tổ chức Đảng ở cơ sở.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở huyện Ba
Tơ (Quảng Nngãi)
Chƣơng 3: Quan điểm, giải pháp củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng
hoạt động của tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở huyện Ba Tơ, tỉnh
Quảng Ngãi

7


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ
1.1. Nhận thức chung về Đảng chính trị, về hệ thống chính trị và hệ thống
chính trị ở cơ sở
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về đảng chính trị
1.1.1.1. Những khái niệm liên quan và chức năng của đảng chính trị
Trong xã hội có phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp, tổ chức đảng chính trị
là một hiện tượng đặc thù, là yếu tố cơ bản của hệ thống chính trị, hệ thống tổ chức
quyền lực chính trị, của chế độ chính trị và xã hội công dân, là công cụ tập hợp của
một hay nhiều giai cấp, tầng lớp trong xã hội; tổ chức lãnh đạo đấu tranh giai cấp vì
mục tiêu giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị, mà tập trung là quyền lực Nhà
nước và định hướng chính trị cho phát triển xã hội.
Cho đến nay, có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về đảng chính trị,
theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa “Đảng chính trị là tổ chức chính trị
thể hiện những lợi ích của một giai cấp hay tầng lớp xã hội, liên kết những đại diện

ưu tú nhất của giai cấp để lãnh đạo giai cấp đạt tới những mục đích và lý tưởng nhất
định” [46, tr.465].
Theo quan niệm của Mác - Ănghen, Đảng cộng sản là đảng của giai cấp công
nhân, có quan hệ thống nhất, chặt chẽ với giai cấp công nhân cả về mục tiêu, lý tưởng,
lợi ích cũng như cả về ý chí và hành động. Tuy nhiên, hai ông cũng chỉ rõ, Đảng
không phải là toàn bộ giai cấp công nhân; Đảng là một bộ phận của giai cấp, là lãnh tụ
chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân, có tổ chức và là tổ chức cao nhất của
giai cấp công nhân, bao gồm những người ưu tú nhất, giác ngộ cách mạng nhất trong
giai cấp công nhân, Đảng tiên phong cả về lý luận và thực tiễn: “về mặt lý luận, họ hơn
bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và
kết quả chung của phong trào vô sản”, “về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ
phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn
luôn thúc đẩy phong trào tiến lên” [12, tr. 614, 615].

8


V.I.Lênin là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, lãnh tụ của phong trào công
nhân Nga, ông đã kế thừa và bổ sung, phát triển sáng tạo những tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen cho phù hợp với điều kiện lịch sử về xây dựng một chính đảng độc lập
của giai cấp vô sản. Chính ông đã trực tiếp tổ chức, thành lập, lãnh đạo Đảng Công
nhân dân chủ - xã hội Nga - một chính đảng vô sản kiểu mới - tiền thân của Đảng
Cộng sản Liên Xô sau này. Đây là một đảng kiểu mới, khác với tất cả các tổ chức đảng
chính trị đương thời. Lê nin khẳng định: "Chỉ có Đảng Cộng sản, nếu nó thực sự là đội
tiền phong của giai cấp cách mạng, nếu nó bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của
giai cấp đó... chỉ có một đảng như vậy mới có thể lãnh đạo được giai cấp vô sản trong
cuộc đấu tranh cuối cùng, kiên quyết nhất, thẳng tay nhất chống lại tất cả mọi thế lực
của giai cấp tư sản” [50, tr. 227]. Và cũng theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
“Đảng chính trị là một tổ chức chính trị của một giai cấp, đại biểu lợi ích cho giai cấp
đó. Đảng chính trị ra đời nhằm mục đích đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực

nhà nước. Đảng chính trị lãnh đạo giai cấp đấu tranh giành chính quyền bằng
phương pháp cách mạng và bạo lực cách mạng” [48, tr. 124].
Liên quan đến quan niệm, khái niệm Đảng chính trị là vấn đề “Đảng lãnh đạo”,
"Đảng cầm quyền".
"Đảng lãnh đạo" là một khái niệm được các nhà kinh điển Mác - xít nêu ra vào
những năm cuối thế kỷ XIX và được hiểu là một hình thức của cuộc đấu tranh giai
cấp, là giai cấp công nhân thực hiện vai trò tiền phong, gương mẫu, phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân để làm sao có được sự đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của
đại đa số nhân dân lao động đối với Đảng, kể cả khi Đảng chưa giành được chính
quyền, nhằm xây dựng một xã hội tiến bộ theo mục tiêu của Đảng. V.I. Lênin viết:
“Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền
phong của mình, tức đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện
được. Nhưng sự đồng tình, ủng hộ đó không thể có ngay được và không phải do những
cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, khó
khăn, gian khổ mới giành được”[49, tr. 251].
Khái niệm “Đảng cầm quyền” được dùng trong khoa học chính trị, chỉ một
đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều
hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Theo V.Lênin, đảng
9


cầm quyền được hiểu là “đảng nắm chính quyền” bằng những người đại diện của đảng
trực tiếp thực hiện công việc quản lý trong bộ máy nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất sớm về Đảng cầm quyền, tuy nhiên
Người không nêu rõ khái niệm Đảng cầm quyền là như thế nào. Và có thể thấy chỉ có
một lần trong Di chúc, Người mới nói rõ “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”[32];
nhưng qua những bài viết, bài nói, Người cho rằng “Đảng cầm quyền” là một khái
niệm khác với “Đảng lãnh đạo”, Đảng cầm quyền là khái niệm gắn với quyền lực.
Theo Người, Đảng cầm quyền cũng là Đảng nắm chính quyền, nghĩa là Đảng có quyền
lực trong thực tế. Tuy nhiên, Đảng ta là đội tiền phong không chỉ của giai cấp công

nhân mà là của cả dân tộc, là Đảng của cả giai cấp lao động và cũng là đảng của toàn
dân; những cán bộ, đảng viên của Đảng trực tiếp thi hành những nhiệm vụ quản lý
trong bộ máy nhà nước nhưng đều chỉ là những người được nhân dân “ủy thác”, bầu ra
để phục vụ nhân dân. Người viết: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân
bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy” [33, tr. 218]. Có thể thấy, đây
là một nét đặc thù của Đảng cầm quyền ở nước ta, trong khi đảng cầm quyền ở nhiều
nước chỉ luôn đại diện một lực lượng trong nhiều lực lượng khác nhau của các giai
cấp, tầng lớp dân chúng trong xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách
mạng, Người khẳng định: Cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi” [34, tr. 267, 268] và Đảng có vững cách mạng mới thành công.
Qua các quan niệm trên có thể thấy, Đảng chính trị là một liên kết các cá nhân,
tập hợp chung những người có cùng niềm tin, mục đích chính trị, chia sẻ mong muốn
kiểm soát bộ máy nhà nước bằng các phương thức hợp hiến. Như vậy, Đảng chính trị
là một liên minh chính trị của các nhóm, các phái cùng chung mục đích đấu tranh
giành, giữ quyền lực nhà nước nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp, tầng lớp xã hội của
mình. Trong đảng chính trị có nhiều nhóm, phe phái hoạt động với mục đích khác
nhau và chỉ liên minh với nhau khi đạt đến mục đích chính trị thống nhất.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã
lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh

10


thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến, đưa Nhân
dân ta từ địa vị nô lệ lên làm chủ đất nước, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ nền độc lập của Tổ quốc. Kết quả ấy là biểu thị cho những thắng lợi của cách mạng

Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và được cả dân tộc Việt Nam thừa nhận.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của dân tộc" [16, tr. 4]. Đây được xem là khái niệm cơ bản về Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Từ những vấn đề trên có thể khái niệm Đảng chính trị là một tổ chức chính trị
được liên kết lại gồm những đại diện tiêu biểu nhất của một giai cấp hay tầng lớp xã
hội, theo một hệ tư tưởng hay quan điểm chính trị nhất định, thể hiện lợi ích của giai
cấp hay tầng lớp xã hội ấy, hướng tới việc giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị
mà trọng tâm là quyền lực nhà nước nhằm tồn tại, duy trì và phát triển giai cấp hay
tầng lớp xã hội ấy.
Khi nghiên cứu về những quan niệm, định nghĩa về đảng chính trị, có thể thấy
rằng các đảng chính trị là thành phần không thể thiếu cho sự vận hành của các chính
phủ dân chủ hiện đại, có nghĩa là nền dân chủ không thể hoạt động nếu không có sự
tồn tại của các đảng phái chính trị. Bởi lẽ, các đảng chính trị có những chức năng cơ
bản đó là:
Thứ nhất, các đảng chính trị bảo đảm cho hoạt động của chính phủ, quốc hội có
thể thực hiện được trên thực tế, vì Quốc hội hay Nghị viện bao gồm các đại diện của
nhân dân. Các đảng chính trị tham gia vào quy trình thành lập những cơ quan quyền
lực này theo đường lối, chính sách chung của mình để vận động cử tri ủng hộ. Chính
đảng mà có được đa số phiếu bầu sẽ thành lập chính phủ và điều hành nhà nước.
Thứ hai, các đảng chính trị xây dựng các chính sách công cộng. Mỗi đảng chính
trị tham gia vào cuộc bầu cử để đạt được mục tiêu của nó kết hợp với tuyên ngôn
chính trị của của đảng đó, đồng thời hình thành quyết sách, cương lĩnh chính yếu của
từng đảng trong quá trình tranh cử. Tuy nhiên, không đảng phái nào có thể đạt được sự
đồng thuận gần như tuyệt đối về mặt quan điểm.

11



Thứ ba, các đảng chính trị giúp định hướng và hỗ trợ công luận. Trong bất kỳ
hệ thống chính phủ nào, các đảng chính trị đều định hướng, xây dựng, tập hợp, tổ chức
và thực hiện hóa công luận, đây là yếu tố không thể thiếu trong môi trường nhà nước
hiện đại. Các đảng phái chính trị với nỗ lực tiến gần hơn với công chúng, bằng nhiều
hình thức làm cho quan điểm của mình trở nên rõ ràng. Điều này tạo cho người dân có
cơ hội phân tích những ưu, khuyết điểm của các vấn đề quan trọng khác nhau.
Thứ tư, các đảng chính trị tạo nên sự ổn định chính trị. Bằng nhiều cách, các
đảng chính trị thường giúp hợp nhất, đơn giản hóa và ổn định quá trình chính trị của
đất nước. Các lực lượng, nguồn gốc gây mất ổn định cục bộ, khu vực, lợi ích và vị thế
địa lý sẽ có thể giải quyết tranh chấp của mình bằng con đường chính trị. Thông qua
đảng chính trị, những lực lượng này buộc phải cải tạo hệ tư tưởng của họ để thu hút
dân chúng. Ngoài ra, các đảng phái chính trị trong nền dân chủ đại diện còn đóng một
vai trò rất lớn trong việc duy trì sự ổn định bằng cách thực hiện các vai trò của mình
trong cơ quan lập pháp, góp phần tạo nên sự ổn định của chính phủ.
Thứ năm, các đảng chính trị giúp hội tụ những nhà lãnh đạo toàn diện, người có
đủ tố chất liêm chính, được tín nhiệm, có ảnh hưởng, có khả năng lãnh đạo gấp nhiều
lần các thành viên của nó và chuẩn bị cho cuộc bầu cử trong tương lai. Bởi lẽ chính
những thành viên đại diện của đảng chính trị là người truyền bá hệ tư tưởng của đảng,
thảo luận các vấn đề xã hội và tổ chức các cuộc họp, họp báo để vận động hỗ trợ từ
cộng đồng…
1.1.2. Nhận thức về Hệ thống chính trị và Hệ thống chính trị ở cơ sở
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của Hệ thống chính trị
Khi nghiên cứu hệ thống chính trị có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng cơ
bản có thể nghiên cứu theo ba cách sau:
Thứ nhất, tiếp cận từ góc độ tổ chức và chức năng thì hệ thống chính trị là một
hệ thống các cơ quan, tổ chức chính trị hợp pháp thực hiện các hoạt động mang tính
chính trị trong xã hội. Từ góc độ này, hệ thống chính trị được hiểu là hệ thống các tổ
chức chính trị - xã hội, các đảng chính trị hợp pháp và nhà nước của giai cấp cầm
quyền cùng với các quy định, thể chế về mối quan hệ qua lại giữa các tổ chức đó, tác

động vào các quá trình đời sống xã hội nhằm duy trì, phát triển xã hội, bảo đảm quyền
lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền.

12


Thứ hai, tiếp cận từ góc độ bản chất và tính chỉnh thể thì hệ thống chính trị là
hệ thống thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền, bao gồm các bộ phận
hợp thành cả về mặt tổ chức và mục tiêu, điều kiện bảo đảm cho các bộ phận của hệ
thống ấy được vận hành theo hướng thực hành dân chủ.
Thứ ba, nếu tiếp cận từ góc độ cơ chế thực hiện thì hệ thống chính trị là tổng
thể các cơ chế như quyết định, thực hiện và tham gia, giám sát việc thực hiện đường
lối chính trị nhằm bảo đảm cho sự vận hành của quyền lực chính trị.
Trong hệ thống chính trị của mỗi quốc gia đều có cơ chế vận hành riêng, nhưng
về cơ bản là vận hành theo ba cơ chế: Thứ nhất, cơ chế mệnh lệnh cưỡng bức; thứ hai
là cơ chế thể chế; thứ ba là cơ chế tư vấn. Ba cơ chế này có thể vận hành đồng thời, có
thể riêng biệt tùy theo các quan hệ giữa chủ thể chính trị và đối tượng chịu tác động
của quyền lực chính trị.
Xét từ ba góc độ trên, có thể khái luận: Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các
thiết chế và cơ chế thực thi quyền lực chính trị. Hay nói cụ thể hơn: Hệ thống chính trị
là hệ thống các thiết chế thực hiện các hoạt động mang tính chính trị trong xã hội gồm
các đảng phái chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội được
thành lập hợp pháp, có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với quyền lực chính trị, có
quan hệ ràng buộc, tác động lẫn nhau xoay quanh việc tổ chức và thực hiện quyền lực
chính trị [51, tr. 18].
Ở Việt Nam, thuật ngữ "Hệ thống chính trị" được sử dụng lần đầu tiên tại Hội
nghị Trung ương 6 khoá VI (tháng 3-1989), sau đó được chính thức đưa vào Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ năm 1991 và được sử dụng phổ biến trong
các văn kiện của Đảng từ đó đến nay. Theo quan điểm chính thống thể hiện trong các
Văn kiện của Đảng ta “Hệ thống chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể chính trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở, liên quan đến cả cơ cấu tổ
chức, cơ chế vận hành, bố trí cán bộ, phương thức hoạt động, lề lối làm việc và chế
độ, chính sách đãi ngộ... rất phức tạp, nhạy cảm”[45].
Khi nghiên cứu hệ thống chính trị của nhiều nước trên thế giới, có thể thấy tùy
vào thể chế chính trị, đặc điểm của từng bộ phận trong hệ thống chính trị ấy mà có đặc
điểm khác nhau. Hầu hết đảng chính trị ở các nước phương Tây hiện đại, đặc điểm cơ
bản đó là hệ thống “đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị”. Xét cho cùng, tuy "đa nguyên,

13


đa đảng” nhưng về cơ bản cơ quan Lập pháp và Hành pháp đều nằm trong tay các đảng
tư sản cầm quyền. Ngay cả trường hợp có một số đảng liên minh cầm quyền thì trên
thực tế vẫn chỉ có các đảng lớn, có thế lực nhất nắm quyền quyết định, và suy đến cùng
là bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ tư bản chủ nghĩa.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, chế độ “nhất nguyên chính trị” là sản phẩm tất
yếu của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chống
lại giai cấp tư sản. Sau khi trở thành lực lượng cầm quyền, Đảng Cộng sản là lực
lượng lãnh đạo, thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đối với tổ chức Nhà nước, trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều hình thức thể chế
nhà nước, song có thể quy thành hai hình thức cơ bản là Quân chủ và Cộng hòa. Mỗi
thể chế có những đặc điểm riêng.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội và các nhóm lợi ích, hoạt động của chúng
vừa mang tính chính trị, vừa mang tính xã hội. Tùy điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể
ở mỗi nước, các tổ chức này có đặc điểm riêng về tổ chức và phương thức hoạt động.
Thông thường các tổ chức này không đặt ra mục tiêu giành hoặc tham gia chính
quyền; mà thường vì lợi ích của các thành viên trong tổ chức của mình tìm cách tác
động, gây ảnh hưởng đối với chính quyền và đảng phái chính trị.
Khác với hệ thống chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa và hệ thống chính trị ở các

nước xã hội chủ nghĩa trước đây thì hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay ngoài đảng
chính trị, nhà nước còn có một số tổ chức chính trị - xã hội được thành lập để thực hiện các
hoạt động chính trị và các chức năng xã hội khác, nhưng đó không phải là chức năng chủ
yếu. Có thể khái quát hệ thống chính trị ở Việt Nam có những đặc điểm đó là: Tính nhất
nguyên chính trị, không có đa đảng đối lập; tính thống nhất thể hiện sự gắn bó mật thiết
với Nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân và hệ thống chính trị ở nước ta
mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
Những đặc điểm trên vừa quy định kết cấu, tổ chức, cơ chế vận hành và các mối
quan hệ vừa quy định tính thống nhất của hệ thống chính trị trong cả nước. Các khái
niệm trung ương - địa phương - cơ sở chỉ là những cấp độ khác nhau của hệ thống
chính trị nói chung, không phải là có ba hệ thống chính trị: Hệ thống chính trị Trung
ương, Hệ thống chính trị địa phương và Hệ thống chính trị cơ sở.

14


1.1.2.2. Hệ thống chính trị ở cơ sở Việt Nam
Khái niệm cơ sở được hiểu theo tinh thần Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH
ngày 20/7/2007 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn. Cơ sở ở đây được hiểu với tư cách là một cấp quản lý nhà nước trong
hệ thống quản lý hành chính nhà nước hiện hành. Đó là cấp cơ sở của quản lý nhà
nước, trong đó xã là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn có địa bàn rộng lớn, chiếm đa số
trong tổng số đơn vị cơ sở. Vì vậy, hệ thống chính trị ở cơ sở được hiểu là hệ thống
các thiết chế và các cơ chế để thực thi quyền lực chính trị tại cấp cơ sở, chủ yếu là ở
xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Như vậy, bộ phận trọng tâm là chính quyền
cơ sở; các thiết chế dưới cấp chính quyền cơ sở như tổ dân phố, thôn, xóm, ấp… có
liên hệ chặt chẽ tới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở và được xem là
bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị cơ sở.
Theo cách hiểu như trên có thể khái niệm: Hệ thống chính trị cơ sở là một
chỉnh thể các thiết chế và cơ chế thực thi quyền lực chính trị tại cơ sở [51, tr. 20].

Xét từ góc độ cấu trúc tổ chức của hệ thống chính trị có thể khái niệm hệ thống
chính trị ở cơ sở là một chỉnh thể bao gồm các bộ phận: Đảng bộ, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các thành viên dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ nhằm thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân địa phương. Mỗi bộ phận trong hệ thống có vai trò, chức năng
riêng và có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành hệ thống, quản lý và điều hành mọi
hoạt động tại cơ sở về các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ những cách tiếp cận về khái niệm và đặc điểm của hệ thống chính trị Việt
Nam, có thể khái quát hệ thống chính trị ở cơ sở có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, hệ thống chính trị ở cơ sở là một bộ phận quan trọng, không thể tách
rời của hệ thống chính trị Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
bảo đảm tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam.
Thể chế chính trị nước ta là nhất nguyên chính trị, duy nhất một Đảng lãnh đạo.
Mỗi một thành tố trong hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập
và lãnh đạo, vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của Nhân dân, tổ chức tập
hợp, đoàn kết, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng, nhưng đồng thời
cũng vừa là tổ chức mà thông qua đó Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện việc lãnh
đạo chính trị đối với xã hội.
15


Xét ở khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý của chỉnh thể hệ thống
chính trị ở nước ta thì hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp thấp nhất. Tuy nhiên, ở cấp
thấp nhất nhưng lại quan trọng nhất, vì cấp ở cơ sở là cấp trực tiếp thực thi các đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực hiện được hay
không là do ở cơ sở.
Thứ hai, xét về mặt cấu trúc, hệ thống chính trị cơ sở bao gồm Đảng bộ, Chính
quyền cơ sở, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp
Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ nhằm thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân ở địa phương. Hệ thống chính trị ở cơ sở có bộ máy đơn giản, cán bộ
được hưởng các chế độ sinh hoạt phí thấp nhất, đội ngũ cán bộ thường xuyên biến

động, trình độ lý luận và trình độ chuyên môn hạn chế.
Mối quan hệ hoạt động giữa các bộ phận trong hệ thống chính trị ở cơ sở tạo ra
tính thống nhất của hệ thống chính trị ở cơ sở. Các tổ chức thành viên cùng tồn tại và
hoạt động trên cùng một địa bàn mang tính chất là một cấp chính quyền nhỏ nhất. Các
thành viên trong hệ thống chính trị ở cơ sở đều đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng; các thành viên tiến hành các mặt hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà
nước và sự quản lý, điều hành của chính quyền địa phương theo các nguyên tắc Đảng
lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về Nhân
dân. Tuy có chức năng, nhiệm vụ, cách tổ chức và phương thức hoạt động khác nhau,
nhưng các thành viên của hệ thống chính trị cùng hướng tới các mục tiêu chung là phát
triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân địa
phương. Trong sự thống nhất của hệ thống chính trị ở cơ sở thì đảng bộ là hạt nhân
chính trị, giữ vai trò lãnh đạo; chính quyền là lực lượng chủ đạo, giữ vai trò quản lý,
điều hành và các đoàn thể Nhân dân là tổ chức đại diện của các tầng lớp nhân dân.
Thứ ba, hệ thống chính trị cơ sở là gần dân nhất, là cấp trực tiếp giải quyết
những vấn đề ở cơ sở, là cấp đầu tiên tiếp cận và trực tiếp giải quyết những yêu cầu
bức xúc của người dân, những vấn đề nảy sinh trong đời sống; hệ thống chính trị cơ sở
gắn bó mật thiết và chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân.
Cấp cơ sở là tầng sâu nhất, là điểm cuối cùng mà mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước phải tìm đến. Chủ trương, chính sách có trở
16


thành hiện thực hay không, người dân hưởng ứng hay không, tác dụng của các chủ
trương, chính sách đó ở mức nào, đúng hay sai đều được chứng minh bởi cuộc sống,
tâm trạng, thái độ, niềm tin và hành động cụ thể của người dân. Vì vậy, cấp cơ sở tuy
là cấp thấp nhất trong hệ thống quản lý nhưng có tầm quan trọng đặc biệt. Và trên thực
tế, cấp xã là nơi tập trung giải quyết các công việc của công dân. Việc bảo đảm dân
chủ ở cơ sở và nâng cao chất lượng phục vụ, quản lý của chính quyền cơ sở là tiền đề
cho sự ổn định và phát triển.

Thứ tư, hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc biệt là miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số chịu sự tác động mạnh mẽ của các yếu tố đặc thù mang tính chất vùng như:
các quan hệ cộng đồng, các yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo, phương thức
sản xuất…
Những đặc điểm mang tính đặc thù trên có thể tác động, ảnh hưởng đáng kể đến
quan hệ nội bộ trong tổ chức và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Trong quan hệ với dân, cán bộ ở cơ sở có thể bị chi phối, ràng buộc rất lớn bởi quan hệ
họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống làng xã...vì vậy
phải chú ý khắc phục những tư tưởng lệch lạc, lạc hậu.
Thứ năm, các mối quan hệ theo nhiều hướng đang đan xen và tác động lẫn nhau
hết sức sinh động và phức tạp.
Trong hệ thống chính trị ở cơ sở, quan hệ giữa các thiết chế được xác lập theo
cơ chế chủ đạo: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Quan hệ giữa Đảng bộ cơ sở với chính quyền cơ sở là mối quan hệ giữa hai chủ
thể vừa phụ thuộc, vừa độc lập. Đảng lãnh đạo nhưng tổ chức đảng và đảng viên hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, chấp hành chủ trương, nghị quyết của
chính quyền địa phương; tuân thủ nội quy, quy chế hoạt động của chính quyền cơ sở;
chính quyền cơ sở chịu sự lãnh đạo của Đảng bộ cơ sở nhưng độc lập trong việc tổ
chức điều hành, quản lý các công việc tại địa phương, trực tiếp giải quyết các vấn đề
đặt ra tại địa phương.
Quan hệ giữa Đảng bộ cơ sở với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tại cơ sở là
17


mối quan hệ giữa chủ thể lãnh đạo với các tổ chức đại diện hợp pháp cho các tầng lớp
Nhân dân, mà Nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị. Đảng bộ vừa là người lãnh
đạo Mặt trận cũng vừa là thành viên của Mặt trận. Vì vậy, quan hệ giữa Đảng bộ và Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc vừa là quan hệ lãnh đạo vừa là quan hệ hiệp thương dân chủ, phối
hợp và thống nhất hành động.
Quan hệ giữa chính quyền cơ sở với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân

dân tại cơ sở là mối quan hệ bình đẳng, cùng hướng vào mục tiêu đảm bảo quyền làm
chủ của Nhân dân địa phương trong quản lý nhà nước và xã hội. Ngoài ra, quan hệ
giữa chính quyền cơ sở và Mặt trận Tổ quốc còn là quan hệ phối hợp hành động.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội (Đoàn Thanh niên, Hội Cựu
chiến binh, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ có vai trò rất quan trọng trong sự
nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của Nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và
xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền; giáo dục lý tưởng
và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân
dân với Đảng, Nhà nước.
Quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở với hệ thống chính trị cấp trên là mối
quan hệ giữa các bộ phận trên - dưới trong cùng hệ thống, mang tính chất chấp hành,
điều hành, được thiết kế theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cơ bản
bảo đảm cho hệ thống chính trị thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức
mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị.
Quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở với các thiết chế chính trị của cộng đồng
tự quản tại địa phương là mối quan hệ giữa cấu trúc nhỏ nhất của hệ thống chính trị
Việt Nam, các tổ chức này được xem là cánh tay nối dài của cấu trúc đó. Trên thực tế,
đó là mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ, vận hành theo quy chế phối hợp công tác, các văn
bản pháp luật của nhà nước, luật tục, hương ước và quy phạm tôn giáo.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng, là một bộ phận không
thể tách rời hệ thống chính trị Việt Nam. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) nhận
định: “Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh
18


sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả
năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư” [3, tr.1].

Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở được thể hiện qua sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị ở cơ sở, đồng thời cũng được thể hiện thông qua vai trò của từng
bộ phận cấu thành nên nó. Nhìn chung hệ thống chính trị ở cơ sở có những vai trò sau:
+ Phát huy dân chủ ở cơ sở, đoàn kết, tập hợp quần chúng và huy động sức
mạnh tổng hợp từ cơ sở để thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước.
+ Xác định các biện pháp và trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cụ thể hóa quy hoạch kinh tế - xã hội và
các quyết sách của cấp trên tại cơ sở.
+ Thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, trật
tự kỷ cương xã hội trên địa bàn.
+ Bảo đảm, bảo vệ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân tại cộng
đồng cơ sở.
+ Tạo điều kiện và phối hợp với các thiết chế tự quản, các hội nghề nghiệp, từ
thiện, nhân đạo…để vận động và hướng dẫn các tổ chức đó hoạt động đúng hướng,
đúng pháp luật.
+ Phát hiện nhu cầu, tổng hợp các sáng kiến tại cơ sở, chuyển tải các nguyện
vọng của nhân dân địa phương phục vụ quá trình xây dựng chủ trương, chính sách,
biện pháp phát triển phù hợp với đặc điểm của vùng, khu vực.
Vai trò của từng bộ phận trong hệ thống chính trị ở cơ sở thể hiện thông qua
chức năng, nhiệm vụ của các thiết chế, năng lực của các thiết chế trong việc thực hiện
hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ và khả năng tác động tới quá trình xây dựng, phát
triển tại địa phương. Trong đó tổ chức cơ sở đảng có vai trò hạt nhân lãnh đạo chính
trị; chính quyền cơ sở là đơn vị thực hiện, đồng thời cũng là nơi kiểm tra, đánh giá
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là nơi trực tiếp
trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đối với các đoàn thể Nhân dân có vị
trí đặc biệt quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết Nhân dân, chăm lo lợi ích của
19


thành viên, thực hiện dân chủ thực thi quyền và nghĩa vụ của công dân, thắt chặt mối

liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong các
phong trào vận động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng nếp sống
văn hóa, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở.
1.2. Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị ở cơ sở
1.2.1. Hệ thống, cơ cấu tổ chức của Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở
Hiện nay tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam được thực hiện theo Điều lệ
Đảng, các văn bản của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, bảo
đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị và
xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chặt
chẽ từ Trung ương xuống cơ sở. Về cơ bản, tổ chức Đảng được tổ chức theo cơ cấu tổ
chức hành chính nhà nước. Có nghĩa là tại mỗi cấp hành chính nhà nước có các tổ
chức đảng tương ứng.
Điều lệ Đảng xác định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ, đảng bộ cơ sở ) là nền
tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”; “Ở xã, phường, thị trấn, có từ ba đảng
viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở cơ
quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các
đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng…nếu chưa đủ ba
đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ
chức cơ sở đảng thích hợp" [16, tr. 35, 36]. Theo đó, ở cấp Trung ương có Trung ương
Đảng; ở cấp tỉnh có các đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ở cấp huyện
có các đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và ở cấp cơ sở có các tổ
chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
Số lượng cấp ủy viên, cơ quan tham mưu, giúp việc ở mỗi cấp thực hiện do
Điều lệ Đảng quy định. Trong Điều lệ Đảng có nêu: "Số lượng Uỷ viên Ban Chấp
hành Trung ương do Đại hội đại biểu toàn quốc quyết định; số lượng cấp uỷ viên cấp
nào do đại hội cấp đó quyết định theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.
Cấp uỷ các cấp cần được đổi mới, bảo đảm tính kế thừa và phát triển qua mỗi lần đại
hội. Cấp uỷ mỗi cấp lập các cơ quan tham mưu, giúp việc theo hướng dẫn của Ban
Chấp hành Trung ương. Khi cần, cấp uỷ lập tiểu ban, hội đồng, tổ công tác và giải
thể khi hoàn thành nhiệm vụ.[16, tr. 26, 27,28].

20


Ngoài hệ thống tổ chức cơ bản, tổ chức đảng còn được thành lập theo khối.
Trung ương lập một số đảng bộ khối trực thuộc Trung ương. Các đảng bộ khối này
được tổ chức theo các đơn vị cùng ngành hoặc các ngành có chức năng tương đồng và
có mối quan hệ với nhau về nhiệm vụ chính trị.
Các đảng bộ khối trực thuộc Trung ương bao gồm các đảng bộ của các cơ quan
có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hiện nay, có hai đảng bộ khối trực thuộc Trung ương là Đảng bộ Khối các cơ quan
Trung ương và Đảng bộ Khối doanh nghiệp Trung ương. Các đảng bộ trực thuộc Đảng
bộ Khối trực thuộc Trung ương là các đảng bộ cấp trên cơ sở, bao gồm các loại hình:
- Các đảng bộ trong các cơ quan Trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội.
- Các đảng bộ được thành lập trong các doanh nghiệp lớn, đông đảng viên, các
tổ chức kinh tế… Hầu hết đây là các đảng bộ trực thuộc Đảng bộ khối doanh nghiệp
Trung ương.
- Các đảng bộ khối thuộc Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ở
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Đảng bộ Khối cơ quan tỉnh, thành phố; ở
các tỉnh, thành phố có nhiều doanh nghiệp thì có Đảng bộ khối doanh nghiệp. Ngoài
ra, còn có các đảng bộ tương đương cấp huyện được thành lập ở một số nơi khác có
đặc điểm riêng (thực hiện theo quy định Điều lệ Đảng).
Trực thuộc các đảng bộ cấp trên cơ sở là các tổ chức cơ sở đảng. Đây là các
đảng bộ, chi bộ được thành lập tại các tổ chức kinh tế - xã hội như cơ quan, doanh
nghiệp, hợp tác xã, đơn vị.
Đối với hệ thống tổ chức Đảng trong Quân đội, Công an được tổ chức tương
ứng với cơ cấu tổ chức của Quân đội và Công an, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và Công an.
Xét từ góc độ đơn vị hành chính, trong hệ thống tổ chức cơ bản của Đảng thì tổ
chức cơ sở Đảng được thành thành lập tại xã, phường, thị trấn; là tổ chức đảng trực

thuộc Đảng bộ huyện và tương đương. Hiện nay có hai loại hình là đảng bộ cơ sở và
chi bộ cơ sở. Ở xã, phường, thị trấn, tức là các cộng đồng dân cư cấp xã, nếu có từ ba
đảng viên chính thức trở lên thì thành lập tổ chức cơ sở đảng trực thuộc đảng bộ cấp
huyện. Tùy vào số lượng đảng viên chính thức để thành lập đảng bộ cơ sở hay chi bộ

21


×