Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đảng trong hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện ba tơ, tỉnh quảng ngãi tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.3 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG QUÂN

ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC
TIỄN HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành:Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình đƣợc hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
GS. TS. LƢU VĂN QUẢNG

Phản biện 1: PGS.TSKH. PHAN XUÂN SƠN
Phản biện 2: GS.TS. DƢƠNG XUÂN NGỌC

Luận văn đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học Viện Khoa học Xã hội vào lúc: ...... giờ, ngày......
tháng.... năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thƣ viên Học viện Khoa học Xã hội




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua các thời kỳ lịch sử đã chứng minh trong mọi xã hội có giai
cấp, chủ thể cầm quyền thực hiện quyền lực của mình bằng một hệ
thống thiết chế nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Trong chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở Việt Nam, hệ thống chính
trị là một cơ chế, đồng thời là công cụ thực hiện quyền làm chủ của
Nhân dân dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị luôn đƣợc thể hiện, ghi nhận qua các bản Hiến
pháp và Cƣơng lĩnh của Đảng. Đó là cơ sở của mối quan hệ giữa xây
dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng trong hệ thống chính trị. Khác với các nƣớc dân chủ trên thế
giới, ở Việt Nam hệ thống chính trị cơ sở là bộ phận của hệ thống chính
trị không thể tách rời.
Trong những năm qua, nhất là từ năm 2010 trở lại đây, ở huyện
Ba Tơ (Quảng Ngãi), đảng bộ các cấp từ huyện đến cơ sở đã lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ trên các lĩnh vực đạt nhiều kết quả quan
trọng.
Tuy nhiên, kinh tế phát triển chƣa đồng đều giữa các vùng trong
huyện; các nguồn lực chƣa đƣợc khơi dậy và phát huy đúng mức. Lĩnh
vực văn hóa, y tế, giáo dục còn nhiều bất cập, chƣa đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, học tập và chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là ở vùng cao, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tình hình trật tự xã hội còn tiềm ẩn những
yếu tố phức tạp. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, hoạt
động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội có nơi chƣa đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ.
Những hạn chế, yếu kém do nhiều nguyên nhân, nhƣng một
trong những nguyên nhân chủ yếu là cơ cấu tổ chức của Đảng trong hệ

thống chính trị ở cơ sở còn nhiều bất cập, chƣa phù hợp; nội dung,
phƣơng thức hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng chƣa thật sự đổi mới,
1


năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng ở cơ sở còn hạn
chế.
Sự đúng đắn và tính hiệu quả của những chủ trƣơng, quan điểm
về kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt động
của Đảng không chỉ đặt ra ở cấp vĩ mô mà phải tiến hành đồng bộ ở các
cấp. Làm thế nào để cấp cơ sở thực hiện và vận dụng sáng tạo, hoạt
động hiệu quả hơn, phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tiêu
cực, yếu kém, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
đảng là một yêu cầu bức thiết đặt ra cho đảng bộ các cấp trong tỉnh
Quảng Ngãi nói chung và của tổ chức đảng ở cơ sở huyện Ba Tơ nói
riêng. Đặc biệt, hiện nay, khi mà Đảng ta đang thực hiện cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ƣơng 4 khóa
XI và khóa XII là vấn đề có tính thời sự và rất đáng nghiên cứu. Từ nhận
thức và thực tiễn ấy, tác giả chọn vấn đề "Đảng trong hệ thống chính
trị cơ sở từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi" để nghiên cứu,
làm đề tài luận văn Thạc sỹ, ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, mối quan
hệ giữa các bộ phận trong hệ thống chính trị và nội dung, phƣơng thức
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặt biệt là của tổ chức
đảng ở cơ sở đã đƣợc nhiều ngƣời nghiên cứu trong các chƣơng trình, đề
tài khoa học đƣợc công bố ở một số tạp chí, nhà xuất bản trong nƣớc;
đồng thời cũng đƣợc nhiều ngƣời làm khoa học nghiên cứu, tiêu biểu là
một số công trình sau:
- Trần Quang Cảnh (2007), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của

huyện ủy đối với chính quyền huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc". Luận văn
Thạc sĩ.
- Đỗ Tiến Dũng (2015), Các đảng chính trị ở Anh, Pháo, Mỹ sự tương đồng và khác biệt. Luận văn thạc sỹ, mã số 60.31.02.01. Tác
giả đã phân tích điểm giống và khác nhau giữa các đảng chính trị ở Anh,
2


Pháp, Mỹ, góp phần hoàn thiện về mặt lý luận cho Đảng ta tham khảo và
vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2011), Đảng Cộng sản Việt
Nam: Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, Nhà xuất bản chính
trị quốc gia.
- Lê Hữu Nghĩa (2014), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
- Trần Đình Nghiêm (chủ biên), các chuyên đề “Đảng cầm
quyền”, “Đảng lãnh đạo chính quyền”. Đề tài cấp nhà nƣớc KX.05.09
(giai đoạn 2001-2005) đã nghiệm thu và in thành sách. Tác giả làm rõ
hơn vị trí, vai trò của Đảng cầm quyền; phƣơng thức lãnh đạo của Đảng
đối với chính quyền.
- Phạm Ngọc Quang (chủ biên) (giai đoạn 2001-2005), “Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và chính quyền
các cấp”. Tác giả làm rõ hơn phƣơng thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nƣớc chính quyền các cấp.
+ Tạ Ngọc Tấn, (chủ biên) (2012), Một số vấn đề về các đảng
chính trị trên thế giới, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội. Tác
giả giới thiệu 20 đảng chính trị tiêu biểu trên thế giới, trong đó có đảng
chính trị Anh, Pháp, Mỹ. Đồng thời giới thiệu sự hình thành và phát
triển của các đảng chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo, kinh nghiệm tranh
quyền và cầm quyền, kinh nghiệm xây dựng, phát triển của các đảng

chính trị, kinh nghiệm điều chỉnh chiến lƣợc, sách lƣợc của các đảng
chính trị hiện nay.
+ Ngô Đức Tính, (chủ biên) (2004), Một số Đảng chính trị trên
thế giới, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến
các đảng chính trị Anh, Pháp, Mỹ ở góc độ phạm vi từng quốc gia.
- Nguyễn Khánh Vinh (chủ nhiệm) (2015), Hệ thống chính trị
cơ sở phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.
3


Các công trình và tài liệu nghiên cứu đã làm rõ hơn các vấn đề
về đảng chính trị, hệ thống chính trị và hệ thống chính trị ở cơ sở. Tuy
nhiên, hầu hết các công trình đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn ở cấp
vĩ mô, chƣa đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm giữa vấn đề lý luận và
thực tiễn ở cơ sở trong nội dung, phƣơng thức hoạt động của Đảng đối
với hệ thống chính trị. Và đến nay chƣa có công trình khoa học nào
nghiên cứu về vấn đề tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở từ
thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, vì vậy đề tài này sẽ đi sâu vào
nghiên cứu để làm rõ hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về Đảng chính trị, tổ chức
Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở; đánh giá đúng thực trạng về tổ
chức bộ máy, nội dung, phƣơng thức hoạt động của tổ chức Đảng trong
hệ thống chính trị ở cơ sở, huyện Ba Tơ; tìm những nguyên nhân ƣu
điểm, khuyết điểm, từ đó đƣa ra một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao
chất lƣợng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng nói chung và tổ chức Đảng
trong hệ thống chính ở cơ sở huyện Ba Tơ nói riêng.
Để đạt đƣợc mục đích trên, tác giả phải thực hiện một số nhiệm
vụ sau:
- Hệ thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận về tổ chức bộ máy,

chức năng, nhiệm vụ, nội dung, phƣơng thức lãnh đạo của Đảng trong
hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị ở cơ sở nói riêng.
- Phân tích những yếu tố tác động và thực trạng về tổ chức, hoạt
động của tổ chức Đảng ở cơ sở.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng nhằm bảo đảm về tổ chức, hoạt động và vai trò lãnh đạo đối với hệ
thống chính trị ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng

4


Tổ chức bộ máy, nội dung và phƣơng thức hoạt động của các
đảng bộ cấp xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, nội
dung và phƣơng thức hoạt động, lãnh đạo của Đảng bộ 20 xã, thị trấn
trực thuộc Đảng bộ huyện Ba Tơ; phƣơng thức hoạt động của một số chi
bộ thôn trực thuộc đảng bộ xã, thị trấn.
+ Về không gian: Địa bàn 20 xã, thị trấn; một số thôn, khu dân
cƣ thuộc 20 xã thị trấn.
+ Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng Đảng nói chung và tổ chức đảng ở cơ sở nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: Logic lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, nghiên cứu tài liệu, khảo sát, tổng

kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ
chức, nội dung và phƣơng thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở huyện
Ba Tơ trên cơ sở khái quát những quan điểm của Đảng, cũng nhƣ một số
kinh nghiệm trong quá xây dựng tổ chức, đổi mới nội dung, phƣơng
thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị ở cơ sở.
- Đánh giá đúng thực trạng về tổ chức, nội dung và phƣơng thức
lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở huyện Ba Tơ.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm về xây dựng tổ chức, đổi
mới nội dung, phƣơng thức lãnh đạo của tổ chức Đảng ở cơ sở.
7. Cơ cấu của đề tài
5


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn gồm 3 chƣơng, 7 tiết.
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về Đảng trong hệ thống
chính trị ở cơ sở
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức Đảng trong hệ thống chính
trị ở cơ sở huyện Ba Tơ (Quảng Nngãi)
Chƣơng 3: Quan điểm, giải pháp củng cố, kiện toàn và nâng
cao chất lƣợng hoạt động của tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị ở
cơ sở huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG

TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
1.1. Nhận thức chung về Đảng chính trị, về hệ thống chính
trị và hệ thống chính trị ở cơ sở
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về đảng chính trị
1.1.1.1. Những khái niệm liên quan và chức năng của đảng
chính trị
Trong xã hội có phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp, tổ
chức đảng chính trị là một hiện tƣợng đặc thù, là yếu tố cơ bản của hệ
thống chính trị, hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, của chế độ chính trị
và xã hội công dân, là công cụ tập hợp của một hay nhiều giai cấp, tầng
lớp trong xã hội; tổ chức lãnh đạo đấu tranh giai cấp vì mục tiêu giành,
giữ và sử dụng quyền lực chính trị, mà tập trung là quyền lực Nhà nƣớc
và định hƣớng chính trị cho phát triển xã hội.
Cho đến nay, có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về
đảng chính trị, theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa “Đảng
chính trị là tổ chức chính trị thể hiện những lợi ích của một giai cấp hay
tầng lớp xã hội, liên kết những đại diện ƣu tú nhất của giai cấp để lãnh
đạo giai cấp đạt tới những mục đích và lý tƣởng nhất định”.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Đảng chính trị là
một tổ chức chính trị của một giai cấp, đại biểu lợi ích cho giai cấp đó.
Đảng chính trị ra đời nhằm mục đích đấu tranh giành, giữ và thực thi
quyền lực nhà nước. Đảng chính trị lãnh đạo giai cấp đấu tranh giành
chính quyền bằng phương pháp cách mạng và bạo lực cách mạng”.
Liên quan đến quan niệm, khái niệm Đảng chính trị là vấn đề
“Đảng lãnh đạo”, "Đảng cầm quyền".
"Đảng lãnh đạo" là một khái niệm đƣợc các nhà kinh điển Mác xít nêu ra vào những năm cuối thế kỷ XIX và đƣợc hiểu là một hình thức
7


của cuộc đấu tranh giai cấp, là giai cấp công nhân thực hiện vai trò tiền

phong, gƣơng mẫu, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân để làm sao có
đƣợc sự đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của đại đa số nhân dân
lao động đối với Đảng, kể cả khi Đảng chƣa giành đƣợc chính quyền,
nhằm xây dựng một xã hội tiến bộ theo mục tiêu của Đảng.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” đƣợc dùng trong khoa học chính
trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và
lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nƣớc nhằm thực hiện lợi
ích của giai cấp mình. Theo V.Lênin, đảng cầm quyền đƣợc hiểu là
“đảng nắm chính quyền” bằng những ngƣời đại diện của đảng trực tiếp
thực hiện công việc quản lý trong bộ máy nhà nƣớc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất sớm về Đảng cầm
quyền, tuy nhiên Ngƣời không nêu rõ khái niệm Đảng cầm quyền là nhƣ
thế nào. Và có thể thấy chỉ có một lần trong Di chúc, Ngƣời mới nói rõ
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền”; nhƣng qua những bài viết, bài nói,
Ngƣời cho rằng “Đảng cầm quyền” là một khái niệm khác với “Đảng
lãnh đạo”, Đảng cầm quyền là khái niệm gắn với quyền lực. Theo
Ngƣời, Đảng cầm quyền cũng là Đảng nắm chính quyền, nghĩa là Đảng
có quyền lực trong thực tế. Tuy nhiên, Đảng ta là đội tiền phong không
chỉ của giai cấp công nhân mà là của cả dân tộc, là Đảng của cả giai cấp
lao động và cũng là đảng của toàn dân; những cán bộ, đảng viên của
Đảng trực tiếp thi hành những nhiệm vụ quản lý trong bộ máy nhà nƣớc
nhƣng đều chỉ là những ngƣời đƣợc nhân dân “ủy thác”, bầu ra để phục
vụ nhân dân. Ngƣời viết: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân
dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy”. Có thể
thấy, đây là một nét đặc thù của Đảng cầm quyền ở nƣớc ta, trong khi
đảng cầm quyền ở nhiều nƣớc chỉ luôn đại diện một lực lƣợng trong
nhiều lực lƣợng khác nhau của các giai cấp, tầng lớp dân chúng trong xã
hội.

8



Qua các quan niệm trên có thể thấy, Đảng chính trị là một liên
kết các cá nhân, tập hợp chung những ngƣời có cùng niềm tin, mục đích
chính trị, chia sẻ mong muốn kiểm soát bộ máy nhà nƣớc bằng các
phƣơng thức hợp hiến.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành
công, lập nên nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nay là nƣớc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lƣợc,
xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến, đƣa Nhân dân ta từ địa vị nô lệ lên
làm chủ đất nƣớc, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nƣớc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Kết quả ấy là biểu thị cho những thắng
lợi của cách mạng Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng và đƣợc cả dân
tộc Việt Nam thừa nhận.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu: "Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân
tộc". Đây đƣợc xem là khái niệm cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ những vấn đề trên có thể khái niệm Đảng chính trị là một tổ
chức chính trị đƣợc liên kết lại gồm những đại diện tiêu biểu nhất của
một giai cấp hay tầng lớp xã hội, theo một hệ tƣ tƣởng hay quan điểm
chính trị nhất định, thể hiện lợi ích của giai cấp hay tầng lớp xã hội ấy,
hƣớng tới việc giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị mà trọng tâm là
quyền lực nhà nƣớc nhằm tồn tại, duy trì và phát triển giai cấp hay tầng
lớp xã hội ấy.
Các đảng chính trị có những chức năng cơ bản đó là:
Thứ nhất, các đảng chính trị bảo đảm cho hoạt động của chính

phủ, quốc hội có thể thực hiện đƣợc trên thực tế.
Thứ hai, các đảng chính trị xây dựng các chính sách công cộng.
9


Thứ ba, các đảng chính trị giúp định hƣớng và hỗ trợ công luận.
Thứ tƣ, các đảng chính trị tạo nên sự ổn định chính trị.
Thứ năm, các đảng chính trị giúp hội tụ những nhà lãnh đạo
toàn diện, có đủ phẩm chất về đức và tài.
1.1.2. Nhận thức về Hệ thống chính trị và Hệ thống chính trị
ở cơ sở
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các thiết chế và cơ chế thực
thi quyền lực chính trị. Hay nói cụ thể hơn: Hệ thống chính trị là hệ
thống các thiết chế thực hiện các hoạt động mang tính chính trị trong xã
hội gồm các đảng phái chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội được thành lập hợp pháp, có mối liên hệ trực tiếp hay
gián tiếp với quyền lực chính trị, có quan hệ ràng buộc, tác động lẫn
nhau xoay quanh việc tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "Hệ thống chính trị" đƣợc sử dụng lần
đầu tiên tại Hội nghị Trung ƣơng 6 khoá VI (tháng 3-1989), sau đó đƣợc
chính thức đƣa vào Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ
năm 1991 và đƣợc sử dụng phổ biến trong các văn kiện của Đảng từ đó
đến nay. Theo quan điểm chính thống thể hiện trong các Văn kiện của
Đảng ta “Hệ thống chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở, liên
quan đến cả cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, bố trí cán bộ, phương
thức hoạt động, lề lối làm việc và chế độ, chính sách đãi ngộ... rất phức
tạp, nhạy cảm”.
Khác với hệ thống chính trị ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa và hệ

thống chính trị ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây thì hệ thống chính
trị ở Việt Nam hiện nay ngoài đảng chính trị, nhà nƣớc còn có một số tổ
chức chính trị - xã hội đƣợc thành lập để thực hiện các hoạt động chính
trị và các chức năng xã hội khác, nhƣng đó không phải là chức năng chủ
yếu. Có thể khái quát hệ thống chính trị ở Việt Nam có những đặc điểm
10


đó là: Tính nhất nguyên chính trị, không có đa đảng đối lập; tính thống
nhất thể hiện sự gắn bó mật thiết với Nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám
sát của Nhân dân và hệ thống chính trị ở nƣớc ta mang bản chất giai cấp
công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
1.1.2.2. Hệ thống chính trị ở cơ sở Việt Nam
Khái niệm cơ sở đƣợc hiểu theo tinh thần Pháp lệnh
34/2007/PL-UBTVQH ngày 20/7/2007 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
về việc thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn.
Theo cách hiểu nhƣ trên có thể khái niệm: Hệ thống chính trị cơ
sở là một chỉnh thể các thiết chế và cơ chế thực thi quyền lực chính trị
tại cơ sở.
Từ những cách tiếp cận về khái niệm và đặc điểm của hệ thống
chính trị Việt Nam, có thể khái quát hệ thống chính trị ở cơ sở có những
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, hệ thống chính trị ở cơ sở là một bộ phận quan trọng,
không thể tách rời của hệ thống chính trị Việt Nam, dƣới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm tính nhất nguyên chính trị của hệ
thống chính trị Việt Nam.
Thứ hai, xét về mặt cấu trúc, hệ thống chính trị cơ sở bao gồm
Đảng bộ, Chính quyền cơ sở, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh
niên, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh dƣới sự
lãnh đạo của Đảng bộ nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở địa

phƣơng; là bộ máy đơn gian nhất trong hệ thống.
Thứ ba, hệ thống chính trị cơ sở là gần dân nhất, là cấp trực tiếp
giải quyết những vấn đề ở cơ sở, là cấp đầu tiên tiếp cận và trực tiếp giải
quyết những yêu cầu bức xúc của ngƣời dân, những vấn đề nảy sinh
trong đời sống; hệ thống chính trị cơ sở gắn bó mật thiết và chịu sự kiểm
tra, giám sát của Nhân dân.

11


Thứ tư, hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc biệt là miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số chịu sự tác động mạnh mẽ của các yếu tố đặc
thù.
Thứ năm, các mối quan hệ theo nhiều hƣớng đang đan xen và
tác động lẫn nhau hết sức sinh động và phức tạp.
Trong hệ thống chính trị ở cơ sở, quan hệ giữa các thiết chế
đƣợc xác lập theo cơ chế chủ đạo: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ”.
Quan hệ giữa Đảng bộ cơ sở với chính quyền cơ sở là mối quan
hệ giữa hai chủ thể vừa phụ thuộc, vừa độc lập. Đảng lãnh đạo nhƣng tổ
chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật, chấp hành chủ trƣơng, nghị quyết của chính quyền địa phƣơng;
tuân thủ nội quy, quy chế hoạt động của chính quyền cơ sở; chính quyền
cơ sở chịu sự lãnh đạo của Đảng bộ cơ sở nhƣng độc lập trong việc tổ
chức điều hành, quản lý các công việc tại địa phƣơng, trực tiếp giải
quyết các vấn đề đặt ra tại địa phƣơng.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng, là một
bộ phận không thể tách rời hệ thống chính trị Việt Nam.
Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở đƣợc thể hiện qua sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, đồng thời cũng đƣợc

thể hiện thông qua vai trò của từng bộ phận cấu thành nên nó.
1.2. Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính
trị ở cơ sở
1.2.1. Hệ thống, cơ cấu tổ chức của Đảng trong hệ thống
chính trị ở cơ sở
Hiện nay tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam đƣợc thực hiện
theo Điều lệ Đảng, các văn bản của Ban Chấp hành Trung ƣơng, Bộ
Chính trị và Ban Bí thƣ, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị và xã hội. Số lƣợng cấp ủy viên,

12


cơ quan tham mƣu, giúp việc ở mỗi cấp thực hiện do Điều lệ Đảng quy
định.
Xét từ góc độ đơn vị hành chính, trong hệ thống tổ chức cơ bản
của Đảng thì tổ chức cơ sở Đảng đƣợc thành thành lập tại xã, phƣờng,
thị trấn; là tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ huyện và tƣơng đƣơng. Hiện
nay có hai loại hình là đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở.
1.2.2. Vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng
trong hệ thống chính trị ở cơ sở
1.2.2.1. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng
Vị trí, vai trò là nền tảng của Đảng và là hạt nhân chính trị trong
hệ thống chính trị cơ sở.
1.2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng
Chức năng của tổ chức Đảng là toàn bộ những cộng việc xuất
phát từ vị trí, vai trò mà tổ chức Đảng phải thực hiện nhằm thực hiện
mục tiêu của Đảng đề ra.
Nhiệm vụ là toàn bộ những công việc mà tổ chức đó phải đảm
nhận và có trách nhiệm thực hiện. Căn cứ hai chức năng cơ bản nêu trên,

Điều 23 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tổ chức cơ sở đảng
(chi bộ, đảng bộ cơ sở) có năm nhiệm vụ.
Về cơ bản, tất cả các loại hình tổ chức cơ sở đảng đều có năm
các nhiệm vụ, nhƣng ở mỗi loại hình thì nội dung nhiệm vụ thực hiện
nhiệm vụ chính trị có sự khác nhau sao cho phù hợp với từng loại hình.
1.2.3. Nội dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng
trong hệ thống chính trị ở cơ sở
1.2.3.1. Nội dung lãnh đạo của Đảng
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nƣớc và xã hội là
những vấn đề lớn của đất nƣớc mà Đảng đƣa ra.
Đối với tổ chức đảng ở cơ sở phải nâng cao nhận thức và thực
hiện đúng chức năng là hạt nhân chính trị, lãnh đạo toàn diện các mặt
công tác ở cơ sở, đặc biệt chú trọng một số nội dung:
13


Thứ nhất, xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền cơ sở, Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các
tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân.
Thứ hai, tổ chức quán triệt đầy dủ và thực hiện nghiêm chỉnh
chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc.
Thứ ba, nắm chắc và phản ánh kịp thời tâm tƣ, nguyện vọng,
bảo đảm lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân; khơi dậy và phát
huy mọi nguồn lực Nhân dân, nâng cao trình độ dân trí.
Thứ tư, các chi bộ, đảng bộ cơ sở không ngừng nâng cao chất
lƣợng đảng viên về mọi mặt.
1.2.3.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng
Phƣơng thức lãnh đạo của Đảng là khoa học về những nguyên tắc

của một Đảng, là hệ thống các quan điểm chỉ đạo, các phƣơng pháp,
hình thức, giải pháp mà Đảng tác động vào đối tƣợng nhằm đạt đƣợc
mục tiêu chính trị đã đề ra.
Từ thực tiễn cho thấy, trong hệ thống chính trị ở cơ sở phƣơng
thức lãnh đạo của tổ chức đảng tập trung vào những vấn đề nhƣ sau:
Một là, đảng bộ, chi bộ ở cơ sở ban hành các nghị quyết của đảng
bộ, chi bộ, của cấp ủy.
Hai là, xây dựng và thực hiện quy chế làm việc của chi bộ, đảng
bộ, xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của tập thể, cá nhân; mối quan
hệ giữa Đảng với chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Ba là, đảng bộ, chi bộ và cấp ủy đảng phải chú ý xây dựng đội
ngũ cán bộ kế cận thông qua rèn luyện đội ngũ đảng viên.
Bốn là, bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối với các cuộc
bầu cử ở cơ sở.
Năm là, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của
Đảng.
14


Từ những phƣơng thức chung nhất, phƣơng thức lãnh đạo của tổ
chức đảng ở cơ sở đƣợc cụ thể trên các lĩnh vực nhƣ sau:
Thứ nhất, đối với chính quyền
Thứ hai, đối với các tổ chức đoàn thể nhân dân:
Thứ ba, trong nội bộ tổ chức đảng:
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ CƠ SỞ HUYỆN BA TƠ (QUẢNG NGÃI)
2.1. Khái quát đặc điểm, tình hình huyện Ba Tơ và các nhân
tố ảnh hƣởng đến tổ chức, hoạt động của tổ chức Đảng ở cơ sở
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Ba Tơ là một trong sáu huyện miền núi, nằm về phía Tây Nam
của tỉnh Quảng Ngãi. Giáp ranh với nhiều huyện trong và ngoài tỉnh.
Địa hình của Ba Tơ chủ yếu là đồi núi, thung lũng và có nhiều
sông, suối.
2.1.2. Về kinh tế - xã hội
Về đơn vị hành chính, Ba Tơ có 20 xã, thị trấn, có 119 thôn
(trong đó 112 thôn và 07 tổ dân phố), với 216 khu dân cƣ. Dân số toàn
huyện có 14.604 hộ, với 58.151 nhân khẩu; dân tộc H’rê chiếm 82,7%,
còn lại là dân tộc Kinh và một số dân tộc khác.
Dân cƣ sinh sống không đồng đều giữa các vùng. Hơn 70%
dân số sống bằng nghề nông.
Đồng bào các dân tộc Ba Tơ có truyền thống đoàn kết, đấu
tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, với đặc điểm là huyện miền núi, nên điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí ở một số nơi
còn thấp; một số hủ tục, phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại.
Trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ
15


cơ sở tuy đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng, từng bƣớc chuẩn hóa, nhƣng về năng
lực thực tiễn còn nhiều hạn chế.
2.2. Tổ chức và hoạt động của Đảng trong hệ thống chính trị ở
cơ sở huyện Ba Tơ
2.2.1. Cơ cấu tổ chức của đảng trong hệ thống chính trị ở cơ
sở
Toàn Đảng bộ huyện Ba Tơ có 62 chi bộ, đảng bộ trực thuộc;
trong đó có 23 đảng bộ và 39 chi bộ (hành chính 31, sự nghiệp 04,
doanh nghiệp 04). Trong 23 đảng bộ cơ sở có 20 Đảng bộ xã, thị trấn và
03 đảng bộ cơ quan. Tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ huyện có

3.410 đảng viên.
Nhìn chung, đối với cấp huyện, về cơ cấu tổ chức của Đảng có
các cơ quan lãnh đạo là Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (gọi tắt là Huyện
ủy), Ban Thƣờng vụ Huyện ủy do Ban Chấp hành Đảng bộ bầu và
Thƣờng trực Huyện ủy do Ban Thƣờng vụ Huyện ủy phân công. Huyện
ủy có các cơ quan tham mƣu, giúp việc nhƣ: Ban Tổ chức Huyện ủy;
Văn phòng Huyện ủy; Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy, Ban Dân vận Huyện
ủy; Ban Tuyên giáo Huyện ủy; Trung tâm bồi dƣỡng chính trị huyện;
- Đối với cấp cơ sở: Trong 23 Đảng bộ cơ sở, có 208 chi bộ trực
thuộc đảng ủy.
2.2.2. Các hoạt động của tổ chức đảng tại cơ sở
2.2.2.1. Hoạt động nâng cao năng lực của tổ chức đảng và
đảng viên
- Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
- Công tác tổ chức - cán bộ
- Công tác kiểm tra, giám sát, thi thành kỷ luật trong Đảng
- Công tác dân vận của Đảng ủy
Nhìn chung, khi chỉ đạo thực hiện công tác vận động quần
chúng và lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết những vấn đề ở cơ sở, nhất là
vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, các cấp ủy, tổ chức
16


đảng luôn chú ý đến cách thức thực hiện, thái độ phải hài hòa, cởi mở,
chân thành khi tiếp xúc với ngƣời dân, luôn thể hiện tinh thần trách
nhiệm cao, gƣơng mẫu, hạn chế đặc điểm hành chính, công sở, phát huy
tối đa vai trò của lực lƣợng ngƣời có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu
số.
2.2.2.2. Ban hành và tổ chức thực hiện Quy chế làm việc
- Xác định trách nhiệm và thẩm quyền của tập thể.

- Xác định trách nhiệm và thẩm quyền của cá nhân
2.2.2.3. Lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở
Đảng ủy xây dựng và ban hành Nghị quyết của Đảng bộ cho cả
nhiệm kỳ, trong đó xác định các nhiệm vụ lớn, trọng tâm, trên tất cả các
lĩnh vực:
- Lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội; bảo đảm quốc phòng, an
ninh
- Kết quả lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới và nâng cao hiệu lực quản
lý của chính quyền cơ sở
- Lãnh đạo công tác của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn
thể chính trị - xã hội
2.2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức đảng trong hệ thống chính
trị ở cơ sở, nguyên nhân. Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn đối với tổ
chức đảng ở cơ sở huyện Ba Tơ
2.2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
- Hầu hết Đảng bộ các xã, thị trấn, các tổ chức đảng ở cơ sở đã
nhận thức và xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của
từng tổ chức trong hệ thống chính trị nên từng bƣớc đổi mới nội dung,
quy trình, cách ra nghị quyết và xác định đƣợc những vấn đề trọng tâm,
trọng điểm, việc sơ kết, tổng kết tiến hành kịp thời.
- Đảng ủy và các chi ủy, chi bộ trực thuộc đã tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo việc thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, đảm bảo là hạt nhân chính
trị ở thôn, tổ dân phố.
17


- Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác quốc phòng, an ninh,
trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông.
Trong hoạt động của chính quyền cơ sở, Đảng ủy ban hành
Nghị quyết, chƣơng trình, kế hoạch công tác, phát huy hiệu quả công tác

quản lý, điều hành theo pháp luật.
- Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã xây dựng đƣợc
chƣơng trình công tác, chú trọng hƣớng về cơ sở, gần dân, sát dân hơn.
- Công tác cán bộ luôn đƣợc quan tâm kiện toàn, củng cố.
Nội dung sinh hoạt Đảng bộ, chi bộ có nhiều chuyển biến.
- Phƣơng thức lãnh đạo của cấp ủy khắc phục một bƣớc tình
trạng bao biện làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của tổ chức
đảng.
Kết quả đạt đƣợc là do có những chủ trƣơng đúng đắn, kịp thời
của Đảng, về kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới nội dung, phƣơng thức
hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở.
2.2.3.2. Những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
- Công tác đổi mới giáo dục - đào tạo, y tế chƣa đáp ứng yêu
cầu đặt ra.
- Nhiều phong trào văn hóa chƣa đi vào chiều sâu; một số
phong tục, tập quán trong đời sống và sản xuất còn lạc hậu.
- Chất lƣợng, hiệu quả của công tác chính quyền ở một số công
việc còn thấp.
- Nội dung, phƣơng thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể
chính trị - xã hội có mặt chƣa thật sự đổi mới.
- Công tác xây dựng Đảng còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém.
Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là nhiều vấn
đề mới và khó đang đặt ra cho công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở; một số văn bản, hƣớng dẫn chƣa sát thực tế;
công tác dự báo, dự đoán chƣa theo kịp yêu cầu. Năng lực thực tiễn và
18


tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức còn

hạn chế, thiếu sáng tạo, chƣa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cơ chế, chính
sách còn nhiều bất cập, khó thực hiện ở cấp cơ sở.
2.2.3.3. Một số vấn đề đặt ra đối với tổ chức đảng ở cở sở
huyện Ba Tơ trong giai đoạn hiện nay
Thứ nhất, vấn đề nhận thức.
Thứ hai, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức
Đảng ở cơ sở còn thấp.
Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng ở cơ
sở còn gặp nhiều khó khăn, thực hiện chƣa đem lại hiệu quả.
Thứ tư, vấn đề cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập.
2.2.4. Một số bài học kinh nghiệm
Một là, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và các tầng lớp
Nhân dân phải nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức
Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Hai là, các Nghị quyết của Đảng ủy phải sớm đƣợc chính quyền
thể chế hóa, cụ thể hóa thành chƣơng trình, kế hoạch, đề án.
Ba là, chăm lo đào tạo, bồi dƣỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ
cơ sở, nhất là vùng vùng sâu, vùng cao, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số.
Bốn là, giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, mở rộng và
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân đi đôi với giữ vững kỷ cƣơng, kỷ
luật.
Năm là, huy động các lực lƣợng, phát huy vai trò của lực lƣợng
ngƣời có uy tín trong giải quyết các vấn đề ở cơ sở.

19


Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CỦNG CỐ, KIỆN TOÀN VÀ NÂNG

CAO
CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ HUYỆN BA TƠ,
TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Dự báo tình hình và các yếu tố tác động đến tổ chức, hoạt
động của tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở
3.1.1. Thuận lợi
Nƣớc ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, mở ra
nhiều cơ hội thu hút đầu tƣ phát triển đối với các vùng, miền, trong đó
có huyện Ba Tơ. Những kết quả đạt đƣợc trong những năm gần đây sẽ
làm tiền đề quan trọng cho thời gian đến.
Một trong những yếu tố thuận lợi cơ bản đó là Đảng Cộng sản
Việt Nam duy cầm quyền, không có các đảng chính trị đối lập nên
không có sự cạnh tranh về vai trò lãnh đạo của Đảng.
3.1.2. Khó khăn
Địa hình huyện Ba Tơ khá phức tạp, sông suối chia cắt; giao
thông đi lại khó khăn, nhất là vào mùa mƣa bão. Đời sống của một bộ
phận nhân dân còn nhiều khó khăn. Trên lĩnh vực đời sống xã hội, trên
địa bàn huyện còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp gây mất an ninh, trật tự.
Về tổ chức bộ máy, năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng,
quản lý, điều hành của chính quyền ở cơ sở còn nhiều mặt bất cập, hạn
chế. Sự tác động mặt trái của cơ chế thị trƣờng...
3.2. Quan điểm củng cố, kiện toàn tổ chức và đổi mới nội
dung, phƣơng thức hoạt động của tổ chức Đảng trong hệ thống
chính trị ở cơ sở
Thứ nhất, tăng cƣờng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ..

20



Thứ hai, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ƣơng 4 khóa XI, khóa XII về công tác xây dựng Đảng.
Thứ ba, xây dựng và đổi mới nội dung, phƣơng thức lãnh đạo
của Đảng phải gắn với xây dựng và đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt
động của hệ thống chính trị, hệ thống chính trị ở cơ sở.
Thứ tư, đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận nhằm củng
cố vững chắc niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, tăng cƣờng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Thứ năm, đối với nội bộ các cấp ủy Đảng và đội ngũ đảng viên,
cán bộ phải vững mạnh cả về tƣ tƣởng, chính trị và tổ chức. Đổi mới,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật
của Đảng.
3.3. Một số nhóm giải pháp củng cố, kiện toàn và nâng cao
chất lƣợng hoạt động của tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị ở
cơ sở
3.3.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức về công tác xây dựng Đảng
- Quán triệt, tuyên truyền để nâng cao nhận thức cán bộ, đảng
viên về công tác xây dựng Đảng, đồng thời vận động các tầng lớp nhân
dân thực hiện tốt chủ trƣơng, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nƣớc
- Đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị và
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới
3.3.2. Nhóm giải pháp kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đảng viên; thực hiện tốt
công tác cán bộ

- Củng cố kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên.
21


- Thực hiện một số khâu trong công tác cán bộ
3.3.3. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng
- Nâng cao nhận thức, xác định nội dung, đối tƣợng kiểm tra,
giám sát.
- Phƣơng pháp tiến hành và phƣơng châm thực hiện kiểm tra,
giám sát.
3.3.4. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm tổ
chức và thực hiện đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ
chức Đảng
- Mở rộng dân chủ trong Đảng
- Rà soát sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy chế, quy định
để tổ chức thực hiện
- Xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, trang bị phƣơng tiện làm
việc cho cơ sở; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong quá trình triển
khai, tổ chức thực hiện

22


KẾT LUẬN
Đảng cầm quyền là khái niệm lần đầu tiên đƣợc V.I.Lênin nêu
ra. Sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sử dụng các thuật ngữ
để nói về vai trò cầm quyền của Đảng nhƣ: Đảng giành đƣợc chính
quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm

quyền. Nội dung, phƣơng thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành đƣợc
chính quyền khác rất nhiều so với khi chƣa có chính quyền. Trong điều
kiện duy nhất một Đảng cầm quyền thì chính quyền là công cụ mạnh
mẽ, sắc bén nhất để đƣa đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng vào
cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội.
Trải qua 87 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam
là Đảng duy nhất cầm quyền, là lực lƣợng lãnh đạo Nhà nƣớc và xã hội.
Từ lãnh đạo cách mạng trong điều kiện chƣa có chính quyền đến khi trở
thành Đảng cầm quyền; từ cầm quyền khi có nhiều đảng phái tham
chính đến khi trở thành một đảng duy nhất cầm quyền; từ cầm quyền
một nửa nƣớc đến cầm quyền trong cả nƣớc; từ lãnh đạo chiến tranh là
chủ yếu đến lãnh đạo xây dựng đất nƣớc trong hoà bình. Mỗi thời kỳ của
cách mạng đòi hỏi Đảng ta phải phải thay đổi nội dung, phƣơng thức
lãnh đạo cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, của tình
hình trong nƣớc, ngoài nƣớc - Đảng ta đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử ấy.
Những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị đặc biệt là
hệ thống chính trị ở cơ sở trong những năm qua là biểu thị sinh động về
hiệu quả của quá trình củng cố, kiện toàn các tổ chức và nghiên cứu,
từng bƣớc đổi mới nội dung, phƣơng thức lãnh đạo của Đảng nói chung
và của các tổ chức Đảng ở cơ sở huyện Ba Tơ nói riêng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới toàn diện của đất nƣớc và xu
thế hội nhập quốc tế hiện nay, để tăng cƣờng và nâng cao hơn nữa năng
lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nƣớc và các tổ chức trong hệ thống
23


×