Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống việt nam trong xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh lâm đồng hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.99 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH HÀ

PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN
THỐNG VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
HIỆN ĐẠI Ở TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Phương Mai

Phản biện 1: PGS, TS. Nguyễn Thị Thọ,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 2: PGS, TS. Phạm Văn Nhuận
Học viện Chính trị quân sự

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội 9 giờ 40 ngày 07 tháng 4 năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học Xã hội (477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân,
Hà Nội)




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội. Nhưng xã hội không tạo thành từ
tổng số các cá nhân, mà phản ánh tổng thể các mối quan hệ của các
cá nhân đó với nhau. Do đó gia đình là xã hội thu nhỏ với những con
người có mối quan hệ mật thiết với nhau và là một tiểu hệ thống hết
sức phức tạp bởi ở đó không chỉ có các mối quan hệ huyết thống. Đó
cũng là nền tảng văn hóa của xã hội mà con người có những trải
nghiệm đầu tiên khi ứng xử với người khác.
Hiện nay, những giá trị đạo đức truyền thống trong gia đình Việt
Nam nói chung, trong các gia đình ở tỉnh Lâm Đồng nói riêng cũng
có những thay đổi nhất định. Do sự biến đổi của tồn tại xã hội, trước
hết là sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một số yếu tố
của đạo đức gia đình truyền thống đang trở nên bất cập. Ngoài ra
cũng do những điều kiện khách quan chi phối đời sống hiện thực của
gia đình như sự thâm nhập của các loại hình văn hóa, tôn giáo, sự tác
động của cơ chế, chính sách xã hội về giáo dục, các hình thức hoạt
động đoàn thể, v.v., cũng làm cho đạo đức gia đình Việt Nam nói
chung, ở tỉnh Lâm Đồng nói riêng có sự thay đổi rất nhiều.
Theo triết lý “đến hiện đại từ truyền thống”, trên cơ sở kế thừa
biện chứng và phát huy các giá trị đạo đức gia đình truyền thống
trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước ta hiện nay, đồng thời,
xuất phát từ thực tế nêu trên, đề tài “Phát huy giá trị đạo đức gia
đình truyền thống Việt Nam trong việc xây dựng gia đình hiện đại
ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay” được lựa chọn nghiên cứu.
1



2. T nh h nh nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, những công trình đề cập đến quan niệm và những yếu
tố ảnh hưởng đến gia đình truyền thống, gia đình hiện đại của Việt
Nam nói chung.
Viện Xã hội học (1991), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tương Lai (1996, chủ
biên), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, tập 2, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Khiêu, Đặng Nhứ, Lê Thị Quý (1995),
Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đặng Vũ Cảnh
Linh (chủ biên, 2010), Con người Việt Nam truyền thống những giá
trị đối với sự phát triển, Nxb Lao động, Hà Nội.
Thứ hai, những công trình đề cập đến đạo đức gia đình truyền
thống.
Hà Thị Bắc (2010), Phát huy vai trò gia đình truyền thống trong
xây dựng gia đình thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay, Luận án
thạc sỹ triết học, Đại học quốc gia Hà Nội. Nguyễn Thị Khoa (2002),
Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học, số
4. Phạm Hồng Toàn (2013), Sự biến đổi của gia đình truyền thống
Việt Nam, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 3. Nguyễn Thị Thọ
(2007), T đạo hiếu truyền thống, nghĩ về đạo hiếu ngày nay, Tạp chí
Triết học, (số 6). Hà Thị Yến (2014), Những biến đổi của đạo đức
gia đình truyền thống trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn
Thị Thọ (2011), Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Thứ ba, những công trình đề cập đến đạo đức gia đình ở tỉnh Lâm
Đồng
2



Trong bối cảnh xã hội có những thay đổi, hình thức của gia đình
cũng có những thay đổi theo, trong đó, đạo đức gia đình cũng là yếu
tố cần được xem xét. Tuy nhiên, liên quan đến đạo đức gia đình ở
tỉnh Lâm Đồng, hiện vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa
học nào. Đây là một khoảng trống cần được bổ sung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn: Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý
luận, thực tiễn về giá trị đạo đức gia đình truyền thống ở tỉnh Lâm
Đồng. Qua đó đề xuất một số giải pháp phát huy giá trị đạo đức gia
đình truyền thống của tỉnh Lâm Đồng trong gia đoạn hiện nay
Nhiệm vụ của luận văn
Thứ nhất, trình bày và phân tích một số giá trị cơ bản của đạo đức
gia đình truyền thống.
Thứ hai, thực trạng phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống
Việt Nam ở tỉnh Lâm Đồng
Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát
huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: nghiên cứu các giá trị đạo
đức gia đình truyền thống ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: nghiên cứu các giá trị đạo đức
gia đình truyền thống ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay (từ 2010 cho đến
nay)
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: dựa trên các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước về gia đình và xây dựng gia đình Việt Nam
3



Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
lôgíc-lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, quy
nạp, điều tra thống kê,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn làm sáng tỏ vấn đề phát huy giá trị đạo đức gia đình
truyền thống trong việc xây dựng gia đình hiện đại.
- Luận văn là nguồn tài liệu cho việc nghiên cứu đạo đức gia đình
truyền thống trong việc xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng
nói riêng và xây dựng gia đình hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tại liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết
Chương 1: Những nội dung cơ bản của đạo đức gia đình truyền
thống Việt Nam
Chương 2: Phát huy đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong
xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng - Thực trạng, phương
hướng, giải pháp

4


Chƣơng 1
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH
TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
1.1. Một số quan niệm về “gia đình,” “đạo đức gia đình”
1.1.1. Một số quan niệm về “ gia đình”, “gia đình truyền thống”,
“gia đình hiện đại”

Khái niệm “gia đình” có từ lâu và có những thay đổi cùng với sự
biến đổi và vận động không ngừng của lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử
có những quan niệm khác nhau về gia đình.
Thứ nhất, theo quan điểm của Nho giáo
Theo quan điểm của Nho giáo, gia đình là yếu tố nền tảng của xã
hội, ảnh hưởng đặc biệt đến đời sống, đạo đức và sự ổn định của một
xã hội. Đồng thời, đây cũng là nơi tu dưỡng và rèn luyện bản thân
mỗi con người trước khi bước vào đời, tức là tham gia vào các hoạt
động xã hội với những mối liên hệ, quan hệ rộng hơn.
Theo quan điểm của Khổng Tử, các mối quan hệ giữa con người
với con người như cha mẹ - con cái, chồng - vợ, anh - em là mối
quan hệ cơ bản và tự nhiên của con người. Đây là những mối quan hệ
cơ bản của gia đình, và mở rộng ra, đó chính là mối quan hệ của con
người trong xã hội
Nho giáo cũng cho rằng, trong mối quan hệ của con người có
“tam cương” và “ngũ thường”. Trong “tam cương”, mối quan hệ gia
đình được thể hiện trong hai cương, đó là quan hệ cha con - chồng
vợ. Còn trong “ngũ thường”, mối quan hệ của con người trong gia
đình có ba gồm cha - con, chồng - vợ và anh - em.
Đồng thời, trong nội dung đạo đức của con người, Khổng Tử đề cao
nội dung hiếu với cha mẹ, trung với vua. Điều này có thể hiểu, ông
đề cập đến gia đình như là điểm xuất phát đầu tiên, là gốc của xã hội.
5


Thứ hai, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845 - 1846), “gia đình” được
khẳng định là kết quả của các mối quan hệ của con người trong quá
trình phát triển lịch sử của nhân loại. Đến tác phẩm “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” (1844), Ph.Ănghen chỉ

rõ vai trò tế bào xã hội của gia đình, mối quan hệ không thể tách rời
giữa gia đình và xã hội.
C.Mác và Ph.Ănghen không những đề cập đến chức năng tái sản
xuất con người mà còn đề cập đến vai trò kinh tế trong gia đình, đòn
bẩy thúc đẩy xã hội phát triển. Với tư cách là một nhóm xã hội, một
cộng đồng xã hội, gia đình luôn chịu ảnh hưởng và cũng mang tính
quyết định đến đời sống sản xuất vật chất xã hội.Với tư cách là một
đơn vị cộng đồng xã hội, điều quan trọng nhất trong gia đình là nhân
tố nhận thức chủ quan liên kết các thành viên của nó với nhau
Theo Ph.Ăngghen, hôn nhân và cuộc sống gia đình muốn bền
vững phải dựa trên nền tảng của tình thương yêu
Như vậy, khái niệm “gia đình” được thể hiện ở hai nội dung cơ
bản. Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự phát triển của xã
hội loài người, cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân con người.
Thứ hai, quan hệ gia đình gồm hai mối quan hệ chính là quan hệ hôn
nhân và quan hệ huyết thống. Hay nói một cách khác đó chính là mối
quan hệ giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em
với nhau.
Thứ ba, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
Văn kiện Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Gia đình là tế bào của
xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ
mới, nền kinh tế mới, con người mới” [8, tr. 95-96].
6


Điều này tiếp tục được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991): “Gia đình là
tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi
trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các
chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm,

hòa thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi
lớp người”
Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh đó, tinh thần này được tiếp tục
khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung năm 2011: “Xây dựng gia
đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã
hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách”.
Nhà nước đã ban hành Luật hôn nhân và gia đình với 133 điều.
Trong đó, điều 3 khẳng định: “Gia đình là tập hợp những người gắn
bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau”
Ngoài ba cách tiếp cận trên đây, còn có các công trình nghiên cứu
khoa học và các tác phẩm về gia đình dưới nhiều góc độ khác nhau:
triết học, sử học …
Cùng với sự thăng trầm và biến đổi của lịch sử, quan niệm gia
đình cũng có sự thay đổi từ gia đình truyền thống Việt Nam đến gia
đình hiện đại
Gia đình truyền thống Việt Nam là kiểu mẫu gia đình được hình
thành từ thời kỳ dựng nước của dân tộc. Đồng thời, gia đình Việt
Nam truyền thống có những đặc riêng cơ bản mà không một mô hình
kiểu mẫu gia đình truyền thống nào lập lại được.
7


Thứ nhất, trong gia đình truyền thống Việt Nam lễ giáo và đạo đức
được coi trọng
Thứ hai, trong mỗi gia đình các thành viên không chỉ liên kết về
mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh thần.
Thứ ba, gia đình Việt Nam truyền thống còn là một kiểu mẫu gia

đình phụ quyền.
Cùng với sự thay đổi mô hình kinh tế kinh tế, xã hội Việt Nam có
một sự thay đổi lớn lao chưa từng có. Từ mô hình gia đình truyền
thống đã chuyển sang mô hình gia đình hiện đại
Gia đình hiện đại là kiểu gia đình gồm có cha mẹ và con cái (hay
còn gọi là gia đình hạt nhân), là mô hình thu nhỏ. Mối liên kết của
các thành viên trong gia đình không còn chặt chẽ.
Quan niệm về đạo đức gia đình
Đạo đức gia đình là một trong những nền tảng cơ bản của con
người Việt Nam. Do đó, đạo đức gia đình Việt Nam thường được
định hình trong phong tục, tập quán, là cái được đúc kết từ hàng thế
kỷ và có sức trường tồn lâu bền.
Thứ nhất, theo quan điểm của Nho giáo
Một trong những nội dung quan trọng của học thuyết Nho giáo là
“đạo đức gia đình”. Nó tác động to lớn trong việc duy trì, giữ gìn nề
nếp và tôn ti trong gia đình, dòng họ đồng thời tạo nên sự ổn định của
xã hội trong suốt chiều dài lịch sử kể từ khi nó bắt đầu xuất hiện.
Ngoài những vấn đề nhận thức về quan hệ xã hội, lễ nghi, vai trò cá
nhân Khổng Tử đặc biệt đề cao vai trò của gia đình, đồng thời ông
hướng đến việc điều chỉnh gia đình bằng “đạo đức”
Trong hôn nhân, Nho giáo đề cao tình nghĩa vợ chồng, người vợ phải
thực hiện “Tam tòng, tứ đức”. Để có được gia đình hạnh phúc, bản thân
các thành viên phải thực hiện các chuẩn mực “đạo đức gia đình”
8


Thứ hai, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
Trong Lời tựa viết cho Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị (1858), C.Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật
chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói

chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ;
trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”.
Ph.Ănghen cũng cho rằng: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về
đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế
của xã hội lúc bấy giờ” . Như vậy, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau sẽ phản ánh tồn tại xã hội
cũng như tác động riêng biệt khác nhau. Đạo đức là một hình thái ý
thức và cũng như các quan điểm khác đều thay đổi cùng với sự thay
đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự hình thành và phát triển của đạo
đức suy đến cùng là do sự phát triển của phương thức sản xuất.
Thứ ba, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Đảng ta coi gia đình không chỉ
là nơi sản sinh ra con người mà bên cạnh đó nó còn là ngôi trường,
có trách nhiệm trực tiếp giáo dục con người về đạo đức, lối sống, nếp
sống. Không chỉ thế, gia đình còn là nơi lưu trữ, sàng lọc và lưu
truyền các giá trị của truyền thống cho việc sản sinh, xây dựng, giáo
dục, rèn luyện và phát triển con người. Đại hội X đã khẳng định
“Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam,
thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”.
Như vậy, “gia đình” là một nhóm nhỏ xã hội với thiết chế xã hội
đặc thù. Do vậy, nó cũng cần có những quy tắc, chuẩn mực riêng để
điều chỉnh các quan hệ và các hành vi trong gia đình. Đồng thời,
9


những quy tắc, chuẩn mực này phải phù hợp với xã hội mà bản thân
những yếu tố này được nảy sinh.
Như vậy, “gia đình” là một nhóm nhỏ xã hội với thiết chế xã hội
đặc thù. Do vậy, nó cũng cần có những quy tắc, chuẩn mực riêng để

điều chỉnh các quan hệ và các hành vi trong gia đình. Đồng thời,
những quy tắc, chuẩn mực này phải phù hợp với xã hội mà bản thân
những yếu tố này được nảy sinh.
“Đạo đức gia đình chính là tổng thể những nguyên tắc, những
chuẩn mực đạo đức nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của gia
đình phù hợp với yêu cầu của xã hội”
1.2 Những điều kiện h nh thành nên dạo đức gia đ nh truyền
thống Việt nam
1.2.1 Điều kiện kinh tế -xã hội
Thứ nhất, nền sản xuất nông nghiệp theo đặc trưng của nền văn
minh lúa nước. Nền sản xuất đó về cơ bản phụ thuộc vào điều kiện
tự nhiên, đòi hỏi nhiều sức lao động . Bên cạnh đó, do điều kiện tự
nhiên của Việt Nam hết sức khắc nghiệt, hạn hạn và lũ lụt thường
xuyên xảy ra, vấn đề thủy lợi giữ vị trí quan trọng và quyết định
đến kết quả lao động mà điều này không thể chỉ do một người thực
hiện được.
Thứ hai, xuất phát t việc phát triển nền nông nghiệp lúa nước,
mối quan hệ giữa nước - làng - nhà là bền chặt. Nước có thể bị xâm
lược, nhưng làng và nhà là đơn vị không thể bị mất, đồng thời, làng nhà trở thành cơ sở để bảo vệ và xây dựng nước.
Thứ ba, trong lịch sử, xã hội Việt Nam có phân hóa một cách sâu
sắc. Trong lịch sử nước ta cũng như trên thế giới, cơ sở hình thành
gia đình dựa trên hôn nhân giữa đàn ông và đàn bà.
10


1.2.2 Điều kiện lịch sử, văn hoá tư tưởng
Xét về mặt lịch sử, Việt Nam là một đất nước có bề dày lịch sử lâu
đời với truyền thống chống giặc ngoại xâm.
Thứ hai, xét về mặt tư tưởng, văn hóa, ngoài nền văn hóa bản địa,
Việt Nam còn tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, nhiều nhất là

văn hóa phương Đông với Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo.
Sau nhiều thời gian thăng trầm, được sự giúp sức của hệ thống
cầm quyền, Nho giáo từng bước được giai cấp thống trị Việt Nam đề
cao và tiếp nhận. Bên cạnh những yếu tố tiêu cực như trọng nam
khinh nữ, gia trưởng, bảo thủ, trọng nghĩa khinh tài, học thuyết này
vẫn có những yếu tố nhân bản tích cực như lòng thương người, quý
trọng người già, đề cao triết lý nhân sinh, tu tâm dưỡng tính, đề cao
văn hóa lễ nghĩa, khuyến khích việc học hành,…
Đạo giáo cũng là học thuyết chính trị - xã hội do Lão Tử sáng
lập. Đây là học thuyết đề cao tình yêu thiên nhiên, kêu gọi con
người tuân thủ các quy luật tự nhiên và không làm tổn hại đến tự
nhiên để tránh các hậu quả tác động tiêu cực tới đời sống xã hội.
Ngoài những mặt hạn chế như bùa chú ma thuật, trong học thuyết
này cũng có những mặt tích cực phản ánh khát vọng trường sinh bất
lão của con người.
Phật giáo vào Việt Nam rất sớm và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống tinh thần của người dân. Với tư tưởng từ, bi, hỷ, xả, thương
người như thể thương thân, yêu lao động, cuộc sống gắn bó với thiên
nhiên, các giáo lý Phật giáo ăn sâu vào trong tâm hồn người Việt
Nam. Phật giáo hướng con người tới nhận thức thuyết nhân quả, rằng
ở hiền thì gặp lành; nhân nào quả nấy, v.v., từ đó, con người tự ý
thức, tự điều chỉnh hành vi của mình.
11


1.3. Một số chuẩn mực của đạo đức gia đ nh truyền thống từ góc
độ các mối quan hệ trong gia đ nh.
1.3.1 Chuẩn mực trong mối quan hệ ông bà, cha mẹ, con cái
Từ thủa hồng hoang dựng nước cho đến ngày nay, người Việt
luôn thể hiện sự biết ơn của mình đối với tổ tiên, ông bà và cha mẹ.

Đó là cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con người Việt Nam. Đạo
hiếu được xem là một tình cảm thiêng liêng và cao đẹp nhất trong
đời sống của con người Việt Nam.
Ngoài yếu tố xuất phát t nền tảng đời sống bản địa, đạo hiếu
trong đời sống đạo đức gia đình Việt Nam còn chứa đựng yếu tố của
Nho giáo. Với hơn 1000 năm Bắc thuộc, nhiều điều kiện xã hội và tư
tưởng đã tác động mạnh mẽ đến việc tiếp nhận đạo hiếu của Nho
giáo vào đời sống đạo đức của người Việt.
Trong “Luận ngữ”, Khổng Tử khẳng định “Hiếu đễ là gốc của
nhân” (Luận ngữ, Học nhi, 2). Trong phạm vi đạo đức gia đình, hiếu
đễ được coi là gốc. Hiếu là thái độ ứng xử của con người đối với ông
bà, cha mẹ mình; đễ là sự kính nhường trong quan hệ anh em.
Có thể thấy rằng, Nho giáo luôn giáo dục con người hướng đến
tình cảm gia đình. Ngoài việc nuôi dưỡng cha mẹ bằng tấm lòng
thành kính của mình, người con có hiếu còn làm cho cha mẹ thường
xuyên vui vẻ.
Đạo làm con, theo Khổng Tử phải làm thế nào cho cha mẹ yên
lòng, vui vẻ. Khi Mạnh Vũ Bá hỏi về hiếu, Khổng Tử khuyên “chớ
để cha mẹ buồn phiền” (Luận ngữ, Vi chính, 5).
Đối với gia đình Việt Nam truyền thống, cái hồn trong văn hóa
đạo đức chính là đạo Hiếu. Hiếu luôn được đề cao và tôn trọng và
mang bản sắc dân tộc. Trong thời phong kiến, các gia đình danh gia,
vọng tộc quyền quý ngoài tri thức hiểu biết thì lễ nghĩa luôn được đề
12


cao đặc biệt là chữ Hiếu. Đạo hiếu trở thành nguồn cội, là cơ sở cho
nền tảng vững chắc của gia đình.
Đạo hiếu thể hiện trong tất cả các phong tục, tập quán và đời sống
của người Việt Nam. Từ lễ tang, lễ cưới, lễ tế đến những việc thuộc

phạm vi làng nước đều gắn liền với hiếu.
Trong gia đình truyền thống, đạo Hiếu được xếp thành ba bậc
Hiếu còn gọi là Hiếu đại tam.
Thứ nhất, tiểu hiếu là nuôi cha mẹ lúc tuổi già.
Thứ hai, trung hiếu là không làm gì khiến bố mẹ phải phiền lòng,
lo lắng, xấu hổ.
Thứ ba, đại hiếu là mang lại niềm vui, niềm tự hào, vinh danh cho
cha mẹ.
1.3.2 Chuẩn mực trong mối quan hệ vợ chồng
Mối quan hệ vợ chồng theo quan điểm Nho giáo
Theo quan điểm của Nho giáo, người phụ nữ trong gia đình không
được coi trọng. Quan hệ vợ chồng chỉ có một chiều, người vợ hoàn
toàn phụ thuộc vào người chồng.
Mối quan hệ vợ chồng theo quan điểm Phật giáo
Phật giáo hướng đến mối quan hệ vợ chồng một cách tích cực
hơn. Theo quan niệm của đạo Phật, quan hệ gắn kết vợ chồng là do
nghiệp. Đồng thời, quan hệ này là mối quan hệ dựa trên sự tôn
trọng và bình đẳng. Đối với người chồng thì lấy lễ đối đãi với vợ,
chuẩn mực nhưng không hà khắc và cùng làm việc nhà với vợ.
Ngược lại, người vợ phải siêng năng và biết nể chồng, lo toan mọi
việc trong ngoài.
Mối quan hệ vợ chồng trong gia đình truyền thống Việt Nam
Thứ nhất, tình nghĩa là chuẩn mực vô cùng quan trọng trong quan
hệ vợ chồng.
13


Thứ hai, thủy chung là một trong những yếu không thể thiếu được
trong gia đình truyền thống Việt Nam.
Thứ ba, sự hòa thuận giữa hai vợ chồng trong một gia đình cũng

là yếu tố nền tảng để duy trì gia đình bền vững
Có thể khẳng định rằng, gia đình truyền thống Việt Nam là một
kiểu mẫu gia đình về sự chung thủy, tình nghĩa và hòa thuận.
1.3.3 Chuẩn mực trong mối quan hệ anh chị em
Gia đình truyền thống Việt Nam ảnh hưởng bởi các quan điểm gia
đình và đạo đức của Nho giáo. Nho giáo đã xác lập phạm trù Đễ
trong mối quan hệ anh chị em trong gia đình.. Đối với người anh,
người chị có đễ là người biết thương yêu và có trách nhiệm đối với
các em. Khi cha mẹ mất sớm trách nhiệm ấy càng trở nên nặng nề
hơn vì các em chưa trưởng thành. Lúc này người anh, người chị có
vai trò và trách nhiệm thay cha mẹ nuôi dưỡng và giáo dục các em
trưởng thành. Người em có đễ là người biết kính trọng, yêu thương
và biết lời anh, chị bảo ban, dạy dỗ. Như vậy, trong những điều kiện
lịch sử cụ thể đễ cũng có tác dụng lớn trong việc góp phần xây dựng,
củng cố đạo đức gia đình.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Gia đình truyền thống Việt Nam là gia đình được hình thành và
phát triển trong lịch sử Việt Nam. Trong gia đình truyền thống, các
giá trị đạo đức gia đình được đề cao, điều đó tạo thành nền nếp, gia
phong, gia giáo giúp cho gia đình tồn tại bền vững và có điểm nhấn
trong dòng chảy phát triển của lịch sử dân tộc.
Dù có nhiều quan niệm, cách giải thích khác nhau về gia đình,
song, đều thống nhất ở điểm cho rằng: Gia đình là nguồn cội, là cơ
sở, là viên gạch để xây nền móng và phát triển xã hội. Trong đó, các
mối quan hệ giữa chồng - vợ, cha mẹ - con cái, anh chị em là những
14


mối quan hệ cơ bản. Gia đình có trở thành môi trường tốt nhất để đào
tạo, giáo dưỡng con người hay không dựa trên những mối quan hệ

này có tốt hay không. Để xác định được điều đó, những yếu tố của
văn hóa truyền thống cùng với những yếu tố của các trào lưu tư
tưởng khác, đặc biệt là Nho giáo, trở thành tiêu chuẩn để đánh giá.
Theo đó, một số những tiêu chuẩn có thể kể đến là hiếu, đễ, thủy
chung, sự tôn trọng,...
Có thể nói rằng, những giá trị đạo đức gia đình truyền thống vẫn
còn những giá trị trong quá trình xây dựng gia đình hiện đại ngày
nay. Điều này sẽ giúp phát huy ưu thế các mối quan hệ trong gia đình
và làm cho nền tảng gia đình ngày càng vững chắc. Gia đình bền
vững sẽ là động lực để phát triển xã hội ngày càng giàu đẹp.
Vì nếu các giá trị đạo đức gia đình suy thoái, nền tảng xây dựng
các mối quan hệ dần mất đi, cơ sở để bảo vệ, xây dựng và phát triển
đất nước không còn. Việc phát huy các giá trị đạo đức gia đình
truyền thống sẽ góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, tạo “rễ sâu,
gốc bền” cho xã hội phát triển
Chƣơng 2
PHÁT HUY ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG VIỆT
NAM TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI Ở TỈNH
LÂM ĐỒNG- THỰC TRẠNG, PHƢƠNG HƢỚNG ,
GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng việc xây dựng, phát triển gia đ nh ở tỉnh Lâm
Đồng hiện nay
2.1.1 Tổng quan về tỉnh Lâm Đồng
Lâm Đồng là một trong những tỉnh cao nguyên cao nhất của Tây
Nguyên, là một trong những tỉnh tiếp giáp vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam. Tỉnh không có đường biên giới quốc tế. Phía Bắc giáp tỉnh
15


Đắc Lắc và Đắc Nông, phía Đông giáp tỉnh Khánh Hòa và Ninh

Thuận, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận và Đồng Nai, phía Tây giáp
tỉnh Bình Phước. Tỉnh Lâm Đồng chủ yếu có thế mạnh về nông
nghiệp, du lịch và dịch vụ.
Vị trí địa lý tỉnh Lâm Đồng
Trước ngày 30/4/1975, Lâm Đồng có đất đai chủ yếu thuộc Ninh
Thuận, Bình Thuận. Sau năm 1975, bốn tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức,
Bình Thuận và Ninh Thuận hợp thành tỉnh mới là tỉnh Thuận Lâm.
Đến tháng 2/1976, tỉnh Lâm Đồng, tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà
Lạt tách khỏi Thuận Lâm và kết hợp thành tỉnh Lâm Đồng. Cho đến
nay, tỉnh Lâm Đồng có 2 thành phố và 10 huyện.
Lâm Đồng nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
từ 18-25°C. Diện tích của tỉnh Lâm Đồng là 9.773.54km², phía Bắc là
dãy núi Yang Bong, phía Nam có đỉnh Đan Sê Na, Lang Bian, Hòn
Giao, phía Đông có cao nguyên Di Linh. Đặc điểm nổi bật của địa
hình tỉnh Lâm Đồng là sự phân bố khá rõ ràng từ Bắc xuống Nam.
Hệ thống sông suối trên địa bàn tỉnh khá đồng đều, có lưu vực nhỏ và
nhiều ghềnh, thác ở thượng nguồn.
Nói chung, ngoài tài nguyên về rừng, Lâm Đồng còn có tiềm năng
về khoáng sản. Chính nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
cũng như có khí hậu ôn hòa nên Lâm Đồng có lợi thế về du lịch.
Về kinh tế - xã hội tỉnh Lâm Đồng
Từ năm 2011 - 2016, kinh tế của tỉnh Lâm Đồng tiếp tục tăng
trưởng theo hướng “phát triển đô thị” và tiếp tục phát triển các ngành
nghề có sẵn và những ngành mũi nhọn, có ưu thế.
Về du lịch - dịch vụ: tỉnh có sân golf, 7 danh thắng cấp quốc gia, 7
hồ lớn có sinh cảnh đẹp. Tính đến cuối năm 2016, hệ thống cơ sở vật
chất có hơn 1000 cơ sở lưu trú và hơn 300 khách sạn từ 1-5 sao. Toàn
16



tỉnh có 33 địa điểm du lịch, 60 điểm tham quan miễn phí và hơn 40
đơn vị kinh doanh lữ hành và hơn 10 đơn vị kinh doanh lữ hành quốc
tế. Với cơ sở vật chất ngày càng phát triển, các cảnh quan và kiến
trúc được bảo tồn, Lâm Đồng có đủ điều kiện để phát triển các loại
hình du lịch như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, tham quan, vui chơi
giải trí cũng như văn hóa thể thao, nghiên cứu khoa học, du lịch giáo
dục, du lịch canh nông,…
Về nông nghiệp: có các vùng chuyên canh rau, hoa và chè lớn
nhất cả nước. Tính đến cuối năm 2016 có vùng chuyên canh rau trên
54.000 ha, chuyên canh chè với diện tích trên 23.580 ha, chuyên canh
cà phê là trên 152.650 ha. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước
Nhật Bản, Singapo, Đài Loan, Úc, Thái Lan, Bỉ, Hà Lan,... Ngoài ra
còn có một số các loại rau, củ, quả khác làm tăng giá trị sản lượng
nông nghiệp. Đồng thời, Lâm Đồng còn có điều kiện nuôi cá nước
lạnh như cá tầm và cá hồi với sản lượng trên 800 tấn/năm. Về diện
tích rừng có 597.690 ha, có 2 vườn quốc gia là Bidoup Núi Bà và
vườn quốc gia Cát Tiên. Tháng 7/2015, UNESCO đã công nhận khu
dự trữ sinh quyển Lang Bian là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Về công nghiệp: có các khu công nghiệp Lộc Sơn, Phú Hội, Tân
Phú cũng như khu bôxít ở huyện Bảo Lâm.
Tăng trưởng kinh tế GDP năm 2015 là 14,1%, nghành nông thủy
sản 49,2%, ngành công nghiệp - xây dựng 18,2%, dịch vụ là 32,6%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 450 triệu USD.
Về dân cư
Lâm Đồng là một địa phương đa dân tộc, hội tụ trên 40 dân tộc
anh em trong cả nước cùng cư trú và sinh sống. Lâm Đồng là nơi
sinh sống của nhiều tộc người bản địa, như dân tộc Mạ, Cơho, Churu,
M’nông và người Kinh. Các dân tộc hầu hết sống ở vùng nông thôn,
17



vùng sâu và vùng xa trong tỉnh. Tính đến cuối năm 2015, toàn tỉnh có
1.234.559 người, trong đó dân số nông thôn là 700.412 người. Dân
tộc đông đúc, có bản sắc và giá trị truyền thống riêng của tộc người.
Đó cũng là điều kiện thuận lợi và cũng như khó khăn trong quá trình
xây dựng quy mô gia đình hiện đại kiểu mới đáp ứng nhu cầu công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Một số nét gia đ nh tỉnh Lâm Đồng
Một là, gia đình tỉnh Lâm Đồng đang chuyển dần t mô hình
truyền thống t ba thế hệ sang gia đình hai thế hệ (gia đình hạt nhân)
Hai là, gia đình tỉnh Lâm Đồng hiện nay là dạng gia đình không
thuần nhất.
Ba là, gia đình tỉnh Lâm Đồng hiện nay phong phú và đa dạng
Bốn là, gia đình tỉnh Lâm Đồng chủ yếu chịu sự tác động của nền
kinh tế thị trường.
2.1.2. Thực trạng xây dựng, phát triển gia đình ở tỉnh Lâm
Đồng hiện nay
Để làm rõ thực trạng xây dựng, phát triển gia đình ở tỉnh Lâm
Đồng - một tỉnh miền núi, với nhiều thành phần dân tộc, học viên
tiến hành điều tra xã hội học, tập trung tìm hiểu về từ góc độ đạo đức
gia đình truyền thống, được nêu lên.
* Một số tiêu chuẩn tiến hành điều tra:
Học viên tiếp xúc và điều tra bảng hỏi với 150 hộ gia đình ở tỉnh
Lâm Đồng, gồm 45 hộ gia đình ở thành phố Đà Lạt, 35 hộ gia đình ở
huyện Lạc Dương, 35 hộ gia đình ở huyện Lâm Hà, 35 hộ gia đình ở
huyện Bảo Lâm.
Thứ nhất, Đạo hiếu trong gia đình tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
Thứ hai, quan hệ vợ chồng trong gia đình tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
Thứ ba, mối quan hệ anh em trong gia đình ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
18



2.1.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy giá trị đạo đức
gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện
đại ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
Thứ nhất, đạo đức gia đình truyền thống chịu nhiều sự tác động từ
môi trường xã hội
Thứ hai, sự tác động của yếu tố kinh tế đến gia đình
Thứ ba, sự tác động và xâm nhập cũng như ảnh hưởng của các
văn hóa không lành mạnh cũng như văn hóa ngoại lai
Thứ tư, những biến đổi về mô hình gia đình dẫn đến sự suy giảm
về giáo dục đạo đức gia đình truyền thống
2.2. Quan điểm, phương hướng và một số giải pháp cơ bản
nhằm phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam
trong xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
2.2.1. Quan điểm và phương hướng nhằm phát huy giá trị
đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia
đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
Thứ nhất, quan điểm nâng cao việc phát huy giá trị đạo đức gia
đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh
Lâm Đồng hiện nay.
Đảng ta đã xác định rõ và chỉ đạo thực hiện Tuyên truyền, giáo
dục đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam giai đoạn 2010- 2020
cũng như xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội khẳng định “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật
sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp
giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”.
19



Trong chiến lược xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, Đảng ta xác định “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
đậm đà bản sắc dân tộc” thì gia đình có vai trò giữ gìn, lưu truyền
phát triển các giá trị truyền thống văn hóa dân tộc.
Bắt đầu từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
tại đại hội VI (1986), Đảng ta xác định cần “nâng cao trình độ tự giác
xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình” [8,
tr. 95-96]. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến
việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng gia đình
hiện đại. Điều này cũng được Đảng ta đề cập đến trong các kỳ đại hội
VIII, IX, X và XI. Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh và thay đổi
một cách sâu sắc hơn trong định hướng “Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam đậm đà bản sắc dân tộc, trọng tâm là xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện”.
Thứ hai, phương hướng góp phần phát huy giá trị đạo đức gia
đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh
Lâm Đồng hiện nay
Một là, tỉnh cần có chủ trương và những chính sách phù hợp để
xây dựng gia đình hiện đại trên cơ sở kế thừa biện chứng những giá
trị đạo đức gia đình truyền thống.
Hai là, thông qua các đề án cũng như những chỉ đạo cụ thể nhằm
tuyên truyền, giáo dục đạo đức gia đình truyền thống trong xây dựng
gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là, vận động các gia đình tham gia xây dựng gia đình văn hóa,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững.
Bốn là, tăng cường tập huấn cho đội ngũ làm công tác gia đình ở
tỉnh Lâm Đồng
20



2.2.2 Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị đạo đức
gia đình truyền thống Việt Nam trong việc xây dựng gia đình
hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho gia đình
và xã hội thấy rõ tầm quan trọng của đạo đức gia đình truyền thống
Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện đại.
Thứ hai, có chính sách và biện pháp và thúc đẩy phát triển kinh tế
Thứ ba, kế thừa và phát huy những yếu tố tích cực của các mối
quan hệ trong gia đình truyền thống cũng như những yếu tố tiến bộ
trong xây dựng gia đình hiện đại.
Thứ tƣ, tăng cường kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội
trong việc giáo dục đạo đức gia đình truyền thống.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Qua tiếp xúc và trao đổi trực tiếp với các hộ gia đình ở thành
phố Đà Lạt và ba huyện của tỉnh Lâm Đồng về những vấn đề có liên
quan đến phát huy đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong
việc xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay, kết quả
cho thấy rằng ảnh hưởng của đạo đức gia đình truyền thống có những
yếu tố tích cực. Tuy nhiên, những biểu hiện suy thoái và đi xuống
vẫn có. Ảnh hưởng và tác động của đạo đức truyền thống chưa mạnh
mẽ và sâu sắc ở một vài mối quan hệ trong gia đình. Để khắc phục
được điều này, một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị đạo
đức gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện đại
ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay được đưa ra.
Quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng cũng như
pháp luật của Nhà nước về phát huy giá trị đạo đức gia đình truyền
thống Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện đại, tác giả mạnh dạn
đề xuất ra một số giải pháp nhằm phát huy giá trị đạo đức gia đình

21


truyền thống Việt Nam trong việc xây gia đình hiện đại ở tỉnh Lâm
Đồng hiện nay. Thực hiện đồng bộ các giải pháp này sẽ đem lại
những kết quả tích cực trong việc xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh
Lâm Đồng. Từ đó, góp phần bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị
đạo đức gia đình truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam trở nên
bền vững hơn.
KẾT LUẬN
Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường hình thành nên
nhân cách của mỗi cá nhân. Đồng thời gia đình cũng là một trong
những phương tiện quan trọng trong việc bảo tồn, phổ biến và phát
huy các giá trị văn hóa. Một trong những yếu tố chính nhằm góp
phần phát huy những giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam là đạo
đức gia đình truyền thống. Mặc dù xã hội có những thay đổi lớn lao
và những giá trị đạo đức truyền thống gia đình đó có thể thay đổi
theo dòng biến đổi của xã hội, và tất yếu, nó cũng cần thay đổi để
phù hợp với sự phát triển của lịch sử dân tộc và thời đại. Song, vai trò
của đạo đức gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình hiện đại
không thể phủ nhận được.
Giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam được
hình thành trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt của các
thành viên trong gia đình, cùng với đó là những mối quan hệ dựa trên
nền tảng huyết thống và tình thương yêu, tương trợ, đùm bọc và bảo
vệ nhau. Ngoài ra, ý thức đạo đức của con người Việt Nam còn được
hun đúc, định hình từ sự giáo dục các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
trong các học thuyết được du nhập từ bên ngoài như Nho giáo, Phật
giáo và Đạo giáo. Các nguyên tắc, chuẩn mực đó được tiếp thu trên
cơ sở chọn lọc những gì thích hợp cho cuộc sống của con người Việt

Nam trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
22


Ngày nay, trong điều kiện đổi mới và hội nhập, trong sự vận
hành của nền kinh tế thị trường, nhiều giá trị truyền thống đã bị tác
động không chỉ bởi những yếu tố tích cực, mà có cả những mặt tiêu
cực, đòi hỏi chúng ta phải có lập trường kiên định để một mặt, tiếp
thu những cái mới, cái tích cực cho sự hoàn thiện nhân cách con
người, xây dựng con người mới đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; mặt khác cần ngăn chặn, khắc
phục những tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường,
sự bất cập của văn hóa ngoại lai để bảo vệ bản sắc văn hóa của dân
tộc, trong đó có văn hóa đạo đức từ trong các mối quan hệ gia đình.
Tỉnh Lâm Đồng là một tỉnh miền núi, cũng chịu sự tác động
của kinh tế thị trường làm cho những giá trị chuẩn mực đạo đức gia
đình thay đổi, tình trạng suy thoái và bào mòn đạo đức đức gia đình
đang tăng lên; như: tình trạng ngoại tình, ly hôn, sống thử, bạo lực
gia đình, con cháu bất hiếu, kéo theo lối sống thực dụng, coi trọng
đồng tiền,… Những điều này làm suy giảm và phá hủy nền tảng vững
chắc của gia đình.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, việc phát huy đạo
đức gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình hiện đại ở tỉnh
Lâm Đồng sẽ tạo nền tảng cho gia đình phát triển bền vững. Tuy
nhiên, để thực hiện được điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau. Như tác động của xã hội, điều kiện kinh tế, ảnh hưởng
của văn hóa cũng như sự thay đổi của mô hình gia đình. Thực tế, ở
tỉnh Lâm Đồng, việc phát huy các giá trị đạo đức gia đình truyền
thống trong xây dựng gia đình hiện đại còn gặp nhiều hạn chế và khó
khăn. Dựa vào các tiêu chí cơ bản để đánh giá, ta thấy rằng, trình độ

cao không có nghĩa là việc nhận thực cũng như thực hiện các vấn đề
về đạo hiếu, mối quan hệ vợ chồng cũng như mối quan hệ anh chị em
23


×