Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG LỐI SỐNG THANH NIÊN HUYỆN HÓC MÔN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.21 KB, 112 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
mạnh mẽ và trở thành một xu thế tất yếu đối với tất cả các nước. Cải cách
kinh tế được nhiều nước đang phát triển chọn lựa để tham gia toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế mang tính chiến lược hầu hết các quốc gia đều dựa
trên cơ sở vận dụng sát với các điều kiện cụ thể của nước mình theo những
nguyên tắc riêng.
Việt Nam trong quá trình đổi mới để thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đảng ta chủ trương thực hiện nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa vào nội lực là chính,
đồng thời tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra. Sau hơn
hai thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt: thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực (vốn, nhân lực, tài nguyên…); kích thích tính năng động sáng tạo
của các chủ thể kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội; ổn định và tăng
trưởng kinh tế, đời sống nhân dân cải thiện đáng kể… bên cạnh những kết quả
đạt được như trên, kinh tế thị trường cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định
như phân hoá giàu nghèo, bất công xã hội, một số tệ nạn gia tăng: tham
nhũng, buôn lậu, trốn thuế, mại dâm, ma tuý, đặc biệt là sự suy thoái đạo đức,
nhất là những giá trị về đạo đạo đức truyền thống.
Điều này, thể hiện rõ ở một bộ phận người dân, đặc biệt là ở lứa tuổi
thanh niên. Dường như việc họ thờ ơ trước những cái xấu và hành vi vô đạo
đức, cũng như bất chấp đạo lý, xem nhẹ tình nghĩa là một điều hiển nhiên. Lối
2
sống thực dụng, sống gấp và thiếu lý tưởng, đề cao lợi ích cá nhân, giá trị vật
chất, tôn thờ đồng tiền được họ tôn sùng. Như C.Mác đã nói:
“Cái đang tồn tại đối với tôi nhờ có tiền, cái tôi có thể trả tiền, nghĩa là
cái mà tiền có thể mua được đó là bản thân tôi, người có tiền, sức mạnh của


tiền lớn bao nhiêu thì sức mạnh của tôi cũng lớn bấy nhiêu… tôi là người xấu,
không thật thà, không có lương tâm ngu ngốc, nhưng tiền được tôn thờ, người
có tiền được tôn thờ. Tiền là cái tốt nhất thì người có nó cũng tốt” [7, tr.212].
Những năm đổi mới vừa qua, thành phố Hồ Chí Minh đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực văn hoá tinh
thần. Là một trung tâm kinh tế - văn hoá - xã hội năng động của cả nước,
thành phố Hồ Chí Minh tiếp nhận rất nhiều kênh thông tin và cũng chịu ảnh
hưởng của nhiều luồng văn hoá khác nhau, nhất là sự bùng nổ của cách mạng
thông tin đã khiến cho quá trình giao lưu văn hóa ngày càng phức tạp. Điều
này làm cho đời sống tinh thần của một bộ phân thanh niên vừa phong phú
vừa phức tạp, nhiều xu hướng mới nảy sinh nhưng đồng thời bị lệch chuẩn về
mặt đạo đức trong lối sống, đòi hỏi bức xúc cần giải quyết. Theo Lênin thì
nhiệm vụ thật sự xây dựng xã hội Cộng sản chủ nghĩa, chính là là nhiệm vụ
của Thanh niên. Thanh niên là thế hệ tương lai của đất nước; nếu chúng ta
không kịp thời ra tay, ngăn chặn thì nguy cơ sẽ rất lớn.
Thấy được vai trò, vị trí, khả năng to lớn ấy của thanh niên, chúng ta
cần phải đào tạo ra những thế hệ trẻ vừa có đức, tài, vừa biết kết hợp hài
hoà giá trị truyền thống với giá trị hiện đại để làm tròn sứ mệnh lịch sử của
mình. Vì vậy, phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong lối sống thanh
niên Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những nhân tố quan trọng góp
phần hình thành một thế hệ những con người Thành phố đạt tới những chỉ
số phát triển về vật chất và tinh thần đáp ứng sự phát triển của đất nước và
Thành phố.
3
Hiện tượng suy thoái, xuống cấp về đạo đức nói chung, đạo đức
truyền thống nói riêng ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực, nhiều tầng lớp xã hội,
đặc biệt trong lối sống thanh niên cả nước nói chung, thanh niên thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng trong đó có thanh niên huyện Hóc Môn đang
trở thành mối quan tâm của toàn đảng, toàn dân, toàn xã hộ; không chỉ vì
nó có vị trí quan trọng, mà có thể xem đây là mặt trận mới có ý nghĩa thử

thách đối với tất cả mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội, trong đó nhà
trường và gia đình đóng vai trò quan trọng. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài
“Phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong lối sống thanh niên
huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài luận văn
thạc sĩ Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan mà mỗi dân tộc, dù muốn hay
không, cũng đều chịu sự tác động của nó. Việt Nam là nước đang phát triển,
quá trình toàn cầu hoá tạo cho chúng ta những thời cơ thuận lợi có thể đi tắt
đón đầu để phát triển nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Thách thức đó bao
gồm cả nguy cơ suy thoái, đặc biệt là suy thoái về đạo đức, đạo đức truyền
thống, lối sống con người Việt nam hiện nay. Vấn đề này đã và đang thu hút
được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả trên nhiều lĩnh vực, có thể kể
đến một số công trình nghiên cứu như:
Huỳnh khái Vinh (chủ biên) (2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo
đức, chuẩn giá trị xã hội”, gồm một số nội dung quan trọng như: Sự tác động
của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống, đạo
đức, chuẩn giá trị xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; kế thừa và phát triển nếp sống đạo đức và các giá trị truyền
thống dân tộc và cách mạng… tác giả đề ra phương hướng, quan điểm và giải
pháp xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội mới.
4
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2002) “Giá trị
truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa” công trình đã đề cập
đến một số nội dung quan trọng: “Các giá trị truyền thống trước sự thẩm định
và thách thức của thời đại trong bối cảnh toàn cầu hoá”; “Một số suy nghĩ về
giữ gìn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống ở Việt Nam hiện nay”; “Giá
trị truyền thống Việt Nam nội dung và vị thế của nó trong giá trị nhân loại”
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (chủ biên) (2003) “Mấy vấn
đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, tác giả đã

phân tích một số nội dung quan trọng: “Kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
và những biến đổi trong lĩnh vực đạo đức”; “Giữ gìn và phát huy các giá trị
đạo đức truyền thống trong bối cảnh kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”;
“Quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại trong xây dựng đạo đức…
Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1999) “Sự thay đổi cuả thang giá trị đạo
đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ
quản lý ở nước ta hiện nay”, tác giả đã đưa ra một số vấn đề cơ bản như: Đạo
đức mới trong cơ chế thị trường; sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó xây dựng đạo
đức mới, đưa ra phương hướng và giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức
mới.
Vũ Minh Giang, Phan Huy Lê (1994) “Các giá trị truyền thống của
con người Việt Nam hiện nay” Chương trình KHCN cấp nhà nước KX 07-02,
công trình đã đề cập đến một số nội dung: “Một số suy nghĩ về quá trình hình
thành và biến đổi của truyền thống yêu nước Việt Nam”; “Con người Việt
Nam hiện tại trong mối quan hệ với các giá trị và phản giá trị của truyền
thống”, v.v
Nguyễn Ngọc Phú (chủ biên) (2006) “Chuẩn mực đạo đức con người
Việt Nam hiện nay”, tác giả đã khái quát một cách hệ thống chuẩn mực đạo
5
đức truyền thống của con người Việt Nam và dưới sự biến đổi của nền kinh tế
thị trường tác động đến chuẩn mực đạo đức, tác giả đưa ra những chuẩn mực
chủ yếu của con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
Ngoài ra còn một số bài báo, tạp chí của nhiều tác giả đã bàn đến các
nội dung: Đặng Hữu Toàn (2001), Hướng các giá trị đạo đức truyền thống
theo chuẩn giá trị chân thiện mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển
kinh tế thị trường, tạp chí triết học số 4; Nguyễn Văn Huyên (2003), Lối sống
người Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá, tạp chí triết học số 12; Võ
Văn Thắng (2005), Một số mâu thuẫn nảy sinh trong xây dựng lối sống mới ở

nước ta hiện nay, tạp chí triết học số 8; Nguyễn Thị Thanh Huyền (2007),
Toàn cầu hoá và nguy cơ suy thoái đạo đức, lối lối con người Việt Nam hiện
nay, tạp chí triết học số 2, Cao Thu Hằng (2003), Giáo dục các giá trị đạo
đức truyền thống trong điều kiện hiện nay, tạp chí triết học số 11,… và một số
tài liệu “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Ban tư
tưởng văn hóa trung ương soạn thảo.
Mỗi công trình, đề tài là một góc nhìn riêng của tác giả, là tiếng nói
hiện thực của từng nhà nghiên cứu góp phần xây dựng bức tranh thêm hài hòa
về hành vi, lối sống con người và đất nước Việt nam trong bối cảnh hội nhập
thế giới. Đây là nguồn tư liệu tham khảo quý giá cho tác giả trong quá trình
hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích là Làm rõ nội dung quan điểm triết học Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và của Đảng ta về đạo đức truyền thống. Làm rõ những giá trị
đạo đức truyền thống Việt Nam. Trên cơ sở đó, xem xét thực trạng về đạo đức
lối sống của thanh niên huyện Hóc Môn hiện nay và đưa ra những giải pháp
phù hợp trong việc phát huy giá trị truyền thống đạo đức dân tộc tốt đẹp.
6
Trên cơ sở mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn là:
- Làm rõ một số giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam cơ bản và vai trò
của giá trị đạo đức truyền thống trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng những giá trị đạo truyền thống trong lối sống
thanh niên huyện Hóc Môn. Từ đó, đề ra những giải pháp phát huy giá trị
đạo đức truyền thống thiết thực phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Thanh niên huyện Hóc Môn thành phố Hồ
Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu: Một số nội dung cơ bản của đạo đức truyền
thống dân tộc Việt Nam; phát huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam

trong lối sống thanh niên cùng với việc kết hợp hài hoà giá trị hiện đại; số liệu
liên quan đến đối tượng nghiên cứu tính từ năm 2007 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Triết học duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội; Các quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề phát huy và kế thừa các giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc, vấn đề xây dựng đạo đức mới trong lối sống
thanh niên.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chung nhất của
luận văn là các nguyên tắc, phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng.
Trong đó chú trọng phương pháp thống nhất lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng
hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa. Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng phương
pháp điều tra, so sánh, đối chiếu và sử dụng những số liệu của Ủy ban nhân dân
huyện Hóc Môn và nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hóc Môn Thành
phố Hồ Chí Minh.
7
6. Đóng góp của đề tài
- Luận văn đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm kế thứa và phát huy giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng lối sống đạo đức mới
cho thanh niên.
- Luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho các tổ chức chính trị xã hội
trong việc giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh niên huyện Hóc Môn.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 2 chương, 6 tiết, phần mở đầu, phần kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG

1.1. Quan điểm của triết học Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ
Chí Minh về giá trị đạo đức truyền thống
1.1.1. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về giá trị đạo đức truyền thống
C. Mác đã khẳng định rằng, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại của
cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con
người, là mặt cơ bản của lối sống. Lối sống chính là phương thức, là dạng
hoạt động của con người, nó chịu sự quyết định của phương thức sản xuất. C.
Mác đã viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình
sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con
người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định
ý thức của họ” [9, tr.15] Đây chính là chìa khoá để nhận thức bản chất của
mọi hiện tượng xã hội, trong đó có đạo đức. Đạo đức chính là một hình thái ý
thức xã hội, nó phản ánh và bị quy định bởi tồn tại xã hội. Nó là biểu hiện của
một trạng thái, một trình độ phát triển nhất định những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng, về thực chất và xét đến
cùng, các nguyên tắc, các chuẩn mực, các quan niệm đạo đức chẳng qua chỉ là
sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế và cùng với tính quy
định của yếu tố thời đại, đạo đức còn bị chi phối bởi những yếu tố mang tính
dân tộc. Tức trong mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hoá riêng được tạo bởi
nét đặc trưng của lịch sử hình thành đất nước và bởi tính độc đáo của các
quan niệm, các chuẩn mực, các ứng xử đạo đức. Nhìn nhận tính độc đáo và sự
khác biệt ấy về mặt dân tộc trong cặp khái niệm cơ bản của đạo đức, cặp khái
9
niệm thiện ác, Ăngghen chỉ ra sự biến đổi của chúng qua các thời đại và dân
tộc. “Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác,
những quan niệm thiện ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thành trái ngược
nhau”. Luận điểm này của Ăngghen có ý nghĩa rất lớn trong việc xóa bỏ
thành kiến dân tộc đối với những đặc điểm về đời sống đạo đức và những
phong tục tập quán không giống với các dân tộc.
Mỗi dân tộc đều có những cách thức riêng biệt trong tổ chức đời sống,

trong những nghi lễ cuới xin, ma chay, trong lối xã giao, quy tắc mời chào,
thăm viếng, Những truyền thống, tập quán ấy được hình thành, phát triển,
biến đổi và cải biến dần dần cho mỗi ngày một thích hợp hơn với sự tiến bộ
lịch sử và lợi ích của nhân dân. Trong quan hệ gần gũi giữa dân tộc này và
dân tộc khác, những truyền thống, tập quán đạo đức ấy thường có sự giao lưu
và được bổ sung thêm.Tuy nhiên những hành xử của dân tộc này cho là tốt, là
hợp lý thì ở dân tộc khác cho là sai trái, thiếu đạo đức. Như đối với người
phương tây, mẹ con, anh em và những người thân yêu lâu ngày gặp lại thì
thường ôm hôn nhau. Những cử chỉ đó dưới con mắt người phương đông
thường bị coi là thiếu đạo đức.
Chủ nghĩa Mác không đánh giá đạo đức theo những phong tục tập quán
khác nhau của các dân tộc như thế, mà đánh giá đạo đức con người ở chỗ
những hành vi nào đó có phù hợp hay không phù hợp với sự tiến bộ của lịch
sử và hạnh phúc của nhân dân. Vì thế, có rất nhiều thứ đạo đức khác nhau
giữa các thời đại, các giai cấp, các dân tộc. Muốn hiểu đúng đắn một giá trị
đạo đức nào đó, chúng ta phải luôn luôn gắn bó với cơ sở ra đời của nó, và
phải đứng trên phương diện của dân tộc đó mà đánh giá… Nếu không nhận
thức được sự biện chứng ấy của giá trị đạo đức nói chung và giá trị đạo đức
truyền thống nói riêng mà khư khư giữ những giá trị lỗi thời, thì nhất định sẽ
lạc lõng trong xã hội mới. Vì vậy Lênin đã xác định giá trị của đạo đức ở chỗ
10
nó phục vụ cho tiến bộ xã hội, vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp
cho xã hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao
động”. Lênin nhấn mạnh rằng: “phát triển hợp quy luật của tổng số những
kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản,
xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu. Tất cả những con đường
đó, lớn và nhỏ, đã, đang và sẽ tiếp tục đưa tới văn hoá vô sản ”. Như vậy
Lênin đã gắn văn hoá xã hội chủ nghĩa với phát triển. Văn hóa là yếu tố nội
sinh, yếu tố làm cho chất lượng con người ngày một hoàn thiện, khả năng
hoạt động sáng tạo của con người ngày một nâng cao, phương thức ứng xử

giữa người với người ngày một cao đẹp. Đến lượt mình, sự phát triển chất
lượng con người, việc nâng cao năng lực sáng tạo của con người sẽ làm biến
đổi toàn bộ định hướng những giá trị vật chất của nền văn hóa nhân loại và sử
dụng toàn bộ tiềm năng to lớn của nó cho những mục đích tốt đẹp của con
người. Theo nghĩa đó. C. Mác đã khẳng định văn hóa là phương thức hoạt
động sống đặc thù của con người, phương thức con người “tái sản xuất ra toàn
bộ giới tự nhiên theo quy luật của cái đẹp”. Đồng thời văn hóa cấu thành
một hệ thống gí trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên nền tảng
đó, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia tự khẳng định bản sắc riêng của mình. Hơn nữa
nó không đứng ngoài sự phát triển, mà nó duy trì một sự phát triển bền vững
và điều tiết sự phát triển đó.
Sự phát triển diễn ra trên cơ sở kế thừa tổng số kiến thức mà nhân loại
đã đạt được và cũng có thể coi kế thừa là khía cạnh cấu thành sự vận động và
phát triển. Kế thừa là cơ sở không thể thiếu được của phát triển bền vững. Do
đó những giá trị đạo đức, đạo đức truyền thống sẽ được kế thừa và phát triển
khi nó phù hợp với sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên tùy vào từng giai đoạn lịch sử
cụ thể của mỗi quốc gia mà những giá trị đạo đức này cho là phù hợp, giá trị
đạo đức kia lại không phù hợp.
11
Như vậy, khi bàn về đạo đức nói chung, đạo đức truyền thống nói riêng
Mác, Ăngghen, Lênin đã luôn luôn sử dụng những khái niệm cũ, như thiện,
ác, vinh dự, lương tâm, chủ nghĩa vị tha và chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa khổ
hạnh và chủ nghĩa hưởng lạc… nhưng đi sâu vào những khái niệm này.
Chúng ta thấy Mác, Ăngghen, Lênin trên cơ sở của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử đánh giá lại toàn bộ những tư tưởng đạo
đức từ xưa đến nay, đặt nền mong cho một đạo đức khoa học nhất và nêu lên
những nét cơ bản của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Lênin đã khẳng định rằng
“sự phát triển hợp quy luật” của đạo đức cộng sản là ở chỗ, nó là quá trình kế
thừa và phát triển, vừa kế thừa vừa phát triển toàn bộ các giá trị đạo đức của
nhân loại.

1.1.2. Quan điểm Đảng cộng sản Việt Nam về giá trị đạo đức truyền thống
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI đã
tác động mạnh mẽ đến nhận thức của nhân dân trên nhiều phương diện. yếu tố
con người, yếu tố đời thường với những nhu cầu tâm lý, tình cảm thiết yếu đã
được đặt ra đúng mức hơn. Tự do, hạnh phúc của mỗi người được quan tâm
trên hết. Và xây dựng một xã hội phát triển đúng nghĩa của nó phải là một xã
hội mà tất cả vì sự tiến bộ xã hội và hoàn thiện con người. Đảng ta đề ra “Xây
dựng một xã hội dân chủ văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao” [22,
tr.10], đồng thời trong hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và
phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người
Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi
trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển xã hội, và đặc biệt phải kế thừa và
phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ…của dân tộc. Trong đó bản
sắc văn hoá là đặc trưng về sắc thái thể hiện cả ở bên ngoài lẫn nội dung bên
trong, khẳng định nó là dân tộc này chứ không phải dân tộc khác. Tại Hội
12
nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta đã khẳng
định bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam:
“Bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của công đồng các
dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết cá nhân với gia đình - làng xã - tổ quốc; lòng nhân ái,
khoan dung trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo ttong lao động,
sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống” [17, tr.56].
Tất cả những yếu tố đó cần được kế thừa và phát huy cùng với việc học
tập những tinh hoa văn hoá của nhân loại và không ngừng sáng tạo những giá
trị mới để chúng ta có thể xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, tự tin
hội nhập quốc tế. Chỉ trên cơ sở có một nền văn hoá như vậy, con người Việt
Nam sẽ có lối sống văn hoá hiện đại nhưng mang đậm đà bản sắc dân tộc.

Thế nhưng xã hội đang báo động về hiện trạng thế hệ trẻ rất ít quan tâm
đến truyền thống, coi thường những giá trị dân tộc, chạy theo lối sống thực
dụng, cá nhân vị kỷ… làm băng hoại nhiều thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Vì lẽ đó, trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định:
“Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải
đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và
phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp
thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp nền văn hoá Việt
Nam; đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hoá độc hại, những
khuynh hướng sùng ngoại, lai căng mất gốc. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng
tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn.” [23, tr.123]
Đồng thời giữ vững nguyên tắc của việc phát huy những giá trị truyền
thống của dân tộc là:
13
“Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn luôn
coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không được tự
đánh mất mình, trở thành bóng mờ hoặc bản sao của người khác” [23, tr.109].
Cần phải "đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, kế thừa
và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc".
Trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) khẳng định, mối quan hệ
giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển, dân tộc và quốc tế là sự
thống nhất hữu cơ. Do đó cần phải khai thác và phát triển những yếu tố tích
cực và tiến bộ mọi sắc thái và giá trị văn hoá, nghệ thuật của các dân tộc trên
thế giới cũng như trong đất nước ta; tạo ra sự thống nhất trong tính đa dạng và
phong phú của nền văn hoá Việt Nam. Khuyến khích và cổ vũ cái tốt, cái đẹp
trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với
thiên nhiên, phê phán cái sai, lên án cái xấu, cái ác, hướng tới chân, thiện, mỹ.
Biểu dương những hành vi tốt, đưa các nhân tố văn hoá, tinh thần nhân văn

thấm sâu vào lĩnh vực của đời sống xã hội, từ cách ứng xử trong gia đình,
trường học, xã hội đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh, giao tiếp…
Hiện nay, sự biến động mạnh mẽ của các điều kiện kinh tế - xã hội, sự
giao thoa các nền văn hoá, tất yếu không thể không có sự chuyển đổi thang
giá trị đạo đức truyền thống, vấn đề là chuyển đổi theo xu hướng nào, tiến bộ
hay thoái hoá, thăng hoa hay sa đoạ. Phải chăng kinh tế càng phát triển thì các
giá trị đạo đức truyền thống được quyền quên lãng, không còn phù hợp với xã
hội mới… Kinh tế càng phát triển ta thấy thang giá trị đạo đức truyền thống
đang thay đổi cực kỳ nhanh chóng, phức tạp có cả tích cực và tiêu cực, thái
quá, thậm chí có sự đảo lộn. Vì vậy đạo đức truyền thống vừa phải đấu tranh
với các hệ thống đạo đức khác, vừa phải đấu tranh tự đổi mới, tự khẳng định
mình trong điều kiện mới.
14
Đạo đức không sinh ra từ đạo đức mà là sản phẩm của những điều kiện
lịch sừ - cụ thể. Các giá trị đạo đức là kết quả của các mối quan hệ giữa người
với người trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định và nó góp phần thúc đẩy
lịch sử tiến lên, nó phù hợp với quy luật lịch sử, phải được xác định trên cơ sở
hiểu biết được xu hướng tất yếu của xã hội. Chính vì thế mà Đảng ta đòi hỏi
phải đặt toàn bộ đạo đức trên cơ sở của thế giới quan Mác - Lênin. Đạo đức
chân chính nói chung và những giá trị đạo đức truyền thống nói riêng vừa
phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội vừa phục vụ cho hạnh phúc nhân dân. Chủ
nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật lịch sử mà còn là điều kiện cơ
bản để đem lại cho quần chúng nhân dân đời sống hạnh phúc nhất. Thiếu
động cơ chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân thì hành động của con người
cũng không thể là một giá trị đạo đức. Giá trị đạo đức của chúng ta phải là sự
thống nhất chặt chẽ giữa động cơ và hiệu quả, phải là sản phẩm cao nhất của
lòng trung thành vô hạn với tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội và tinh thần quyết
tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Giá trị đạo đức truyền thống có thể điều chỉnh và hướng mọi hành vi
hoạt động sống của con người vươn tới nhân văn cao cả, hướng mọi thành

viên và tầng lớp xã hội tới tự giác thực hiện hành vi của mình theo chuẩn mực
và lý tưởng đạo đức phù hợp với những giá trị xã hội tốt đẹp mà hàng ngàn
đời nay, con người chân chính khao khát xây dựng. Nó sẽ được phát huy cao
độ khi được sử dụng một cách hợp lý trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất
định của dân tộc. Hơn nữa nó phải phù hợp với mục tiêu phát triển hiện đại
của dân tộc. Nhưng nếu giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc đứng
độc lập tách biệt với các yếu tố khác thì không thể tạo được sức mạnh nào hết.
Vì thế nó phải hợp lực với khoa học - công nghệ hiện đại, với triết lý phát
triển thích hợp của chính sách đúng đắn mới tạo ra sự cộng hưởng chuyển
thành sức mạnh đặc biệt - sức mạnh của lịch sử, truyền thống dân tộc.
15
Như vậy, khi nói tới bản sắc văn hoá như là động lực của sự phát triển
xã hội thì cần thừa nhận là bản sắc không nhất thành bất biến. Bản sắc là ổn
định vì nó bao gồm những giá trị bền vững được hình thành qua lịch sử cộng
đồng người. Nhưng con người và cộng đồng chỉ tồn tại những gì đáp ứng yêu
cầu tồn tại và phát triển của họ. Bởi vậy, khi các điều kiện lịch sử thay đổi thì
những yếu tố đã lỗi thời trong bản sắc văn hoá tất yếu là phải nhường chỗ cho
những nhân tố mới nảy sinh trong điều kiện mới. Những nhân tố này sẽ gia
nhập vào bản sắc văn hoá như là những thành tố tất yếu của bản sắc văn hoá.
Vậy là, cũng như chính sự vận động biến đổi của đời sống các cộng đồng
người, Bản sắc văn hoá của các cộng đồng vừa ổn định, vừa luôn phát triển và
biến đổi. Hội nghị lần 5 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII nhấn mạnh
“Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn liền với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu
có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc khác. Giữ gìn
bản sắn dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập
quán, lề thói cũ” [17, tr.56]. Do đó những giá trị đạo đức truyền được hình
thành cùng với thời gian tạo nên một nét đặc sắc của dân tộc Việt Nam được
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về Một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng hiện nay chỉ rõ: “Những giá trị văn hoá truyền thống vững bền của dân
tộc Việt Nam là Lòng yêu nước nồng nàn, Ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý

“thương người như thể thương thân”, đức cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao
động…” [24, tr.19]. Thế nhưng, trong thang giá trị đạo đức truyền thống còn
bộc lộ nhiều hạn chế: Đề cao phẩm chất chiến đấu “chống giặc cứu nước” mà
ít nhiều xem nhẹ những phẩm chất lao động, xây dựng làm giàu đất nước; đề
cao các giá trị cộng đồng, còn các giá trị cá nhân mờ nhạt; đề cao tính đạo đức
con người nhân dân, con người tập thể, con người tổ quốc, con người tông tộc
trong khi ý kiến cá nhân, sáng kiến cá nhân, cuộc sống cá nhân thì ít được
quan tâm; tách rời giá trị đạo đức với các giá trị khác, thay thế các giá trị khác
16
hoặc tuyệt đối hoá trong đời sống xã hội. Trong văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Đảng và nhà nước ta đã nhận định:
“Văn hoá phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý
văn hoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hoá
bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn
xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy
đồi đạo đức, nhất là trong thanh thiếu niên rất đáng lo ngại.” [25, tr. 169].
Nhận thức sâu sắc vai trò của bản sắc văn hoá trong gắn kết cộng đồng,
thúc đẩy các quá trình kinh tế - xã hội, yêu cầu xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực
xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu thời đại. Tại
Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định và Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII đã cụ thể hoá yêu cầu này thành những đức tính sau:
“Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên, đưa đất nước thoát nghèo nàn lạc hậu,
đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi
ích chung; có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỹ cương, phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức
bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; lao động chăm chỉ với lương tâm
nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia
đình tập thể và xã hội; thường xuyên học tập nâng cao hiểu biết, trình độ

chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực” [33, tr.157-158].
Chính những giá trị này thể hiện thực sự sức mạnh, bản sắc dân tộc phải
được thâm sâu trong yêu cầu của xã hội hiện đại, nó thể hiện cụ thể trong các
lĩnh vực hoạt động xây dựng xã hội mới; phải thường xuyên bồi đắp, làm
phong phú trong mọi hoạt động sống của từng cá nhân, từng tập thể, từng cộng
đồng. Đồng thời góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của
17
đạo đức, văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đúc
kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Như vậy, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần X (2006), Đảng ta đánh
giá; “Việc xây dựng nếp sống văn hoá chưa được coi trọng đúng mức. tình
trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và
phạm tội đáng lo ngại, nhất là lớp trẻ”. Từ đó Đảng chủ trương:
“Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người việt nam, bảo vệ
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các gia trị văn hoá trong thanh niên,
học sinh sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo
đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam” [20, tr. 172-173,106].
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta đã khẳng định:
“Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, vừa phát huy
những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân
loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá để văn hoá thực sự là nền
tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội
nhập quốc tế.” [25, tr. 126].
1.1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về giá trị đạo đức truyền thống
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực cho sự phát huy những giá trị
truyền thống của cha ông ta. Người đã không sử dụng nguyên xi những giá trị
cũ, mà có sự đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Người nói rằng:
“Nhân dân ta sẵn có truyền thống tốt đẹp là lao động cần cù, sinh hoạt giản dị,

lại có tinh thần yêu nước nồng nàn. Chúng ta cần phát huy truyền thống và
tinh thần ấy.” [48, tr.349]
Truyền thống đạo đức Việt Nam là truyền thống giáo dục con người
phải tu dưỡng trọn đời để làm người, dựng làng, dựng nước. Truyền thống
18
đạo đức ấy luôn định hướng cho mỗi hoạt của con người, hướng con người
đến chân, thiện, mỹ và tìm ra chân lý đúng đắn trên cơ sở đời sống hiện thực.
Lịch sử dân tộc ta, hoàn cảnh nước ta quy định nên những giá trị truyền thống
quý báu mà mỗi người dân Việt Nam luôn muốn hướng đến để là cơ sở cho
“đạo làm người”. Người luôn luôn kêu gọi nhân dân “Học để làm người”.
Chính Người là tấm gương sáng về đạo đức và phong cách của dân tộc ta.
Chúng ta đã nhận thấy rằng tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và tư
tưởng đạo đức cách mạng được hun đúc kết tinh trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh.
Như thế có thể nói những yếu tố đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và
con người Hồ Chí Minh, thứ nhất xuất thân là con gia đình nhà nho, tư tưởng
của quê hương và của nếp nhà đã có những ảnh hưởng nhất định đến Người.
Nghĩa là ở đây Người được thừa hưởng những giá trị đạo đức truyền thống
quý báu của dân tộc Việt Nam về cách sống phải có tình nghĩa, thuỷ chung,
biết trung biết hiếu, đặc biệt là về cái đạo lý làm người trong đó tinh thần yêu
nước giữ vị trí hàng đầu - là tình yêu và lòng trung thành đối với tổ quốc, với
nhân dân; thứ hai được tiếp cận cả ba nguồn văn hoá: Văn hoá dân tộc, văn
hoá khu vực, văn hoá thế giới; đặc biệt trong hoạt động thực tiễn đầy bão táp
phong ba, và đã chứng kiến sự tàn bạo, vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân.
Từ đó Người đến chủ nghĩa Mác - Lênin với khát vọng đấu tranh cho sự tự
do, ấm no, hạnh phúc của tất cả mọi người. Với sự ảnh hưởng và tiếp biến
như thế, Hồ Chí Minh trở thành một con người mẫu mực, một nhân cách lớn
không chỉ của dân tộc Việt Nam mà của cả thế giới. Tư tưởng ấy Người
không đề xướng thành hệ thống lý thuyết, cũng không cô đúc các lý luận,
chuẩn mực đạo đức mà thường dùng những tục ngữ, ca dao hoặc đôi khi tạo

thêm ra những hiện tượng đạo đức phù hợp với hoàn cảnh mới bên cạnh
những hiện tượng đạo đức cổ truyền còn dồi dào sức sống. Người đặc biệt
19
khai thác những chuyện người thật, việc thật, người tốt việc tốt rất phong phú
trong đời sống thường ngày. Người cũng quan tâm đến thực tiễn và ý nghĩa
phát triển của các nguyên lý đạo đức. Điều cốt yếu nhất là Hồ Chí Minh rất
chú trọng đến việc thực hành đạo đức. Người luôn coi trọng việc kế thừa, giáo
dục các giá trị đạo đức truyền thống trước hết trong đội ngũ cán bộ Đảng viên
và trong toàn xã hội. Người căn dặn: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo.” Là người cách mạng thì phải biết kế thừa và phát huy những giá trị đạo
đức truyền thống của ông cha ta đã hun đúc mấy ngàn: từ lòng yêu nước đến
tinh thần đoàn kết, sáng tạo trong lao động… Đồng thời người đã chỉ rõ
những giá trị, hạn chế và con đường khắc phục các giá trị đạo đức cũ không
phù hợp.
Chẳng hạn, nếu ở Nho giáo, chữ “trung” gắn với quan hệ vua - tôi; chữ
"hiếu” gắn với quan hệ con cái - cha mẹ, thì ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng
được đổi thành "trung với nước, hiếu với toàn dân, với đồng bào". Theo
Người, việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống nhân loại nói chung, các
giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam nói riêng cần phải thực hiện theo
phương thức:"Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì
cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ Cái gì cũ mà không xấu, nhưng
phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển
thêm Cái gì mới mà hay thì ta phải làm"
Người quan niệm rằng, muốn xây dựng một xã hội mới và tốt đẹp, thì
cần phải tiêu diệt những thói hư, tật xấu của xã hội cũ còn sót lại. Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa. Con
người xã hội chủ nghĩa là con người có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Trong thời
kỳ đấu tranh giành chính quyền, để phát triển phong trào cách mạng, Hồ Chí

20
Minh quan tâm đến tư cách đạo đức, lối sống của người chiến sĩ cách mạng,
người cán bộ, đảng viên. Có thể nói đây là tầng lớp tiên phong trong xã hội mà
tư cách, đạo đức và lối sống của họ ảnh hưởng đến sự phát triển xã hội, cũng
như lối sống xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc xây dựng đời
sống có văn hoá, phương thức sinh hoạt văn hoá, cách thức thực hành đời sống
mới phải trên cơ sở kế thừa những tinh hoa truyền thống của dân tộc. Theo
Người, đạo đức là cái gốc của xã hội, của con người; đạo đức là nền tảng để
hình thành và xây dựng lối sống mới của con người mới trong xã hội mới.
Người cho rằng, đạo đức là những quy tắc, những chuẩn mực phù hợp với cuộc
sống, được con người và cộng đồng thừa nhận nhằm điều hoà quan hệ giữa
người với người trong quá trình phát triển xã hội. Và những chuẩn mực, những
khuôn mẫu đạo đức khi đã trở thành nếp, thành thói quen, tập quán, tập quán xã
hội thì đó chính là lối sống của một cộng đồng, một cá nhân.
Người xác định là phải tuyệt đối trung với nước, trung với Đảng, hiếu
với dân. Đó là chuẩn chính trị đạo đức cao nhất của mỗi người dân trước vận
mệnh của đất nước; là cơ sở xác định hệ thống chuẩn mực hành vi của mỗi
người phải thực hiện nhằm tỏ rõ lòng trung thành tuyệt đối, một lòng, một dạ
hy sinh, cống hiến vì sự trường tồn của dân tộc. Người căn dặn rằng: nhận rõ
phải trái, giữ vững lập trường, tận trung với nước, tận hiếu với dân.
Tiếp thu bản chất nhân văn trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã tách riêng để thể hiện mình cả trong nhận thức và
trong sinh hoạt ứng xử, trong các mối quan hệ xã hội phong phú, Người luôn
đặt mối quan hệ với tổ quốc, với Đảng, với nhân dân lên trên hết. Người chủ
trương xây dựng một kiểu đạo đức mới - đạo đức cách mạng lấy lợi ích của
nhân dân, của dân tộc và của cả nhân loại làm mục tiêu để phấn đấu, tu
dưỡng, rèn luyện. Trong tư tưởng đạo đức của Người mang đậm tính nhân
văn - tình yêu bao la đối với đồng bào mình, dân tộc mình và toàn thể nhân
21
loại cần lao. Người nói “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm

sao cho đất nước ta hoàn toàn độc lập, dân tộc ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [45, tr.161]. Người đã có
tình thương thực sự vì dân tộc và vì nhân loại, vì tình nghĩa và vì yêu cầu giải
phóng con người. Theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác tu dưỡng,
rèn luyện mình cả đức và tài, trong đó đức là gốc, thực sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thực sự là người lãnh đạo, người đầy tớ của dân. Từ chuẩn
mực đạo đức chung “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, người đã cụ thể
hoá thành nhiều phẩm chất, chuẩn mực hành vi đạo đức đáp ứng nhu cầu xã
hội, kịp thời biểu dương, khuyến khích việc làm tốt, kiên quyết đấu tranh với
những hành vi sai trái. Chỉ như vậy mới làm cho cái xấu càng ít đi, cái tốt
ngày càng nhiều hơn.
Với chuẩn mực hết lòng yêu thương con người, Người đã kế thừa và
phát triển đạo đức truyền thống nhân văn cao cả của dân tộc, cũng là tình cảm
mang tính phổ biến của nhân loại. Hồ Chí Minh là một mẫu mực về tình
thương yêu con người bao la. Người luôn quan tâm chăm lo tới mỗi bước tiến
bộ trưởng thành của mỗi người dân. Là hiện thân của tinh thần yêu tự do, ý
chí kiên cường và khả năng chịu đựng qua những thử thách khắc nghiệt; trải
qua hơn một thế kỷ đầy gian truân tìm đường và lãnh đạo nhân dân Việt Nam
thực hiện khát vọng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không
một phút nghỉ ngơi.
Người chính là sự kết tinh của những giá trị tinh thần đạo đức Việt, lối
sống Việt trong suốt mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, gắn liền
với những phẩm chất cao quý nhất của giai cấp công nhân trong thời đại ngày
nay. Những thành tố của đạo đức truyền thống dân tộc và phương đông cùng
đạo đức của người cộng sản theo nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin đã
làm nên bản lĩnh và năng lực của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Bởi nó
22
nhằm đến một mục tiêu hoàn chỉnh vì sự tiến bộ xã hội và vì hạnh phúc của
nhân dân. Hồ Chí Minh từng nói: Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống
nhất, là độc lập, là hoà bình, ấm no, do đó, cán bộ, Đảng viên của Đảng phải

tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc và thời đại. Như vậy
chính cách giáo dục, tuyên truyền và cùng với cuộc sống giản dị, khiêm
nhường, đạo cao, đức trọng của Người đã tạo thành một phong trào xây dựng
đời sống mới rộng khắp trong cả nước, tạo tiền đề vững chắc cho việc xây
dựng lối sống mới, xây dựng nền văn hoá mới những năm sau này.
1.2. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
1.2.1. Khái niệm đạo đức truyền thống
Đạo đức là một hình thái ý thức - xã hội bao gồm những nguyên tắc,
quy tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi
cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ xã hội trong quan
quan hệ người - người.
Như chúng ta đã biết, đạo đức không phải là sự biểu hiện của một sức
mạnh siêu nhiên nào đó cho rằng sự điều chỉnh hành vi, cách ứng xử của đạo
đức con người trong xã hội là do sự sắp đặt, an bài của thượng đế, trời, phật,
cũng không phải là biểu hiện của năng lực tiên thiên ở con người, hoặc đi tìm
nguồn gốc và bản chất đạo đức trong bản năng sinh vật, trong tâm lý cá nhân
một cách cực đoan… Quan điểm duy vật lịch sử về đạo đức đã khẳng định
rằng, với tư cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có nguồn gốc từ những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, từ cơ sở kinh tế - xã hội. Nghĩa là đạo
đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là sản phẩm của lịch sử xã hội,
do cơ sở kinh tế - xã hội nảy sinh và quyết định; rằng quan hệ đạo đức là biểu
hiện của quan hệ vật chất xã hội và biến đổi theo đời sống vật chất xã hội.
Trong quá trình phát triển của xã hội, trên cơ sở phát triển của sản xuất vật
chất mà đạo đức được hoàn thiện dần dần. Đạo đức phát triển từ thấp đến cao
23
cùng với sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội thông qua đấu tranh,
lọc bỏ, kế thừa để tiến bộ không ngừng. Tuy là sản phảm của kinh tế, đạo đức
cũng có tác động mạnh mẽ trở lại, có khả năng tạo ra những biến động to lớn
đối với đời sống kinh tế - xã hội.
Nhờ có đạo đức và thông qua đạo đức, những chuẩn mực xã hội mới

phát huy hết chức năng điều chỉnh hành vi, chế định hoạt động giao tiếp và
hành vi ứng xử của con người nhằm đảm bảo sự thống nhất cần thiết giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể và lợi ích cộng đồng.
Có thể nói, đạo đức là nội dung cốt yếu của tính cách con người, nó có
vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Không thể có sự tồn tại xã hội
nếu không có đạo đức. Chính vì vậy, các giai cấp, các tập đoàn xã hội bao giờ
cũng sử dụng đạo đức như là một công cụ, một động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Tuy nhiên, đạo đức luôn thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của tồn
tại xã hội, thay đổi từ thời đại này sang thời đại khác, từ dân tộc này đến dân
tộc khác. Nếu không thấy quy luật này, không nhìn giá trị đạo đức từ một
quan điểm biện chứng và lịch sử thì nhất định mắc vào những sai lầm của chủ
nghĩa bảo thủ; không nhận thức được sự biến đổi ấy của các giá trị đạo đức,
khư khư giữ những giá trị lỗi thời, thì nhất định sẽ lạc lõng trong xã hội mới.
Cũng như nhiều hình ý thức xã hội khác, đạo đức là một lĩnh vực của
đời sống xã hội có sự phát triển tương đối độc lập. Có những giá trị đạo đức
tuy được hình thành trong lịch sử, nhưng lại là một thành phần quan trọng
trầm tích trong hạt nhân văn hoá xã hội hiện thực và cũng có những thứ đạo
đức con người đích thực. Tức là thứ đạo đức thoát khỏi sự tha hoá con người,
đạt tới sự giải phóng tự do và phát triển toàn diện của con người, đó là thứ
đạo đức đáng để chúng ta vì nó mà theo đuổi, dâng hiến. Tuy nhiên, hiện nay
nền kinh tế thị trường với những nguyên tắc vận hành và phát triển riêng của
nó đã và đang ảnh hưởng sâu sắc cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực mọi mặt
24
đời sống xã hội, tới hệ thống các giá trị, các quy phạm đạo đức, tâm hồn, tình
cảm, lối sống và nhân cách con người trong mọi quốc gia, dân tộc. Phát triển
kinh tế thị trường không chỉ nảy sinh làm nảy sinh quá trình xâm nhập, bổ
sung lẫn nhau giữa các hệ thống giá trị, các chuẩn mực đạo đức, các quy tắc
ứng xử giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, mà còn làm xuất
hiện cả sự tác động, xung đột, bổ sung lẩn nhau giữa các giá trị đó.
Mỗi dân tộc trên thế giới đòi hỏi phải có cách thức riêng của mình để

vừa hội nhập, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá thế gới, qua đó làm phong
phú thêm văn hoá của dân tộc mình, đất nước mình, vừa lại không làm mất đi
bản sắc dân tộc và các giá trị văn hoá truyền thống. Do vậy, việc xác định,
định hướng giá trị nói chung, định hướng các giá trị đạo đức truyền thống nói
riêng là những vấn đề cấp bách cho mọi quốc gia, dân tộc.
Trong quá trình hội nhập phát triển kinh tế quốc tế, các giá trị đạo đức,
những tập quán và truyền thống của mỗi dân tộc, quốc gia luôn đóng một vai
trò to lớn. Thông qua tập quán và truyền thống dân tộc mà rất nhiều quan
niệm, quy tắc, giá trị đạo đức cũ được giữ lại, được kế thừa và phát huy trong
bối cảnh xã hội mới ngay cả khi những điều kiện xã hội đã sản sinh ra chúng
không còn nữa. Trong đó, truyền thống nói chung và đạo đức truyền thống
nói riêng là sự phức hợp những tư tưởng, tình cảm, phong tục tập quán, thói
quen, lối sống… của chính dân tộc được hình thành trong quá trình lịch sử lâu
dài, đã trở nên ổn định, mang đặt trưng riêng của dân tộc và được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống chính là sự nối tiếp hôm qua và
hôm nay, là sợi dây nối từ quá khứ đến hiện đại và tương lai. Truyền thống là
một bộ phận thiết yếu trong cuộc sống của chúng ta, nó bảo tồn cuộc sống của
chúng ta. Truyền thống của mỗi dân tộc không phải tự nhiên mà có, cũng
không phải do con người tự lựa chọn cho mình mà nó được hình thành, được
quy định bởi chính những điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội mà dân tộc đó trải
25
qua. Tuy nhiên do tồn tại xã hội luôn vận động và biến đổi nên những truyền
thống được hình thành trên cơ sở đó cũng không thể nhất thành bất biến,
nhưng truyền thống là cái mà trong quá trình vận động, biến đổi vẫn giữ lại
những yếu tố nhân lỗi bên trong của nó. Như vậy không có nghĩa là giá trị
truyền thống là cái bất biến vĩnh hằng. Thước đo của giá trị truyền thống
không nằm ở đâu khác ngoài thực tiễn, mà thực tiễn luôn luôn vận động và
biến đổi, bởi vậy có những truyền thống hôm qua còn giá trị nhưng hôm nay
không còn giá trị nữa hoặc có những tuyền thống bên cạnh mặt giá trị lại có
cả mặt phản giá trị. Bởi vì trong truyền thống không phải chỉ gồm toàn những

cái tốt, cái hay mà lẫn cái xấu, điều tiêu cực, lạc hậu.
Trong sự phát triển của lịch sử mỗi dân tộc cần phải giữ lại cho mình
những truyền thống tốt đẹp, những giá trị đã làm nên bản sắc văn hoá, làm
nên cốt cách tinh thần, bản lĩnh và nét đẹp nhân cách, trở thành động lực phát
triển của dân tộc, đồng thời cũng loại bỏ những truyền thống trở nên lạc hậu,
lỗi thời làm cản trở bước tiến của dân tộc. Đồng thời, mỗi dân tộc phải tự tạo
ra cho mình những truyền thống mới thực sự phù hợp và mang lại giá trị trong
hiện tại; phải không ngừng tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại
trong quá trình giao lưu văn hoá, hội nhập quốc tế để làm giàu thêm cho
truyền thống của dân tộc mình.
Nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn và tính bức
thiết của việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống nói chung và giá trị
đạo đức truyền thống nói riêng của dân tộc trong bối cảnh phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định:
“Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải
đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và
phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp

×