ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LƢƠNG THỊ THU THẢO
THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN TỪ GÓC NHÌN
TƢ DUY NGHỆ THUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LƢƠNG THỊ THU THẢO
THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN TỪ GÓC NHÌN
TƢ DUY NGHỆ THUẬT
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Viê ̣t Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Bá Thành
Hà Nội - 2016
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn này, bên cạnh sự cố gắng nỗ lực của bản thân,
tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Văn học trường Đại
học khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, các thầy cô
Viện văn học, đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Nguyễn Bá Thành –
giảng viên đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện đề tài luận văn
của mình.
Một lần nữa, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc tới những người đã giúp đỡ, động
viên tôi trong suốt thời gian qua. Tôi xin gửi lời kính chúc sức khỏe và hạnh
phúc tới thầy, cô, gia đình và bạn bè.
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Thơ Nguyễn Việt Chiến từ góc nhìn tư
duy nghệ thuật” là công trình do tôi nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS Nguyễn Bá Thành. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu xót. Vì vậy tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy
cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, 22 tháng 12 năm 2016
Học viên
Lƣơng Thị Thu Thảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 5
5. Đóng góp khoa học của đề tài .................................................................... 6
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 7
CHƢƠNG 1. KHÁI NIỆM VỀ TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ QUAN
NIỆM THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN........................................................... 8
1.1. Một số vấn đề về lý luận về tư duy nghệ thuật .......................................... 8
1.1.1. Tư duy nghệ thuật ................................................................................... 8
1.1.2. Tư duy thơ ............................................................................................... 9
1.2. Quan niệm thơ và quá trình sáng tác của Nguyễn Việt Chiến ................. 11
1.2.1. Vài nét về tiểu sử................................................................................... 11
1.2.2. Quá trình sáng tác.................................................................................. 12
1.2.3. Quan niệm thơ Nguyễn Việt Chiến....................................................... 15
CHƢƠNG 2. CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH
TRONG THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN ..................................................... 18
2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Việt Chiến ................................... 18
2.1.1 Cảm hứng về Tổ quốc, nhân dân ........................................................... 18
2.1.2 Cảm hứng về tình yêu lứa đôi ................................................................ 29
2.2. Nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Việt Chiến ...................................... 39
2.2.1. Khái niệm cái tôi, cái tôi trữ tình trong thơ .......................................... 39
2.2.2. Nội dung cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Việt Chiến ........................ 39
2.2.2.1. Cái tôi chiêm nghiệm - triết lý, suy tư về cuộc đời............................ 40
2.2.2.2. Cái tôi đằm thắm, nồng nàn trong tình yêu ........................................ 43
2.2.2.3. Cái tôi luôn thường trực với tình yêu quê hương, đất nước............... 46
2.2.3. Những nhân vật trữ tình khác trong thơ Nguyễn Việt Chiến................ 49
2.2.3.1. Người mẹ ............................................................................................ 49
2.2.3.2. Nhân vật em ....................................................................................... 50
2.2.3.3. Người chiến sĩ .................................................................................... 51
CHƢƠNG 3. THỂ LOẠI, NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG TRONG
THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN..................................................................... 55
3.1. Thể thơ ..................................................................................................... 55
3.1.1. Thể thơ tự do ......................................................................................... 55
3.1.2. Thể thơ lục bát: ..................................................................................... 58
3.1.3. Thể thơ 8 chữ: ....................................................................................... 62
3.1.4. Thể thơ 5 chữ ........................................................................................ 63
3.2. Cấu tứ thơ ................................................................................................. 65
3.2.1. Khái niệm về cấu tứ trong thơ............................................................... 65
3.2.2. Những cấu tứ đặc sắc trong thơ Nguyễn Việt Chiến ............................ 66
3.3. Ngôn ngữ .................................................................................................. 71
3.3.1. Ngôn ngữ trong tư duy thơ .................................................................... 71
3.3.2. Đặc trưng ngôn ngữ thơ Nguyễn Việt Chiến ........................................ 71
3.4. Biểu tượng ................................................................................................ 78
3.4.1. Khái niệm biểu tượng ............................................................................ 78
3.4.2. Phân biệt hình tượng với biểu tượng..................................................... 78
3.4.3. Những biểu tượng đặc sắc trong thơ Nguyễn Việt Chiến..................... 80
3.4.3.1. Con tàu ............................................................................................... 80
3.4.3.2. Trăng .................................................................................................. 81
3.4.3.3. Hoa hồng ............................................................................................ 87
3.4.3.4. Hoa sen ............................................................................................... 89
3.4.3.5 . Cỏ ...................................................................................................... 92
3.4.3.6. Cát ...................................................................................................... 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 100
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đặc trưng của tư duy là phản ánh các mối quan hệ của con người đối với thế
giới khách quan, quan hệ giữa con người với con người và quan hệ giữa các sự vật,
hiện tượng, truy tìm các mối quan hệ, biểu diễn các mối quan hệ đó bằng các
phương tiện ngôn ngữ. Nghiên cứu thơ ca từ góc độ tư duy nghệ thuật là một yêu
cầu toàn diện và khá phức tạp đối với các hiện tượng thi ca. Nghiên cứu thơ từ góc
độ tư duy tạo những khả năng tiếp cận mới, khám phá phong cách nghệ thuật của
nhà thơ từ nhiều góc độ khác nhau.
Tư duy nghệ thuật là tư duy hình tượng, hay nói cách khác tư duy nghệ thuật
nhằm phản ánh hiện thực có tính thẩm mỹ. Để làm rõ hơn về vấn đề này, tác giả
Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tư duy thơ hiện đại Việt Nam nhấn mạnh: “Tư duy
nghệ thuật là sự khôi phục và sáng tạo các biểu tượng trực quan, là sự hình tượng
hóa hiện thực khách quan theo nhận thức chủ quan” [35,tr. 62]. Điều này đã làm
sáng rõ hơn về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa cái phản ánh và cái được
phản ánh trong lĩnh vực thơ ca, nghệ thuật.
Tư duy thơ là một phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật, là một vấn
đề lý luận mới mẻ và đầy sức hấp dẫn. Nó có khả năng mở ra những cánh cửa để đi
vào thế giới nghệ thuật phong phú và bí ẩn.
Tư duy thơ không chỉ có yếu tố cá nhân mà còn bao hàm cả yếu tố dân tộc,
nhân loại và thời đại. Nó nằm trên bình diện nội dung và hình thức, nằm trong mối
tương tác giữa chủ thể và khách thể. Cho nên tiếp nhận thơ ca dưới góc nhìn tư duy
là một hướng tiếp cận có chiều sâu, mang tính hệ thống và toàn diện.
Nguyễn Việt Chiến (1952), là nhà thơ xuất hiện không sớm trong văn đàn,
bởi ông xuất thân là một nhà báo. Tuy nhiên, thơ mới là cách để ông hoàn thiện
chính mình. Bốn mươi tuổi, ông mới cho ra mắt tập thơ đầu tiên (Mưa lúc không
giờ) và hơn chục năm sau, qua những Ngọn sóng thời gian; Cỏ trên đất; Những con
ngựa đêm và đặc biệt là Tổ quốc nhìn từ biển, Nguyễn Viễn Chiến đã chính thức để
1
lại những dấu ấn khó phai trong lòng độc giả về hành trình sáng tạo, đổi mới và
cách tân cho thơ ca.
Nguyễn Việt Chiến đã có những đóng góp lớn vào dòng chảy thơ Việt Nam
đương đại.Với 5 tập thơ đã xuất bản, ông đã tạo được dấu ấn riêng trong lòng độc
giả.
Mặc dù bắt đầu sự nghiệp sáng tác không sớm, nhưng đến nay ông đã gặt hái
được những thành công nhất định như: Giải nhì Cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, Hội
Nhà Văn Việt Nam (1989-1990); Giải nhì cuộc thi Thơ hay về biển của Vũng Tàu
(1992); Giải nhì cuộc thi Thơ Tạp chí Văn nghệ 1998 – 1999; Giải thưởng của Hội
Nhà văn Hà Nội (2004) và Hội Nhà văn Việt Nam (2004) cho tập thơ Những con
ngựa đêm.
Tiếp nối những bài viết nghiên cứu về thơ Nguyễn Việt Chiến, luận văn sẽ đi
từ góc độ tư duy nghệ thuật nhằm phát hiện ra những tìm tòi, đổi mới trong sáng tạo
nghệ thuật của Nguyễn Việt Chiến, khẳng định phong cách thơ Nguyễn Việt Chiến.
Chúng tôi hy vọng luận văn sẽ đưa đến cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về
thơ Nguyễn Việt Chiến cũng như góp phần khẳng định vị trí và những đóng góp của
ông cho nền thơ ca nước nhà.
2. Lịch sử vấn đề
Qua việc tìm hiểu những bài nghiên cứu của các tác giả về thơ của Nguyễn
Việt Chiến, chúng tôi nhận thấy hầu hết các bài viết đều tập trung khẳng định nội
dung đặc sắc trong các tác phẩm thơ của Nguyễn Việt Chiến và đặc biệt là ý thức
cách tân rõ nét của nhà thơ qua từng thời kỳ, từng tác phẩm.
Theo thống kê của chúng tôi, tính đến thời điểm năm 2016, đã có khoảng
hơn 40 bài viết trên các tạp chí, báo và mạng internet về thơ của Nguyễn Việt
Chiến. Có thể kể đến một số bài tiêu biểu như: Khách mời quán văn - Nhà thơ
Nguyễn Việt Chiến của Đoàn Văn Mật; Nguyễn Việt Chiến và Tổ quốc nhìn từ biển;
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến háo hức lên con tàu tìm bến đỗ mới cho thi ca của Đỗ
Ngọc Yên…
2
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về sáng tác của ông, chưa thật xứng
đáng. Hầu hết đó là những bài viết ngắn, những cảm nhận, những nhận xét mang
tính khái quát, đăng rải rác ở một số tờ báo.Sau đây, chúng tôi sẽ điểm qua một số ý
kiến tiêu biểu.
Phùng Hiệu – Nguyên Pháp trong bài Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Việt Chiến
kể về những dự cảm trong đời đã viết: “Có thể nói, anh đã vượt lên nỗi đau đời
thường của chính mình, bỏ qua những hiềm nghi tầm thường tự sự để nghĩ về Tổ
quốc, để xúc động theo cách một nhà thơ đang cảm nhận sự tự do qua mỗi ngày
đang sống và nhìn nhận những nguy cơ, những hiểm họa đang đến gần trên vùng
biển đảo của Tổ quốc thân yêu. Và chính từ những cảm xúc lớn lao, trách nhiệm ấy,
anh đã viết Tổ quốc nhìn từ biển như viết từ chính bằng máu và nước mắt của mình
– như lời Nguyễn Việt Chiến tâm sự. Và không gì vui sướng, thỏa chí hơn khi bài
thơ nhận được sự tri âm, đồng điệu từ triệu triệu người yêu nước đúng vào thời
điểm “đất nước gian lao”. Ngay sau đó, anh cho ra đời luôn tập trường ca Tổ quốc
nhìn từ biển gồm hơn 1.000 câu thơ và mười chương, trong đó có 4 chương viết về
biển đảo và 6 chương viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh biên giới
phía Bắc. Tác phẩm này đã được trao giải thưởng Văn học 5 năm của Bộ Quốc
phòng giành cho những tác phẩm xuất sắc nhất viết về đề tài chiến tranh, cách mạng
và bảo vệ Tổ quốc. Thế mới gọi là tài chứ – chữ của một nhà văn”[46].
Đỗ Ngọc Yên trong bài Nguyễn Việt Chiến và Tổ quốc nhìn từ biển cho rằng:
“Với 50 bài thơ gói gọn trong gần 200 trang của Tổ quốc nhìn từ biển có khá nhiều
bài trực tiếp đề cập đến chủ đề biển đảo và Tổ quốc như: Tổ quốc nhìn từ biển, Tổ
quốc là tiếng mẹ, Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra, Mẹ - Tổ quốc, Tổ quốc nơi
biên thùy, Tổ quốc bên bờ biển cả, Đất nước, Ta như cỏ trên ngược trần Tổ quốc,
Chuông chùa vọng tiếng trống đồng Trường Sa, Gió Hoàng Sa,... Như vậy có thể
coi Nguyễn Việt Chiến là nhà thơ của những đề tài lớn mang tính chất thế sự. Có
người cho rằng sở dĩ Nguyễn Việt Chiến khá thành công ở mảng đề tài này vì nó
gắn liền với công việc làm báo của anh, vốn rất cần một sự tinh nhạy đối với những
3
biến động xã hội và lịch sử. Và hầu hết các giải thưởng thơ của anh cũng đều thuộc
về đề tài này” [49].
Trong bài báo về Buổi ra mắt thơ ấm áp của Nguyễn Việt Chiến, nhà thơ
Nguyễn Trọng Tạo chia sẻ: “Tôi cảm giác Nguyễn Việt Chiến 'lên đồng' với chủ đề
về Tổ quốc, tình yêu đất nước. Mỗi bài một cảm xúc, cái thì tinh tế, cái thì hào
hùng... Hình như sự 'lên đồng' của anh cũng quá mạnh mẽ, vì thế anh in thêm tập
Hoa hồng không vỡ đầy tính dịu dàng... Hai tập như một cặp phạm trù nhưng không
đối lập nhau. Hoa hồng không vỡ cho thấy Nguyễn Việt Chiến là cây thơ tình nồng
nàn, đắm đuối bên cạnh tác giả của thể loại chính sự. Nguyễn Việt Chiến đã truyền
tải tinh thần đó thành tứ thơ lãng mạn, day dứt qua: Cát đợi, Mùa thu không trở lại,
Hoa hồng không vỡ, Có một người bị ướt thức trong ta, Để nhớ về em...” [48].
Đỗ Ngọc Yên trong bài Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến: Háo hức lên con tàu tìm
bến đỗ mới cho thi ca thì nhận định: “Nguyễn Việt Chiến coi diễn trình đổi mới thi
ca Việt như những chuyến tầu lao mãi về phía trước không ngừng nghỉ. Chuyến du
hành ấy chẳng bao giờ là sớm và cũng chẳng bao giờ là muộn. Chỉ có điều, không
thể không ra đi để tìm bến đỗ mới cho thơ… Khách quan mà nói, thơ Nguyễn Việt
Chiến là sự pha trộn của cả ba khuynh hướng thơ đương đại: khuynh hướng truyền
thống, khuynh hướng cách tân trên cơ sở truyền thống, và khuynh hướng cách tân
hoàn toàn ảnh hưởng thơ của các trường phái Hiện đại, Hậu hiện đại, Tân hình thức,
Tân cổ điển… từ các nước phương Âu- Mỹ” [50].
Tuy nhiên các bài viết chỉ mới khai thác về một vấn đề nhỏ hoặc về một tập
thơ lẻ của tác giả chứ chưa có một bài viết nào tìm hiểu tác phẩm của Nguyễn Việt
Chiến một cách có hệ thống và toàn diện.
Vì thế, việc nghiên cứu thơ Nguyễn Việt Chiến dưới góc nhìn tư duy nghệ
thuật sẽ đi vào tìm hiểu sâu hơn về thế giới nghệ thuật của nhà thơ, làm rõ cái tôi trữ
tình của nhà thơ và khẳng định những đóng góp của Nguyễn Việt Chiến trên các
phương diện biểu tượng, ngôn ngữ, giọng điệu trong sáng tạo thơ ca.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Việt Chiến nhằm tìm hiểu về tư
duy thơ của tác giả. Chỉ ra những đặc trưng trong tư duy nghệ thuật thơ Nguyễn
Việt Chiến thông qua nội dung và các phương thức biểu hiện như: những biểu
tượng đặc sắc, ngôn ngữ, cấu tứ, thể loại…
Đối tượng nghiên cứu là toàn bộ thơ Nguyễn Việt Chiến và những tác phẩm
phê bình về thơ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những tập thơ tiêu biểu của ông như:
+ Mưa lúc không giờ (thơ, NXB Hội nhà văn, 1992)
+ Ngọn sóng thời gian (thơ, NXB Thanh niên, 1998)
+ Những con ngựa đêm (thơ, NXB Hội nhà văn, 2004)
+ Trăng và thơ đọc chậm (thơ, NXB Hội nhà văn, 2012)
+ Tổ quốc nhìn từ biển (thơ, NXB Phụ nữ, 2015)
+ Hoa hồng không vỡ (thơ, NXB Phụ nữ, 2015)
Ngoài ra chúng tôi còn liên hệ với thơ của các tác giả khác để có cái nhìn đối
sánh và lý giải.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi vận dụng một cách tổng hợp những
kiến thức về lí luận văn học, văn học sử và một số phương pháp chủyếu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu loại hình: Chúng tôi dùng phương pháp này để đi
sâu vào đặc trưng, thể loại trong thơ Nguyễn Việt Chiến.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Vận dụng phương pháp này để tìm hiểu
những đặc trưng về thơ Nguyễn Việt Chiến trong bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi dùng phương pháp này để thiết
lập hệ thống luận điểm. Từ sự phân tích cụ thể tác phẩm, người viết tổng hợp khái
quát để có những kết hợp, nhận định, tránh lối áp đặt chủ quan không cần thiết.
5
- Phương pháp thống kê, phân loại: Thống kê các thể loại thơ trong sáng tác
của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến.
- Phương pháp so sánh đồng đại, lịch đại: Chúng tôi so sánh sự vận động tư
duy thơ qua các tập thơ của Nguyễn Việt Chiến, mặt khác, so sánh tư duy thơ
Nguyễn Việt Chiến với một số tác giả cùng thời hoặc cùng viết về một đề tài để tìm
ra những đặc trưng riêng của thơ ông.
- Đồng thời, luận văn vận dụng những thành tựu khoa học của các ngành: Lí
luận văn học, lí thuyết tiếp nhận, thi pháp học, phương pháp luận nghiên cứu văn
học… trong quá trình nghiên cứu và triển khai.
5. Đóng góp khoa học của đề tài
Luận văn sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống và khá toàn diện tư duy thơ
của Nguyễn Việt Chiến. Tìm hiểu thơ Nguyễn Việt Chiến dưới góc độ tư duy nghệ
thuật nhằm khám phá những nét mới trong thế giới nghệ thuật nói chung và thế giới
thơ Nguyễn Việt Chiến nói riêng.
Nghiên cứu tư duy thơ qua sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình, qua
hệ thống biểu tượng, cấu tứ, ngôn ngữ và giọng điệu, nhằm tìm ra những nét khác
biệt trong cách cảm, cách nghĩ, những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật của thơ Nguyễn
Việt Chiến.
Trong bối cảnh công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật đã có những thành tựu
đáng kể và đang tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong nước, luận văn góp thêm cái nhìn
toàn diện, khoa học và khách quan về toàn bộ sáng tác thơ Nguyễn Việt Chiến trong
nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Qua đó khẳng định được hướng tiếp cận nghiên cứu
từ góc độ tư duy nghệ thuật đối với các hiện tượng văn học thực sự có nhiều ưu thế
cần được tiếp tục và phát triển.
Bên cạnh đó, luận văn còn đòng góp thêm một tiếng nói trong việc khẳng
định vị trí của thơ Nguyễn Việt Chiến trong nền thơ hiện đại nói riêng và nền thơ
Việt Nam nói chung.
Đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu thơ Nguyễn Việt Chiến từ góc nhìn
tư duy nghệ thuật.
6
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tư duy nghệ thuật và quan niệm thơ
Nguyễn Việt Chiến
Chương 2: Cảm hứng chủ đạo và nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Việt
Chiến
Chương 3: Ngôn ngữ và biểu tượng trong thơ Nguyễn Việt Chiến
7
CHƢƠNG 1. KHÁI NIỆM VỀ TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ QUAN NIỆM
THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN
1.1. Một số vấn đề về lý luận về tư duy nghệ thuật
1.1.1. Tư duy nghệ thuật
Tư duy là một thuật ngữ có tính chất mở, với một nội hàm khá rộng. Nói đến
tư duy là liên quan đến lĩnh vực triết học, tâm lý học… trong đó có lĩnh vực nghệ
thuật.
Trong Từ điển triết học của M.Rodentan, P.Iudin có định nghĩa về tư duy
như sau: “Tư duy là một hoạt động nhận thức lý tính của con người. Khí quan của
tư duy chính là bộ óc người với một hệ thống tinh vi gần 16 tỷ tế bào thần kinh”
[42, tr.676].
Đặc trưng tư duy là phản ánh các mối quan hệ của con người đối với thế giới
khách quan, quan hệ con người với con người và quan hệ giữa các sự vật hiện
tượng; Truy tìm các mối quan hệ, biểu diễn các mối quan hệ đó bằng phương tiện
ngôn ngữ. Đó là toàn bộ của chức năng nhận thức của tư duy.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, là cái vỏ vật chất của tư tưởng. Tư duy làm
cho ngôn ngữ phát triển tinh xảo, ngôn ngữ tạo điều kiện cho tư duy đi sâu vào bản
chất sự vật.
Tư duy nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người trong lĩnh vực nghệ
thuật và có nhiều quan niệm khác nhau. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích khái
quát những vấn đề về tư duy nghệ thuật, tác giả Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tư
duy thơ hiện đại Việt Nam đã bàn nhiều về vấn đề tư duy nghệ thuật nói chung, tư
duy thơ nói riêng và đi đến kết luận: “Tư duy nghệ thuật là sự khôi phục và sáng tạo
các biểu tượng trực quan, là sự hình tượng hoá hiện thức khách quan theo nhận thức
chủ quan. Tư duy nghệ thuật chịu sự chi phối mạnh mẽ của thế giới quan và nhân
sinh quan của người sáng tạo” [35, tr.39].
Khác với tư duy khoa học, ở tư duy nghệ thuật “Tư tưởng tình cảm không
chỉ là năng lượng của tư duy mà còn là đối tượng nhận thức của tư duy”.
8
1.1.2. Tư duy thơ
Thơ ca là một loại hình nghệ thuật nằm trong phương thức biểu hiện trữ tình.
Nó được nuôi dưỡng trong cảm xúc của con người với nhân sinh quan, gắn với
những cảm xúc ở sâu trong tâm hồn con người, với phương thức biểu đạt thông qua
ngôn ngữ để giãi bày những cảm xúc đó, trở thành một tác phẩm nghệ thuật.
Tư duy thơ là một phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật. Tư duy thơ
là phương thức nhận thức và biểu lộ tình cảm của con người bằng hình tượng ngôn
ngữ. “Đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự thể hiện của cái tôi trữ tình, cái
tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy. Cái tôi trữ tình trong thơ được biểu hiện dưới hai
dạng thức chủ yếu là cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi trữ tình gián tiếp. Thơ trữ
tình coi trọng biểu hiện cái chủ thể đến mức như là nhân vật số một trong mọi bài
thơ... Do sự chi phối của quan niệm thơ và phương pháp tư duy của từng thời đại
mà vị trí của cái tôi trữ tình có những thay đổi nhất định… Tư duy thơ phản ánh
những tình cảm cộng đồng và tư duy thời đại” [35, tr. 44].
So với tư duy logic thì tư duy hình tượng có được một phạm vi rộng rãi hơn
cho sự liên tưởng và quyền tưởng tượng của người sáng tạo. Tư duy thơ chấp nhận
một khả năng tưởng tượng dường như vô tận của nhà thơ. Trí tưởng tượng là biểu
hiện trực tiếp của năng lượng tư duy hình tượng.
Sóng Hồng cũng đã thừa nhận: “Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí
tưởng tượng”. Trí tưởng tượng của nhà khoa học khác với nhà thơ ở chỗ, nhà khoa
học thì mã hóa các tài liệu cảm tính, quy chúng về các đại lượng, các ký hiệu và
con số, quan sát và biểu diễn sự vận động của hiện thực thành sự vận động của khái
niệm, của kí hiệu. Khả năng tưởng tượng của tư duy khoa học là ở chỗ trừu tượng
hóa, vô hình hóa các sự vật và hiện tượng. Còn nhà thơ thì cụ thể hóa, hình tượng
hóa hiện thực khách quan theo một đường dây liên tưởng. Tư duy thơ là sự kết hợp
giữa hướng nội và hướng ngoại. Hướng ngoại là nhằm vào đối tượng miêu tả, trình
bày nó dưới ánh sáng của một quan niệm thẩm mỹ. Hướng nội là tác giả tự nghĩ về
mình, tự quan sát và biểu hiện cái tôi nội cảm của mình. Tìm hiểu tư duy thơ là tìm
9
hiểu sự vận động của hình tượng thơ. Ngôn ngữ đối với nhà thơ vừa có ý nghĩa
phương tiện vừa có ý nghĩa mục đích, nó là một thứ “công cụ” trực tiếp của tư duy.
Khả năng tự do của tư duy thơ phụ thuộc vào yếu tố ngôn ngữ, phụ thuộc vào cấu
trúc thể loại…
Sự vận động của hình tượng thơ không phải là tùy tiện và vô hướng, tuy rằng
tính chất ngẫu nhiên và tự do của trí tưởng tượng thơ ca là rất cao. Khả năng tự do
của tư duy thơ còn phụ thuộc vào yếu tố ngôn ngữ, phụ thuộc vào cấu trúc thể loại.
“Khả năng tự do của tư duy thơ thể hiện trong khả năng co dãn của dòng thơ,
khả năng kéo dài của lời thơ, ý thơ, câu thơ. Những cấu trúc thể loại truyền thống
giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong hành trình vận động của hình tượng thơ.
Thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, thơ lục bát…là những thể thơ ổn định, lâu đời đã làm đa
dạng hóa nhưng đồng thời cũng đơn điệu hóa các kiểu tư duy thơ” [35, tr. 8]. Tư
duy thơ thường được biểu hiện thành từng dòng phát ngôn trên văn bản và từng
quãng ngắt hơi trong khi đọc.
Như vậy, sự tồn tại của dòng thơ đã làm ảnh hưởng đến tư duy thơ, tính nhạc
điệu của ngôn ngữ cũng chi phối đến tư duy thơ. Muốn tìm hiểu thơ và tư duy thơ
của các thời đại, các dân tộc hay các tác giả khác nhau, chúng ta cần tìm hiểu những
đặc trưng tư duy của từng chủ thể ở mỗi dân tộc và thời đại. Mặt khác, chúng ta
cùng tìm hiểu thơ ở mỗi người, mỗi thời kỳ lịch sử. Quan niệm thơ sẽ chi phối tư
duy thơ. Nếu coi thơ là một thứ vũ khí thì tư duy thơ phải mạnh mẽ, ngôn ngữ thơ
phải sắc nhọn. Nếu coi thơ là món ăn tinh thần, thơ phải ngọt ngào, phải nhuần nhị.
Vậy thì quan niệm nghệ thuật có một thứ vai trò quan trọng trong việc xác định bản
chất của thơ và tư duy thơ.
Tư duy thơ phản ánh những tình cảm cộng đồng và tư duy thời đại. Về mặt
nội dung nhận thức, có thể coi tư duy thơ là biểu hiện cụ thể và sinh động của
những tư tưởng triết học, chính trị, đạo đức dưới dạng phổ biến nhất của một cộng
đồng người. Tư duy thơ là sự khôi phục và sáng tạo ra các biểu tượng trực quan, vai
trò của nhận thức cảm tính là vô cũng quan trọng, nhưng không phải quyết định.
Những quan niệm về thơ, về nhân sinh, về thời đại sẽ làm cho nhà thơ chú ý nhiều
10
hơn đến loại biểu tượng này hay biểu tượng khác. Một quan niệm mới về nhân sinh,
về thế sự, về nghệ thuật ra đời sẽ làm thay đổi hướng tư duy thơ. Những tình cảm
mạnh mẽ và sâu sắc, nhu cầu bộc lộ những tư tưởng mới, ý thức về sự vận động và
phát triển của thời đại, của dân tộc, quốc gia…tất cả đều chi phối đến tư duy thơ.
Như vậy có thể thấy, tư duy nghệ thuật nói chung và tư duy thơ nói riêng gần
với đời sống hiện thực hơn so với tư duy khoa học vì tính chất trực quan của các
biểu tượng. Công việc nghiên cứu tư duy nghệ thuật nói chung và tư duy thơ nói
riêng là một quá trình khám phá, tìm hiểu hoạt động sáng tạo, bước đầu nghiên cứu
thế giới nghệ thuật trong một tác phẩm thơ ca của một nhà thơ tiêu biểu.
1.2. Quan niệm thơ và quá trình sáng tác của Nguyễn Việt Chiến
1.2.1. Vài nét về tiểu sử
Nguyễn Việt Chiến sinh 8/10/1952, quê quán Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà
Nội, thường trú tại quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, uỷ
viên Ban chấp hành Hội nhà văn Hà Nội (2011-2015), uỷ viên Ban chấp hành Hội
Liên hiệp VHNT Hà Nội (2011-2015). Có thơ in báo trung ương từ năm học lớp 9 lớp chuyên văn đầu tiên của Hà Nội ở Trường Chu Văn An năm 1969.
Thời chiến tranh, Nguyễn Việt Chiến đi bộ đội, sau đó xuất ngũ, học đại học
rồi công tác trong ngành bản đồ. Cùng với đó, ông theo học khóa bồi dưỡng viết
văn trẻ, học khóa nghiệp vụ báo chí nâng cao sau đại học. Năm 1991, Nguyễn Việt
Chiến công tác ở báo Văn Nghệ, năm 1993, ôngvề công tác tại Báo Thanh Niên
(Hội Liên hiệp Thanh niên VN) cho đến nay.
Trong suốt quá trình sáng tác, Nguyễn Việt Chiến đã có rất nhiều đóng góp
cho nền văn học nước nhà, tên tuổi và những sáng tác của ông không chỉ thu hút
được độc giả yêu văn thơ trên khắp mọi miền tổ quốc, thậm chí có những bạn văn,
bạn thơ, thích thơ ông và thuộc nhiều thơ ông.
Mặc dù vậy, nhưng tên tuổi Nguyễn Việt Chiến chỉ thực sự được đông đảo
bạn đọc biết đến nhờ những sáng tác về biển đảo, gắn với sự kiện mang tính thời sự
của đất nước. Trong những ngày hàng triệu trái tim Việt Nam đang sục sôi hướng ra
11
biển Đông, ông đã liên tiếp cho ra đời những sáng tác nóng hổi, mang tính thời sự
làm hàng triệu trái tim Việt Nam ngân rung, được nhiều bạn trẻ tìm nghe trên mạng.
Những vần thơ trong bài Thời đất nước gian lao; Tổ quốc nhìn từ biển vang lên, nó
như lời hiệu triệu, thúc giục hàng trăm nghìn trái tim yêu nước cùng hòa nhịp.
Chính đề tài bắt kịp xu hướng chung của thời đại, mang tính thời sự nóng bỏng này
đã khiến cho tên tuổi nhà thơ đến gần hơn với độc giả và khiến những lời thơ ấy còn
sống mãi với thời gian.
Các giải thưởng văn học của Nguyễn Việt Chiến: Giải nhì cuộc thi thơ Báo
Văn Nghệ năm 1989-1990, Giải nhì cuộc thi thơ hay về biển năm 1992, Giải nhì
cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1998-1999, Tặng thưởng thơ hay Tạp
chí VNQĐ năm 2000, Giải thưởng thơ Hội Nhà văn Hà Nội năm 2004 cho tập thơ
Những con ngựa đêm, Tặng thưởng thơ Hội Nhà văn VN năm 2004 cho tập thơ
Những con ngựa đêm, Giải nhì cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 20082009, Giải ba cuộc thi thơ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội năm 2010, Giải nhì cuộc
thi thơ Đây biển Việt Nam năm 2012 của báo Vietnamnet và báo Văn nghệ, Giải
thưởng văn học 5 năm 2010-2014 cho trường ca về biển của Bộ Quốc phòng.
1.2.2. Quá trình sáng tác
Cho đến nay, đã hơn 40 năm sau chiến tranh và gần 30 năm đổi mới, cùng
với bước ngoặt đổi mới quan trọng của nền văn học Việt Nam đương đại, cả một
thời kỳ mới đáng ghi nhận của thơ ca đất nước đã mở ra với sự xuất hiện của hàng
loạt tác giả, tác phẩm mới mang dấu ấn của một giai đoạn văn học sau chiến tranh.
Điều đáng mừng, cả thế hệ các nhà thơ đã trưởng thành và khẳng định tên tuổi trong
chiến tranh cũng hăm hở và nhiệt thành bước vào giai đoạn cách tân - đổi mới tự
thân thơ của mình trong giai đoạn này.
Nhìn lại chặng đường gần 30 năm qua (1986-2016), có thể thấy thơ ca đương
đại vừa có sự tiếp nối gánh nặng văn chương từ thế hệ các nhà thơ đã hành trình
trong suốt 30 năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975), vừa có sự bứt
phá ngoại mục để đưa thơ ca sải bước những bước dài trên con đường hiện đại hóa.
Và hành trình thơ ấy có sự góp mặt của nhiều thế hệ.
12
Ấn tượng đầu tiên là các nhà thơ thành danh trong chiến tranh, vẫn tiếp tục
viết và tiếp tục được khắng định: Lưu Quang Vũ (mất 1988); Hoàng Hưng; Phùng
Khắc Bắc; Ý Nhi; Thanh Thảo; Nguyễn Trọng Tạo… Đây là lớp người trưởng
thành từ những năm chiến tranh nhưng vẫn giàu nội lực sáng tạo, tìm tòi, đổi mới
chính thơ mình trong giai đoạn Hậu chiến. Không chỉ cách tân về hình thức nghệ
thuật, lớp nhà thơ kháng chiến đã đổi mới cách phản ánh bản chất đời sống của thơ
bằng chính những cảm nhận về cuộc đời trầm luôn khó nhọc với những suy tưởng
đớn đau và nhân bản về một thế giới đang phải tự hàn gắn những đổ vỡ sau đêm dài
chiến tranh và bạo lực. Một Hoàng Hưng với những thể nghiệm thơ gây khá nhiều
tranh cãi. Một Thanh Thảo luôn trăn trở với những tìm tòi, thể nghiệm trên con
đường tìm nguồn – nước- thi- ca…
Song hành với những nhà thơ nói trên là thế hệ của các nhà thơ mới, họ là
những gương mặt của thời kỳ hậu chiến tiếp nối đến hôm nay. Họ đã làm nên dòng
chảy đầy sức sáng tạo và đa dạng của nền thơ ca đương đại. Trước hết phải kể đến
nhóm tác giả thành danh sau năm 1986. Ấy là “một Nguyễn Lương Ngọc bừng cháy
và ngạo nghễ trong tìm tòi; một Nguyễn Quang Thiều đã tạo từ - trường – thơ mới;
một Dư Thị Hoàn độc đáo trong sáng tạo thơ; một Mai Văn Phấn đang hành trình
đến bến bờ của sự cách tân; một cõi thơ lạ đến say đắm của Nguyễn Bình Phương;
một Phan Thị Vàng Anh đang cố gắng vượt lên bằng một bản lĩnh thơ mới...”
[6, tr34]. Điểm nổi bật trong sáng tác của họ là sự trẻ trung, tươi mới và giàu chất trí
tuệ. Những cây bút đương đại được nhắc tới nhiều có thể kể đến một số tên tuổi
như: Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly… Điểm chung nhất ở họ là sự
khát khao thể hiện tiếng nói thế hệ mình như một giá trị. Và giá trị ấy được đảm bảo
bằng cái mới, cái hiện đại trong quan niệm về thơ, trong bút pháp, hình thức thể
hiện… Dù những tìm tòi, cách tân chưa dễ được đồng thuận trong đánh giá và tiếp
nhận của người đọc nhưng vẫn có thể cảm nhận được nguồn sinh lực trong thế hệ
nhà thơ đương đại hôm nay.
Trong số những thế hệ nhà thơ, những gương mặt vừa kể trên, có thể nói
Nguyễn Việt Chiến là một trong những gương mặt thơ khá nổi bật trong nền thơ
13
Việt Nam Đương đại. Nguyễn Việt Chiến đã gây ấn tượng mạnh trong thơ Việt đặc
biệt là mảng đề tài thế sự, biển đảo.
Cũng như thế hệ mình, Nguyễn Việt Chiến sớm rời ghế nhà trường để bước
vào chiến trường. Những trải nghiệm ngắn ngủi nhưng khốc liệt của cuộc chiến đã
hằn sâu vào kí ức người cầm bút, tạo tiền đề, cơ sở cho những sáng tác của ông sau
này.
- Bốn mươi tuổi, ông xuất bản tập thơ đầu tiên, Mưa lúc không giờ (1992).
Gần chục năm sau, ông cho ra đời tiếp tác phẩmNgọn sóng thời gian (1998) và Cỏ
trên đất (2000), 3 năm sau, Nguyễn Viễn Chiến đã chính thức ra mắt tập thơNhững
con ngựa đêm(thơ, NXB Hội nhà văn, 2004); Trăng và thơ đọc chậm (thơ, NXB
Hội nhà văn, 2012); Tổ quốc nhìn từ biển (thơ, NXB Phụ nữ, 2015); Hoa hồng
không vỡ (thơ, NXB Phụ nữ, 2015).
- Cũng chính sự nhạy cảm cách tân trong sáng của tập thơ trên mà liền đó,
Nguyễn Việt Chiến, với tư cách là người tuyển chọn và thẩm bình, đã làm nên tập
tiểu luận Thơ Việt tìm tòi và cách tân 1975 – 2005.
- Đặc biệt hơn, điều đã làm nên tên tuổi Nguyễn Việt Chiến trong bước
đường thơ ca ấy chính là những tác phẩm viết về đề tài tổ quốc như Thời đất nước
gian lao - tháng 6/2008; Tổ quốc nhìn từ biển - tháng 4/2009.
Những bài thơ này đã làm lay động hàng triệu độc giả với những câu hỏi đau
đáu lo lắng, đồng hành với vận mệnh đất nước. Chính bản thân nhà thơ cũng từng
nhận định rằng: “Tổ quốc nhìn từ biển và Thời đất nước gian lao có thể nói là hai
bài thơ hay nhất về đất nước mà tôi từng viết, trong đó tôi đã vận dụng hết năng lực
sáng tạo, toàn bộ tài năng và vốn sống trải nghiệm của tôi trong suốt 40 năm qua.
Sự khái quát đó, trải nghiệm đó, tôi cũng chỉ mong đánh thức được tình yêu đất
nước trong tâm hồn mỗi con người hôm nay” [48].
14
1.2.3. Quan niệm thơ Nguyễn Việt Chiến
Nguyễn Việt Chiến là nhà thơ có một cuộc sống sôi nổi và thăng trầm. Với
hàng loạt những tập thơ đã xuất bản của mình, ông đã khẳng định một thương hiệu
Nguyễn Việt Chiến trong nền thơ Việt đương đại, đầy dựcảm và sáng tạo.
- Ông quan niệm: “Trong những giây phút ngã lòng yếu đuối nhất của cuộc
đời, chính thơ ca đã cứu rỗi tôi, đã cho tôi có được niềm tin vào cuộc sống” [48].
- Trong một buổi ra mắt hai tập thơ Tổ quốc nhìn từ biển và Hoa hồng không
vỡ hồi đầu tháng 11/2015, trả lời trên báo chí, Nguyễn Việt Chiến cho rằng: “Thơ
hay phải đánh thức con người, không phải ở góc độ mỹ học mà là chiêm nghiệm nỗi
đau, chia sẻ với con người những mất mát, hạnh phúc. Tôi rất thích lời nói của một
nhà thơ nước ngoài, đại ý “thơ là nền nghệ thuật chia sẻ với con người", ông nói
[47].
- Nguyễn Việt Chiến quan niệm: “Đòi hỏi cách tân thơ như một nhu cầu bức
thiết và tự thân của những cây bút trẻ”[48]. Và “bản chất của sự cách tân và đổi mới
thơ không chỉ nằm ở sự tìm tòi về mặt hình thức nghệ thuật cấu trúc của ngôn ngữ
thơ mà điều thiết yếu căn cốt là ở sự đổi mới nội dung đời sống được phản ánh
trong thơ” [48].
- Ông nhấn mạnh rằng: “Đời sống thi ca trong thơ trẻhiện nay còn mỏng
quá” [48]. Ông khuyến khích các cây bút trẻ không nên ngoảnh mặt với đời sống
thực đang chuyển động không ngừng, mà hãy coi đó là tư liệu sinh động để thỏa sức
sáng tạo.
- Đề tác phẩm văn học có sức thuyết phục và lôi cuốn, Nguyễn Việt Chiến
quan niệm: “Ngoài việc khắc họa thành công cái tôi, các nhà thơ phải hướng đến
những chân trời lớn lao hơn, hướng đến cộng đồng, hướng đến nỗi đau và khát vọng
của chính dân tộc mình – và phải khắc họa được chính đời sống đang diễn ra xung
quanh mình. Điều đó khó khăn và đòi hỏi nhiều thứ lắm.Nó đòi hỏi sự trải nghiệm
nhiều, đau đớn nhiều, vốn sống nhiều, và cả tài năng – là điều không thể thiếu”
[44].
15
Có thể nói những quan niệm về thơ của Nguyễn Việt Chiến khá phong phú,
ngoài những nhận định về thơ trên bề nổi, Nguyễn Việt Chiến còn đi sâu vào tìm
hiểu thi pháp của thơ, ông đưa ra những nhận định và quan niệm về ngôn ngữ thơ,
biểu tượng thơ rất sâu sắc. Chính sự thấu hiểu thơ ca trong chiều sâu của nguồn gốc
và sự sáng tạo như vậy nên Nguyễn Việt Chiến có ý thức cách tân rất rõ rệt. Ý thức
cách tân thơ của ông không chỉ dừng lại ở việc xác định ở hình thức bên ngoài của
khái niệm cách tân mà sâu sắc hơn còn là ở sự đổi mới nội dung, là sự phản ánh hơi
thở của cuộc sống thường nhật. Chính vì vậy, ngay từ những ngày đầu cầm bút
Nguyễn Việt Chiến đã tạo ra một giọng thơ lạ cho riêng mình. Những tác phẩm ra
đời như một sự minh chứng cho quan điểm nghệ thuật của một thi nhân dám sống
hết mình, cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Đặc biệt, dám hướng đến nỗi đau và
những khát vọng sục sôi của dân tộc. Ông là một nhà thơ có công lớn trong sự vận
động của thơ hiện đại Việt Nam.
TIỂU KẾT: Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại,
Nguyễn Việt Chiến đã ghi dấu mạnh mẽ trong lòng độc giả với những tác phẩm
mang đậm chất thế sự, đặc biệt trong mảng đề tài về tổ quốc, biển đảo. Nguyễn Việt
Chiến là nhà thơ không xuất hiện sớm trên văn đàn, nhưng ông đã có những đóng
góp không nhỏ vào nền thơ ca hiện đại, cả về mặt nội dung và hình thức lẫn quan
niệm thơ ca. Với tư duy hướng ngoại tích cực, Nguyễn Việt Chiến đã cất cao tiếng
nói khẳng định chủ quyền của đất nước, gợi mở cho người đọc nhiều suy ngẫm về
vấn đề chủ quyền của đất nước, về vai trò của quan trọng của biển đảo đối với một
quốc gia và trách nhiệm của một người công dân trong việc giữ gìn đất đai Tổ
quốc…
Trước đó, khi còn là một người lính bước ra từ chiến trận, Nguyễn Việt
Chiến viết về đồng đội và tâm sự chính mình bằng những suy tư, trăn trở về cuộc
đời, về tình yêu đôi lứa, về hạnh phúc… Tư duy thơ của Nguyễn Việt Chiến đã
chuyển từ hướng nội sang hướng ngoại. Đây có thể coi là một hành trình chuyển
động ngược với xu thế. Bởi trước kia, các nhà thơ thường hướng ngòi bút của mình
đến những vấn đề lớn lao mang tính lịch sử, thời đại, như viết về tổ quốc, về chiến
16
tranh… rồi lại hướng ngòi bút của mình đến những tâm tư, trăn trở cá nhân, thì đến
với Nguyễn Việt Chiến, ông lại đi ngược xu thế ấy. Sự vận động này được đánh dấu
bằng một hành trình dài với tập thơ Tổ quốc nhìn từ biển và Thời đất nước gian
lao…Trước kia, tư duy thơ hướng nội cùng chất lãng mạn của nỗi buồn thảng thốt,
của những dự cảm, bất chợt đến với Nguyễn Việt Chiến, thì nay, vẫn ngòi bút ấy,
ông đã hướng đến những con người thực tại, hướng đến những vấn đề lớn lao mang
tính cộng đồng, thời đại.
17