Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thơ ngô minh từ góc nhìn tư duy nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.92 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VĂN THỊ HIỀN

THƠ NGÔ MINH TỪ GÓC NHÌN
TƯ DUY NGHỆ THUẬT

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Bá Thành

Hà Nội - 2016


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 3
1. L{ do chọn đề tài ............................................................................................................................ 3
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................................... 6
5. Đóng góp của luận văn ................................................................................................................... 6
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ TƯ DUY NGHỆ THUẬT VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC THƠ CỦA NGÔ
MINH .................................................................................................................................................. 8
1.1. Một số vấn đề lý luận về tư duy thơ ......................................................................................... 8
1.1.1. Quan niệm về tư duy nghệ thuật ............................................................................................. 8
1.1.2. Khái niệm tư duy thơ ............................................................................................................... 9


1.2. Nhà thơ Ngô Minh.................................................................................................................... 11
1.2.1. Vài nét về tiểu sử Ngô Minh................................................................................................... 11
1.2.2. Hành trình sáng tác ................................................................................................................ 13
1.3. Quan niệm thơ của Ngô Minh ................................................................................................. 17
1.3.1. Thơ là tiếng gọi đồng vọng của trái tim ................................................................................. 17
1.3.2. Thơ là điểm tựa tinh thần cho chính người sáng tạo ............................................................ 21
1.3.3. Thơ là sự kết tinh của lửa........................................................... Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 1................................................................................ Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG THƠ NGÔ MINH ......... Error!
Bookmark not defined.
2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Ngô Minh ..................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Cảm hứng về quê hương, đất nước ........................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Cảm hứng thế sự trong thơ Ngô Minh....................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Cảm hứng về tình yêu trong thơ Ngô Minh ............................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Nhân vật trữ tình .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Cái tôi trữ tình và tư duy thơ hướng nội trong thơ Ngô Minh .. Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Người thân ................................................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Bạn thơ ....................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.4. Người lao động nghèo ............................................................... Error! Bookmark not defined.


Tiểu kết chương 2................................................................................ Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 3: HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG, THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ TRONG THƠ NGÔ MINH ... Error!
Bookmark not defined.
3.1. Hệ thống biểu tượng trong thơ Ngô Minh .................................. Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Giới thuyết về biểu tượng trong tư duy thơ .............................. Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Biểu tượng lửa ........................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Biểu tượng cát ............................................................................ Error! Bookmark not defined.
3.1.4. Biểu tượng sóng ......................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2. Đặc trưng thể loại trong thơ Ngô Minh....................................... Error! Bookmark not defined.

3.2.1. Giới thuyết về thể loại ................................................................ Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Thể thơ tự do ............................................................................. Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Thể thơ lục bát ........................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3. Đặc trưng ngôn ngữ thơ Ngô Minh ............................................. Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Giới thuyết về ngôn ngữ trong tư duy thơ................................. Error! Bookmark not defined.
3.3.2. Sáng tạo ngôn từ và cách diễn đạt trong thơ Ngô Minh ........... Error! Bookmark not defined.
3.3.3. Ngôn ngữ giàu sức liên tưởng .................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3.4. Ngôn ngữ thơ mang màu sắc trầm buồn ................................... Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 3................................................................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ............................................................................................. Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... Error! Bookmark not defined.


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Tư duy nghệ thuật trước hết là hoạt động trí tuệ của con người hướng tới sự sáng tạo và tiếp
nhận tác phẩm nghệ thuật. Tư duy thơ chính là một hình thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật, một vấn
đề l{ luận còn rất mới nhưng đầy hấp dẫn. Nó có khả năng mở ra những cánh cửa để đi vào thế giới bí
ẩn và phong phú của nghệ thuật. Trong tư duy thơ không chỉ đơn điệu tồn tại yếu tố cá nhân mà còn
chứa đựng cả yếu tố dân tộc, thời đại và nhân loại. Đây là vấn đề nằm trên cả bình diện nội dung lẫn
hình thức, trong mối quan hệ tương tác giữa chủ thể và khách thể. Nghiên cứu tư duy thơ tạo điều kiện
để tìm hiểu toàn diện và hệ thống đối với các vấn đề, hiện tượng thi ca. Việc nghiên cứu thơ ca dưới góc
nhìn tư duy nghệ thuật vẫn đang còn là vấn đề mới mẻ. Nghiên cứu thơ Ngô Minh từ góc nhìn tư duy
nghệ thuật có thể đem lại những kết quả mới.
Ngô Minh là một trong những thi sĩ tên tuổi của nền thơ hiện đại Việt Nam sau 1986, đặc biệt
là ở Huế. Được biết đến với tư cách là một nhà báo, nhà phê bình…nhưng nổi bật hơn cả, người ta
nhớ đến Ngô Minh với tư cách một nhà thơ. Cho đến nay, với hơn 30 năm gắn bó cùng thơ, yêu thơ

và trải lòng với thơ, Ngô Minh đã tạo được cho mình một chỗ đứng trong lòng độc giả cũng như trong
tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Chỗ đứng này được tạo nên không chỉ bởi chất thơ riêng biệt thấm
đẫm tính nhân văn của ông, mà quan trọng, chính chất thơ đó được tạo nên, kết tinh bởi quan niệm
sáng tạo nghệ thuật đúng đắn và tư duy nghệ thuật đa dạng của Ngô Minh. Với ông “Thơ nối dài cuộc
sống của mình, nối “vòng tay bé” của mình vào “vòng tay lớn” của những người tri âm tri kỷ. Có thể
nói tiếng thơ Ngô Minh đã trở thành tiếng lòng của bao người, nói lên những điều thật không dễ nói
ra. Cho đến nay (2016), Ngô Minh đã xuất bản trên mười tập thơ đứng tên riêng.
Đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu tập trung về thơ Ngô Minh với tư cách là một
tác giả mà chỉ có một số bài viết từ các góc độ khác nhau qua một số tập thơ. Tuy chưa bàn trực tiếp về
tư duy thơ Ngô Minh nhưng những { kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà thơ đi trước cố gắng chứng
tỏ hiểu thêm về thế giới nghệ thuật của ông. Với đề tài này, chúng tôi mong muốn thông qua các tác
phẩm cụ thể của Ngô Minh làm sáng tỏ hơn nữa những nét chung mang tính loại hình và những đặc sắc,
độc đáo trong nghệ thuật thơ Ngô Minh. Đó là lí do chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài Thơ Ngô Minh
từ góc nhìn tư duy nghệ thuật.
Tìm hiểu tư duy thơ Ngô Minh chúng tôi hi vọng sẽ bổ sung thêm một cách nhìn mới về tài năng
của một tên tuổi gắn liền với những thi phẩm đã, đang và sẽ luôn song hành cùng hồn thơ dân tộc.
2.

Lịch sử vấn đề


Không giống như các tác gia văn học lớn, Ngô Minh lặng lẽ xuất hiện trên văn đàn, lặng lẽ sáng
tác và lặng lẽ cống hiến. Chặng đường thơ của Ngô Minh được đánh dấu ở cột mốc 1985 với tập thơ đầu
tay Phía nắng lên, cho đến năm 2015, khi bộ sách Ngô Minh tác phẩm ra đời gồm 5 tập (tập 1: Thơ, tập
2: Chân dung, tập 3: K{ và Phóng sự, tập 4: Tiểu luận Phê bình, tập 5: Nhiều tác giả viết về Ngô Minh) đã
đánh dấu hành trình 30 năm liên tục thành tựu về mọi thể loại, khẳng định tài năng và phong cách đa
dạng của ông trong đời sống văn chương Việt Nam hiện đại từ 1975 đến nay, được dư luận đánh giá
cao.
Bàn về thơ Ngô Minh đã có gần 60 bài viết của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình
đánh giá cao tài năng của tác giả như một sự ghi nhận đối với những cống hiến dành cho nền văn

chương Việt Nam đương đại.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài viết “Phù sa biển” của Ngô Minh đánh giá, thơ Ngô
Minh đã đạt tới “sự tinh tế về tâm hồn và sự chín muồi về ngôn ngữ. Thơ Ngô Minh hay vì đủ bản lĩnh
nghề nghiệp để tìm thấy cái hay từ những chuyện nho nhỏ thường ngày. Sự thật thì không cái nào là
nhỏ; mỗi kinh nghiệm đạt đạo đều đáng quí cho thơ” [56,tr.9].
Đi sâu vào thế giới thơ Ngô Minh, Nguyễn Thành Phong đã bày tỏ: “Có một Ngô Minh đằm sâu
trong những bài thơ viết về quê hương. Lại có một Ngô Minh say mê thảng thốt trong những bài thơ
tình yêu, trong những chiêm nghiệm, suy ngẫm về những vấn đề, những con người, cảnh ngộ mà anh
gặp trong đời” *50+.
Nhà phê bình Phạm Phú Phong nhận xét: “Thơ Ngô Minh hoài niệm về quá khứ, tìm thấy cái đẹp
trong dấu chân thời gian đang qua dần trong quá vãng nhận ra cái lẽ tồn tại, cái hữu hạn của đời người
và cái vô cùng của đất trời” *49+.
Những ấn tượng sau mỗi lần gặp Ngô Minh ngoài đời đã giúp cho Văn Cầm Hải nhận ra: “Thơ
Ngô Minh trở thành cuộc đối thoại âm thầm mà quyết liệt giữa con người và thiên nhiên, giữa lo âu mất
mát và sự phục sinh của đời sống” (Lời bình phim Chân dung Ngô Minh đứa con của cát do VTV Huế sản
xuất năm 1998).
Trên hành trình sáng tác của mình Ngô Minh quan niệm “Thơ là sự chiêm nghiệm, chiêm cảm và
giãi bày” [44]. Chính từ quan niệm này Ngô Minh đã cho ra đời những vần thơ thế sự mà như Hồ Thế Hà
nhận xét: “Thơ thế sự của Ngô Minh rung động đến chân thực, nó xoáy vào cái thực tế, số phận nhỏ bé,
cái đẹp bị lãng quên bằng cách nói hội tụ, làm người đọc bất giác, sững sờ thấy mình vô tâm, hờ hững”
[20].
Thấu hiểu tiếng thơ của Ngô Minh, nhà báo Hiền Nguyễn đã chia sẻ: “Thơ Ngô Minh không chứa
đựng nhiều dự cảm phía trước mà là dấu ấn của sự đi qua, gặp lại để bừng tỉnh tâm thức…dù có xóa


nhòa cái ranh giới một nhà báo trong những câu thơ con người thi sĩ thì người đọc vẫn nhận ra bước
viễn du của ngôn từ nhập vào, những tự sự của thời cuộc được nhen nhóm, được ủ men, được chưng
cất” *39+.
Bên cạnh những bài viết nghiên cứu phê bình và đánh giá của các nhà nghiên cứu dành cho cho
thơ Ngô Minh còn có công trình nghiên cứu khá chuyên sâu của Nguyễn Thị Bích Kiều [22]. Ở đó, tác giả

luận văn đã có những phát hiện mới mẻ, độc đáo về thế giới nghệ thuật thơ Ngô Minh, ít nhiều đã đề
cập đến cái tôi trữ tình và đặc điểm hướng nội của tư duy thơ Ngô Minh. Tuy là chưa sâu sắc và toàn
diện về vấn đề tư duy thơ nhưng đã có những gợi mở.
Như vậy ở những bài viết trên các tác giả phê bình, nghiên cứu đã đi vào nhiều khía cạnh khác
nhau của thế giới thơ Ngô Minh và đã có những nhận định, đánh giá sự ghi nhận những đóng góp to lớn
và có giá trị của nhà thơ trên văn đàn. Tuy nhiên về phương diện tư duy nghệ thuật thơ Ngô Minh thì
chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính chất toàn diện, chuyên sâu. Cho nên, trên cơ sở tiếp thu,
lĩnh hội, chọn lọc các quan điểm, { tưởng từ nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình đi trước,
chúng tôi sẽ đi sâu vào tư duy nghệ thuật thơ của Ngô Minh và khẳng định đóng góp của nhà thơ Ngô
Minh trên tiến trình thơ hiện đại Việt Nam.
3.

Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Thơ Ngô Minh từ góc nhìn tư duy nghệ thuật qua các phương
diện như: Cảm hứng chủ đạo, nhân vật trữ tình, hệ thống biểu tượng, ngôn ngữ, thể loại…
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Tìm hiểu Tư duy thơ của nhà thơ Ngô Minh luận văn chủ yếu khảo sát hai tuyển tập chính là Ngô Minh tác
phẩm và tập thơ lục bát 99 vần cũ. Trong đó tập trung khảo sát tập 1-Thơ. Thơ Ngô Minh, tuyển gần 400 bài thơ
trong số 2000 bài thơ của ông.
Ngoài ra luận văn còn khảo sát một số tập thơ tiêu biểu đã từng đạt giải thưởng cao của Ngô Minh như
Phía nắng lên, Chân dung tự họa, Nước mắt của đá, Chân sóng, Đứa con của cát, Hạt phù sa biển, Lệ
Thủy mút mùa, Huyền thoại Cửa Tùng.
Trong rất nhiều thể loại văn học như truyện, kí, l{ luận phê bình, thơ… thì thơ thể hiện tính chủ
quan của người nghệ sĩ Ngô Minh nhiều nhất. Cái chủ quan tồn tại, quy tụ mọi yếu tố khác nhau như tư
tưởng, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu, cảm hứng,…cái chủ quan được biểu hiện bằng cái tôi trữ tình
trong thơ.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu



Nghiên cứu tư duy thơ của Ngô Minh trong tính chỉnh thể, tính hệ thống, từ cảm hứng sáng tạo,
nhân vật trữ tình, hệ thống biểu tượng, ngôn ngữ và thể loại. Nghiên cứu tư duy thơ Ngô Minh trong sự
vận động và phát triển của thơ Việt Nam hiện đại
4.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các biện pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp lịch sử - xã hội: Đặt thơ Ngô Minh trong bối cảnh vận động chung của thơ hiện đại
Việt Nam để nghiên cứu.
Phương pháp loại hình: Căn cứ vào những đặc điểm thể loại của thơ ca để nghiên cứu tư duy thơ
của nhà thơ Ngô Minh.
Vận dụng phương pháp thi pháp học để nghiên cứu các đặc điểm về ngôn ngữ, thể loại, hình
ảnh,...
Phương pháp thống kê – so sánh: Giúp người viết khẳng định lí giải các yếu tố, phương diện Tư
duy thơ của nhà thơ Ngô Minh đồng thời qua việc đối chiếu so sánh với các tác giả cùng thời với ông,
những tác giả thời trước và sau ông để nhìn nhận rõ hơn phong cách riêng cũng như chiều sâu tư duy
của thơ Ngô Minh.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các thao tác phân tích - tổng hợp, hệ thống - cấu trúc: Giúp
người viết tìm kiếm một cách có hệ thống những nội dung, hình ảnh, biểu tượng và nghệ thuật đặc sắc
nhất trong thơ Ngô Minh.
5. Đóng góp của luận văn
Về mặt lí luận: Trên cơ sở khảo sát các tập thơ chúng tôi đưa ra các { kiến kết luận, đưa ra những
đặc điểm của tư duy nhà thơ, cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và khoa học về những đặc
điểm nổi bật trong sáng tác của Ngô Minh. Từ đó nhận diện phong cách và vị rí của nhà thơ trong nền
văn học đương đại Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Luận văn gợi mở thêm cho người đọc một cách nhìn mới về thơ Ngô Minh
trong thời kì đổi mới thi ca sau 1975, đồng thời ghi nhận những đóng góp của nhà thơ trong quá trình
hiện đại hóa thơ ca và làm phong phú thơ Việt Nam đương đại khi hội nhập quốc tế và khu vực.

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm về tư duy nghệ thuật và quá trình sáng tác thơ của Ngô Minh
Chương 2: Cảm hứng chủ đạo và nhân vật trữ tình trong thơ Ngô Minh
Chương 3: Hệ thống biểu tượng, ngôn ngữ và thể loại trong thơ Ngô Minh



CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ TƯ DUY NGHỆ THUẬT VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC THƠ CỦA NGÔ MINH
1.1. Một số vấn đề lý luận về tư duy thơ
1.1.1.

Quan niệm về tư duy nghệ thuật

Tư duy là dạng hoạt động trí tuệ của con người hướng tới sự sáng tạo và tiếp nhận. Đây chính là
giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật, hiện
tượng. Tư duy có vai trò vô cùng quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống. Tư duy khoa học là sự phát
triển đỉnh cao của tư duy logic, cũng như vậy, tư duy nghệ thuật là sự phát triển cao của hình tượng. Từ
điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Tư duy nghệ thuật là dạng hoạt động trí tuệ của con người hướng
tới sự sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật” *23,tr381+. Nói về tư duy nghệ thuật đã có nhiều {
kiến và quan điểm khác nhau, tuy nhiên chúng tôi đồng nhất quan điểm của nhóm tác giả Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
1998) và { kiến của tác giả Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tư duy thơ hiện đại Việt Nam (Nxb Văn học Hà
Nội, 2012).
Tư duy nghệ thuật bắt đầu từ việc mô tả hiện thực khách quan, biểu hiện tâm trạng như là một
kết quả sẵn có của bản thân hiện thực. Tư duy nghệ thuật nhằm biểu hiện cái đặc thù, tư duy khoa học
chú { đến cái chung, tư duy nghệ thuật chú { đến cái riêng, tư duy khoa học chú { đến việc tìm hiểu các
khả năng, dự báo các tình huống có thể xảy ra, đang xảy ra, tức là trình bày cái hiện thực. Chúng ta cũng
cần phải phân biệt giữa tư duy hình tượng với tư duy nghệ thuật. Bởi, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Bá
Thành “Tư duy hình tượng không đồng nhất với tư duy nghệ thuật. Nghệ thuật thì thường có tính hình

tượng nhưng hình tượng không chỉ có trong nghệ thuật…Mặt khác, tư duy nghệ thuật không phải bao
giờ cũng có nội dung hình tượng như là một nét đặc thù duy nhất” *57,tr51].
Tư duy nghệ thuật mang tính chủ quan, tính hình tượng và biểu tượng luôn là đặc điểm nổi bật
của loại hình tư duy này. Hơn nữa, tư duy nghệ thuật là sự vận dụng trực tiếp phương pháp tư duy hình
tượng vào trong các ngành nghệ thuật khác nhau, cho nên: “Đối với tư duy nghệ thuật, chúng ta có tư
duy âm nhạc, tư duy hội họa, tư duy thơ ca…Trong đó tư duy thơ ca có ảnh hưởng chi phối và phổ biến
hơn cả” *57,tr55]
Tư duy nghệ thuật được định nghĩa: “Là sự khôi phục và sáng tạo các biểu tượng trực quan, là sự
hình tượng hóa hiện thực khách quan theo nhận thức chủ quan” *57,tr.57+. Ở định nghĩa này, tác giả đã
nhấn mạnh yếu tố chủ quan trong sáng tạo nghệ thuật. Từ đó chúng ta có thể hiểu tư duy nghệ thuật
một mặt là hoạt động nhận thức của nhà văn, là quá trình sáng tạo, tìm tòi để nhận thức và khái quát
hiện thực một cách nghệ thuật theo logic chủ quan. Mặt khác tư duy nghệ thuật chính là quá trình nhận


thức của độc giả về tác phẩm nghệ thuật. Cho nên, một lần nữa có thể khẳng định tư duy nghệ thuật là
“dạng hoạt động trí tuệ của con người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật” *23,tr381].
Trong sáng tạo văn chương, tư duy nghệ thuật càng có { nghĩa quan trọng hơn bởi nó đánh dấu
quá trình hoạt động trí tuệ của người nghệ sĩ. Tư duy nghệ thuật vì vậy gắn liền với quá trình sáng tác, bị
chi phối bởi tư tưởng, quan niệm của từng nhà văn, nhà thơ, đồng thời nó cũng thể hiện cách nhìn, cách
khái quát hiện thực riêng thể hiện bản sắc, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Ở góc độ cá tính sáng tạo
thì tư duy nghệ thuật làm nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tìm hiểu tư duy nghệ thuật của nhà
văn, nhà thơ là cơ sở đi tìm phong cách nghệ thuật của những người nghệ sĩ ngôn từ đó. Tư duy nghệ
thuật nói chung, tư duy thơ nói riêng gần với đời sống hiện thực hơn so với tư duy khoa học vì tính chất
trực quan của các biểu tượng và mỗi nhà văn, nhà thơ đều có cách riêng. Đây có lẽ là cơ sở khoa học cho
việc hình thành tài năng và phong cách của người nghệ sĩ văn chương.
1.1.2.

Khái niệm tư duy thơ

Nhà thơ Sóng Hồng đã cho rằng: “Thơ là nghệ thuật kì diệu bậc nhất của trí tưởng tượng”. Đối

với một tác giả, trí tưởng tượng là công cụ hữu hiệu nhất tạo nên cho một tác phẩm thơ, bao gồm: Tứ
thơ, { thơ và lời thơ. Nếu coi tư duy thơ với tư cách là loại hình tư duy sáng tạo của chủ thể tác giả - nhà
thơ thì nói tới tư duy thơ là nói tới một loại hình tư duy nghệ thuật mang tính đặc thù. Nó chi phối hoạt
động sáng tạo của nhà thơ và được hiện thực hóa, cụ thể hóa thông qua hệ thống quan niệm, tư tưởng
và thi pháp thể loại. Tư duy thơ của tác giả chịu sự chế ước của nhiều yếu tố: Đặc điểm tâm sinh l{, cá
tính sáng tạo, kinh nghiệm và trình độ thẩm mĩ của chủ thể, môi trường văn hóa - xã hội…Nó thể hiện
qua những phát ngôn tư tưởng trực tiếp của nhà thơ hoặc những bài viết phê bình, trao đổi, tranh
luận…của tác giả, song đặc biệt tập trung thể hiện trên văn bản tác phẩm, trong thế giới nghệ thuật
được tạo nên bởi ngôn ngữ thi ca. L{ luận về tư duy thơ là một l{ luận khoa học khá trừu tượng nhưng
hấp dẫn và đầy thú vị có khả năng mở ra cánh cửa nghiên cứu đi vào thế giới nghệ thuật phong phú và
đa dạng. Nghiên cứu tư duy thơ là nghiên cứu cội nguồn của tâm l{ học sáng tạo. Nghiên cứu l{ thuyết
về tư duy thơ có { nghĩa làm rõ sáng tác, thậm chí có thể gợi mở hoặc định hướng cho sáng tạo. Nhà thơ
Inrasara khẳng định: “Bên cạnh biết làm, ta còn biết suy tư/ biết nói về nghề. L{ thuyết chẳng những làm
rõ sáng tác (dù sáng tác không hẳn chỉ thuần { thức) mà còn có thể gợi mở hay dẫn đường cho sáng tạo.
Nhất là các sáng tạo của hôm nay *21,tr11].
Tư duy thơ là một phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật, nhưng nó mang trong mình
một khả năng biểu hiện phong phú nhờ khả năng biểu hiện của ngôn ngữ thơ phong phú và đa dạng.
Phải khẳng định rằng ngôn ngữ thơ thực sự rất phong phú và đa dạng với nhiều màu sắc. Ngôn ngữ thơ
là một phương tiện giao tiếp có tính xã hội hóa cao. Sự vận động của ngôn ngữ nghệ thuật là biểu hiện


trực tiếp của quá trình tư duy. Vì vậy không có gì lạ khi cho rằng thơ là một phương tiện thể hiện nhiều
tâm trạng, nhiều dạng cảm xúc với những nội dung cụ thể nhất, trực tiếp nhất và thậm chí là mơ hồ
nhất. Trong thơ vừa có nhạc, vừa có họa, biểu tượng thơ ca vì thế vừa mang tính biểu tượng thị giác vừa
mang tính biểu tượng thính giác. Hành trình của trí tưởng tượng mang tính chất ngẫu nhiên bao nhiêu
về mặt hình ảnh trực quan thì mang tính chất tất yếu bấy nhiêu về mục đích biểu hiện. Tư duy thơ
thường được biểu hiện thành từng dòng phát ngôn trên văn bản và từng quãng ngắt hơi trong khi đọc.
Như vậy, sự tồn tại của dòng thơ đã làm ảnh hưởng đến tư duy thơ, tính nhạc điệu của ngôn ngữ cũng
chi phối tư duy thơ. Sự ngắt dòng tạo ra cảm giác đứt đoạn, không liên tục của mạch tư duy theo từng {
nghĩ riêng lẻ. Thơ tự do về liên tưởng, tưởng tượng nhưng phải theo một hình thức ngôn ngữ loại hình

nhất định của thể thơ. Tư duy thơ bị chi phối bởi một số tiêu chí có tính hình thức: Yêu cầu về liên kết
vần và liên kết {. Như thế, tư duy thơ là sự khôi phục và sáng tạo ra các biểu tượng trực quan, vai trò
của nhận thức cảm tính là vô cùng quan trọng nhưng không phải quyết định. Những quan niệm về thơ,
về nhân sinh, về thời đại sẽ làm cho nhà thơ chú { nhiều hơn đến biểu tượng trong thơ. Tìm hiểu tư duy
thơ là tìm hiểu sự vận động của hình tượng thơ.
Ở giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, chủ trương “đổi mới tư duy” đã tạo ra một sự giải phóng
thật sự về mặt tinh thần. Mọi người đều có quyền làm thơ, in thơ dưới nhiều dạng, kiểu khác nhau. Sự
mở cửa của cơ chế đổi mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà nghệ sĩ phát huy tài năng sáng tạo của
mình. Tuy nhiên, có một nghịch l{ là đến những năm 1990 xảy ra tình trạng không cân xứng giữa số
lượng thơ xuất bản với chất lượng thơ. Nhưng, có một điều chúng ta cần phải thừa nhận đó là giữa nhà
thơ và các tập thơ của họ không phải không có những điểm chung. Trước hết là những đặc điểm về
phương diện nhận thức, về tư duy nghệ thuật. Đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự thể hiện
của cái tôi trữ tình, cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy. Cái tôi trữ tình trong thơ được biểu hiện dưới hai
dạng chủ yếu là cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi trữ tình gián tiếp. Thơ trữ tình coi trọng sự biểu hiện
cái chủ thể đến mức như là nhân vật số một trong mọi bài thơ. Tuy nhiên, do sự chi phối của quan niệm
thơ và phương pháp tư duy của từng thời đại mà vị trí của cái tôi trữ tình có những thay đổi nhất định.
Tư duy thơ phản ánh những tình cảm cộng đồng và tư duy thời đại. Về mặt nội dung nhận thức,
có thể coi tư duy thơ là biểu hiện cụ thể và sinh động của những tư tưởng triết học, chính trị, đạo đức
dưới dạng phổ biến nhất của một cộng đồng người. So với tư duy logic thì tư duy hình tượng có được
một phạm vi rộng rãi hơn cho sự liên tưởng và quyền tưởng tượng của người sáng tạo. Tư duy thơ chấp
nhận một khả năng tưởng tượng dường như vô tận của nhà thơ. Khả năng tưởng tượng của tư duy khoa
học là ở chỗ trừu tượng hóa, vô hình hóa các sự vật và hiện tượng. Còn nhà thơ thì cụ thể hóa, hình
tượng hóa hiện thực khách quan theo một đường dây liên tưởng. Đối với sáng tác thơ, trí tưởng tượng


tạo nên tứ thơ, { thơ và cả lời thơ. Khi mục đích biểu hiện thay đổi thì liên tưởng thay đổi theo. Liên
tưởng trong thơ càng đa dạng thì biểu tượng càng sinh động, nhận thức càng sâu sắc. Trong quá trình
sáng tạo, tư duy nghệ thuật chứa đựng nhiều yếu tố ngẫu nhiên. Logic thi ca gắn liền với các yếu tố ngẫu
nhiên, phi l{ tính. Cái tất yếu trong mục đích biểu hiện, trong nội dung tư tưởng và { đồ sáng tác đã
không gạt bỏ cái ngẫu nhiên mà là sự tập hợp ngẫu nhiên theo logic chủ quan. Logic chủ quan bao hàm

cả cái hợp l{ và cái phi l{, cả l{ trí và tình cảm, cái ngẫu nhiên và cái tất yếu.
“Tư duy thơ là sự khôi phục và sáng tạo nên các biểu tượng trực quan để biểu hiện tư tưởng và
cảm xúc, nhưng không phải do nhận thức cảm tính quyết định, mà nó theo logic chủ quan của tác giả.
Logic chủ quan vừa phản ánh cái logic khách quan vừa bao hàm một { nghĩa tự do của hoạt động tinh
thần, hoạt động tình cảm. Nghĩa là nó không phản ảnh cái logic khách quan một cách máy móc và trực
tiếp mà phản ánh các yếu tố tâm l{. Tư duy thơ tạo cho ta thêm một biểu tượng mới về sự vật, hiện
tượng. Hành trình của trí tưởng tượng mang tính chất ngẫu nhiên bao nhiêu về mặt hình ảnh trực quan
thì mang tính chất tất yếu bấy nhiêu về mục đích biểu hiện. Tư duy thơ đối với nhà thơ là việc làm thơ.
Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ để tạo ra những sản phẩm cũng bằng ngôn ngữ. Vậy nên, ngôn ngữ đối với
nhà thơ vừa có { nghĩa phương tiện, vừa có { nghĩa mục đích. Nhà thơ vừa là người thiết kế, vừa là
người thi công cho ngôi nhà của mình” *57,tr.425+.
Là một nhà thơ được khẳng định vị thế từ sau năm 1986, thơ Ngô Minh cũng không nằm ngoài
quy luật vận động chung của xã hội. Theo nhận định của Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tư duy thơ Hiện
đại Việt Nam thì “trong thơ ca cách mạng từ sau năm 1945 đến tận đầu những năm 1980, cái tôi trữ tình
là cái tôi chứng kiến sự vận động của hiện thực lịch sử, cái tôi nhân danh cách mạng, nhân danh lịch sử,
dân tộc, giai cấp, hòa vào một cái ta rộng lớn để phản ánh một cuộc đối đầu Địch – Ta rạch ròi và quyết
liệt. Hơn 40 năm liên tục phát triển theo khuynh hướng “ta hóa” ấy, thơ cách mạng đã đi hết chặng
đường đầu tiên của nó, hoàn thành chức năng thời chiến…Thơ ca trở về nơi nó đã sinh ra: Trở về với cái
tôi” *57,tr.425-426]. Trong nền thơ hiện đại Việt Nam, qua sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu chúng ta nhận ra
được “Một nhà thơ suốt đời ca ngợi cái ta cách mạng, ta dân tộc… sau 1986 cũng đã chuyển hướng về phía
cái tôi nội cảm” *57,tr.426+. Cho nên sự chuyển hướng ấy có lẽ là xu hướng tất yếu chung không chỉ của các
nhà thơ lớn mà của tất cả các nhà thơ trẻ hiện đại trong đó có Ngô Minh: “Nhà thơ đối diện với chính mình,
nhìn lại mình và đôi khi không khỏi tiếc nuối về những gì chưa làm được, mặc dù chưa phải tuổi đã cao
nhưng đã lo chấm hết” *57, tr427].
1.2. Nhà thơ Ngô Minh
1.2.1.

Vài nét về tiểu sử Ngô Minh



Ngô Minh tên thật là Ngô Minh Khôi sinh năm 1949 tại Quảng Bình. Tốt ngiệp đại học Thương
nghiệp Hà Nội năm 1972 Ngô Minh nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc xếp bút nghiên tham gia
trực tiếp cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cuối năm 1972, Ngô Minh vào quân đội tham gia chiến
đấu ở miền Đông Nam Bộ thuộc Trung đoàn 141, Sư đoàn 7. Ông đã được trao tặng Huy chương chống
Mỹ cứu nước Hạng Nhất, Huy hiệu tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Nhưng, sẽ không có gì
đáng nói thêm nếu như Ngô Minh ra quân rồi lập gia đình, sống một cuộc sống an phận như bao đồng
đội của ông. Niềm đam mê nghệ thuật thơ ca đã đưa nhà thơ từ một người làm trong Ban chính trị
trung đoàn 141, rồi trưởng đại diện báo Thương Mại tại miền Trung đến với văn chương. Trong khi các
bạn học cùng thế hệ với Ngô Minh như Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Vũ Thuật, Thái Ngọc San…đã nhanh chóng
nổi tiếng thì nhà thơ vẫn kiên trì theo đuổi văn nghiệp của mình...Với các bút danh như Ngô Minh,
Nguyễn Minh Tâm, Hải Tây trong khoảng gần 40 năm cầm bút cho đến thời điểm hiện tại Ngô Minh đã
cho ra đời liên tiếp hàng chục tập thơ với hàng trăm bài thơ có giá trị cùng các công trình nghiên cứu
quy mô lớn. Đồng thời ông còn cho xuất bản nhiều đầu sách gồm thơ, văn, phê bình tiểu luận trong đó
phải kể đến là bộ sách Ngô Minh tác phẩm.
Với những thành công như vậy Ngô Minh đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, ông từ ng
được tặng thưở ng Thơ hay báo Nhân dân (1978), Thơ hay Văn nghệ Quân độ i 1985, Thơ hay 5 năm Tạp
chí Sông Hương và nhiều giải thưởng khác như Giải thưởng Trung ương Đoàn - Hội Nhà Văn Việt Nam
năm 1982 với bài thơ Gió tuổi 20; Giải thưởng Văn học Bình Trị Thiên lần 1 (1982), lần 2 (1987); 2 lần
Giải thưởng Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam: năm 1996 tập thơ Chân
Sóng, năm 2004 tập thơ Huyền thoại Cửa Tùng; Giải thưởng VHNT Cố Đô (TTH) lần 1 (1989) với tập
thơ Chân dung tự hoạ, lần 2 (1999) tập thơ Chân sóng, lần 3 (2003) tập thơ Phù sa biển, lần thứ 4 tập
thơ Huyền thoại Cửa Tùng (2009); Giải thưởng cuộc thi “Đây biển Việt Nam năm 2012”, với bài thơ Nghe
trẻ hát ở Trường Sa, do báo VietNamNet tổ chức…cho đến nay Ngô Minh vẫn không ngừng cống hiến
cho nghệ thuật nước nhà những công trình có giá trị cao.
Ngoài tư cách nhà thơ, Ngô Minh còn được nhiều người biết đến ông với tư cách nhà báo. Cuộc
đời cầm bút của mình, Ngô Minh đã viết nhiều bài phóng sự và k{ về các đề tài khác nhau, ở các vùng
quê khác nhau. K{ về chân dung các văn nghệ sĩ, k{ và các phóng sự tâm đắc trong các chuyến đi thực tế
viết báo. Có bài phóng sự của Ngô Minh đã được chọn in vào sách đọc tham khảo cho sinh viên của Học
viện Báo chí Việt Nam từ hơn hai chục năm nay. Đó là bài Ngẩn ngơ ta xuống ga nào hỡi em! Các tác
phẩm k{ và phóng sự trong tuyển này đều được viết theo quan điểm đổi mới và hội nhập cả về nhận

thức quan điểm và thực tế cuộc sống. Tuy nhiên đối với Ngô Minh, “Báo là nghề, còn thơ mới là nghiệp”
nghề ta có thể đổi, nhưng nghiệp sẽ theo ta suốt cuộc đời, bởi vậy, thơ chính là cảm xúc, suy tư, trăn trở


thường trực của ông về những gì đã thấy, những nơi đã qua, những người đã gặp, những việc đã trải
trong từng quan hệ với từng không gian và thời gian cụ thể.
Đến nay, thời gian đã kiểm chứng và chứng minh, nhà thơ dồn tâm huyết của mình vào công việc
cuối cùng là loại bỏ những bài thơ chưa hay của mình và lấy những bài ông tâm đắc nhất in vào một tập
trong bộ sách Ngô Minh tác phẩm. Đây là công trình đã đúc kết tinh chất hàm lượng trữ tình - nhân bản,
làm nên phẩm tính thi ca và phẩm danh thi sĩ của Ngô Minh. Trong gần 40 năm sáng tác đó, nhà thơ đã
viết ngày viết đêm, say mê, cuồng nộ. Làm thơ, viết chân dung văn nghệ sỹ, tiểu luận và phê bình thơ,
viết truyện k{, viết cả bút k{ về ẩm thực Huế để chứng minh niềm đam mê cháy bỏng của mình.
1.2.2.

Hành trình sáng tác

Hành trình sáng tạo nghệ thuật thơ của Ngô Minh là cuộc hành trình của những trang thơ song
hành cùng thời đại. Con đường đến với thơ ca của Ngô Minh trầy trật và khó khăn hơn vì trong khi các
bạn cùng học với ông đã sớm thành danh thì bản thân ông vẫn đang tìm cho mình một hướng đi đến với
nghệ thuật. Điều may mắn đối với Ngô Minh là ông xuất hiện trên làng văn đúng vào thời điểm đất nước
đang trên đà đổi mới về mọi phương diện trong đó có văn học. Vừa là nhà thơ, nhà văn lại vừa làm báo
nhưng ở cương vị nào Ngô Minh cũng đạt được thành tích đáng nể. Vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân
Hoàng đã từng nói về Ngô Minh “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Nhưng có một điều là
chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra
hồn ra vía” cả. Là nhà báo, Ngô Minh nổi danh khi là cộng tác viên của các báo địa phương lẫn trung
ương: Tuổi trẻ, Thanh niên, Lao động, Thừa Thiên Huế, Sông Hương…Là nhà văn ông vinh dự mang về
nhiều giải thưởng danh giá. Từ giải thưởng của tạp chí Văn nghệ Quân đội, tạp chí Sông Hương đến giải
thưởng của văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học Nghệ
thuật Việt Nam. Ngô Minh đã để lại cho đời những tập thơ là tiếng lòng, nỗi niềm gan ruột của chính nhà
thơ mang đậm giá trị nhân văn sâu sắc.

Như đóa hoa nở giữa sa mạc, người lính Ngô Minh ngày nào đã tạo ra tiếng nói riêng trong các
tập thơ của mình. Trong không khí ồn ào nóng bỏng của thời cuộc, năm 1985 Ngô Minh bất ngờ xuất
hiện trên thi đàn như một hiện tượng văn học khi ông cho ra đời tập thơ Phía nắng lên (1985) đánh dấu
cho sự nghiệp thơ ca. Ngay từ khi mới xuất bản, tập thơ đã được dư luận đánh giá cao bởi khả năng
phản ánh thực tại cuộc sống và sự thể hiện tâm trạng, cảm xúc của cái tôi trữ tình trong thơ. Trong bài
thơ Vần cũ 2, Ngô Minh viết: Mình về/ làm dấu cát khuya/ nghe ngờm ngợp gió/ nghe chia bước mình.
Nửa xa/ triều cuốn nửa gần/ hai lăm tuổi biển/ khát vần tìm gieo. Những cảm nhận tinh tế về thời gian,
phận người và những điều bình dị xung quanh cuộc sống đã được Ngô Minh chuyển hóa vào thơ một
cách sáng tạo. Nội dung nổi bật trong thơ Ngô Minh giai đoạn này mang đậm chất triết l{ nhân văn sâu


sắc. Ngay từ thuở đầu, nhà thơ đã làm cho bạn bè đồng nghiệp, giới nghiên cứu phê bình và độc giả yêu
thơ phải ngỡ ngàng bởi những phát ngôn nghệ thuật tiến bộ thể hiện sự chiêm nghiệm và từng trải của
bản thân trước cuộc sống. Những sáng tác trong giai đoạn này của nhà thơ chủ yếu thể hiện cảm xúc trữ
tình mênh mang của bản thân trước thực tại cuộc sống
Tập thơ Chân dung tự hoạ (1989) là một sự tiếp nối của tập thơ trước thể hiện sự bứt phá về chủ
đề nội dung cũng như hình thức biểu hiện nên được bạn bè và đồng nghiệp đón nhận nồng nhiệt. Trong
đó nổi bật là những nội dung thơ được Ngô Minh trải lòng về bản thân với bạn bè, đồng nghiệp và độc
giả yêu thơ. Cho nên “Chân dung tự hoạ là tập thơ hoàn chỉnh nhất, là cọc neo dòng chảy của tâm hồn
anh với cảm xúc mới mẻ mang vẻ đẹp khác với nhiều giọng thơ xuất hiện cùng thời” *49,tr14-17]. Dưới
chân cỏ chân dung tự hoạ/ Bằng nỗi u hoài của triệu đêm mưa...(Tự Họa).
Nước mắt của đá (1991) là bước chững lại của Ngô Minh so với hai tập thơ trước. “Ở những giọt
nước mắt này ông thiếu đi những cảm xúc mới lạ, nóng bỏng, thiếu một lối cảm, lối nghĩ nhiệt thành của
một người đến với thơ như đến với một người tình, hay nói đúng hơn là thiếu đi một chút của giai đoạn
tình yêu mà đã bước sang giai đoạn tình nghĩa vợ chồng”. Bởi như Phạm Phú Phong nhận xét: “từ Phía
nắng lên (1985) đến việc hình thành đường nét một Chân dung tự họa (1989) là kết thúc một chu trình
của tình yêu mãnh liệt, ở đó cảm xúc có khi được đẩy lên cao trào, đốt cháy những ngọn lửa tình yêu, để
rồi đến Nước mắt của đá, ông ngồi suy ngẫm, xoáy sâu vào một điểm, cố hình dung ra vóc dáng tâm hồn
mình trên những dấu vết còn in lại trước đoạn đường đã qua” [48,tr11-14]: Chiều buồn buồn vô chữ
nghĩa/ Nghe hồn rơi chiếc lá rơi (Ngu ngơ chiều). Có thể nói ở tập thơ Nước mắt của đá, Ngô Minh đã

rút dần tâm thế hướng ngoại và đi vào tâm thức hướng nội với những dòng cảm xúc gây xúc động người
đọc.
Từ Chân sóng (1995) đến Quà tặng xứ mưa (1996) Ngô Minh tiếp tục cuốn hút người đọc bằng
những vần thơ viết về biển cả quê hương và mẹ. Hai người mẹ của nhà thơ, mẹ sinh ra ông và mẹ - biển
cả đã truyền cảm hứng động lực cho Chân sóng xuyên suốt từ Sẹo biển đến Truyền thuyết làng chân
sóng. Sang tập thơ Quà tặng xứ mưa, Ngô Minh lại day dứt với mẹ và biển: “Ba mươi năm mạ vẫn còn/
Mạ là biển của đời con sóng lùa/ Mạ nằm đây biển nằm kia/ Vầng trăng biển miếng trầu khuya đỏ bầm
“(Mạ nằm đây biển nằm kia).
Phù sa biển (2001) là tập thơ nuôi dưỡng tâm hồn tác giả bằng những hình ảnh thân thuộc của
người thân, bạn bè, của những miền đất Ngô Minh đã từng đặt chân qua. Nhà thơ không ngần ngại bày
tỏ những tình cảm sâu kín của mình về biển, về thiên nhiên và con người bằng cảm xúc nồng nàn và sâu
sắc. Biển là nơi hội tụ mọi nguồn thi hứng cho tác giả, là niềm tự hào trước hết thảy vạn vật và với các


cường quốc trên thế giới về một đất nước có đường ven biển trải dài từ Bắc xuống Nam: “Đây tuổi trẻ
của ta/ đây tình yêu của ta/ kìa nhánh san hô tận cùng đáy cát/ lắc lư sắc biển chói lòa…” (Phù sa biển).
Đến Huyền thoại Cửa Tùng (2004) là tập thơ đầu tiên của Ngô Minh trong mười tập đã xuất bản
viết riêng cho vùng đất Quảng Trị, quê ngoại của nhà thơ. Tập thơ gồm 64 bài thơ và một thiên hồi kí.
Nổi bật trong Huyền thoại Cửa Tùng là hình ảnh con người Quảng Trị dũng cảm, kiên cường chịu thương
chịu khó mà người đầu tiên được tác giả nhắc đến đậm nét nhất chính là mẹ ông. Qua mười tập thơ,
đến đây phong cách Ngô Minh đã được khẳng định. Bằng chất giọng lắng sâu và trĩu nặng suy tư, thơ
Ngô Minh luôn thiên về nội tâm với ngôn ngữ chọn lọc, trong sáng vì thế mà cuốn hút người đọc.
Tiếp tục cảm hứng từ những tập thơ trước, Lệ Thuỷ mút mùa (2005), Thơ Tặng (2007), Gọi lá
(2008), K{ tự biển (2013) Ngô Minh thực sự đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong làng thơ Việt
Nam đương đại. Ngô Minh đã viết hơn một ngàn năm trăm bài thơ. Nếu cộng cả thơ lai cảo chưa in thì
gần 2000 bài. Có thể chia sáng tác của Ngô Minh làm ba mảng chính. Mảng sáng tác về k{ ức tuổi thơ
gắn với làng Thượng Luật quê hương, với hoài niệm khôn nguôi về cát. Thứ hai là mảng sáng tác gắn với
Huế thấm đẫm những chiêm nghiệm buồn vui cuộc đời trong bốn mươi năm sống và viết tại đất “Thần
kinh - Cố đô”. Và thứ ba là mảng viết về người lính trước, trong và sau chiến tranh. Chính những năm
tháng suy tư, trăn trở và chiêm nghiệm trong sáng tạo nghệ thuật ấy đã đưa Ngô Minh trở thành một

trong những nhà thơ hiện đại của miền Trung được đông đảo công chúng yêu mến. Thơ Ngô Minh như
nguồn nước mạch trong cát, không uốn éo, điệu đà mà đến từ cảm hứng tự nhiên, ngọt lành và thấm
đậm. Những câu thơ ông viết về mẹ cha, gia đình là những câu thơ lắng đọng và xúc động nhất: “Con xin
dựng tim con làm bia mộ/ Tạc câu thơ đời mạ đau buồn/ Trái tim nhỏ ước là quả chín/ Trên cát nghèo
trắng xóa thời gian” (Thơ khắc trên bia mộ mạ).
Sau gần bốn mươi năm cở i áo li ́nh, “chất li ́nh” trong nhà thơ gần bảy mươi tuổi dường như
không hề nhạt phai. Điều đó thể hiện ở những cuốn sách về đề tài người li ́nh và cách mạng đã được Ngô
Minh cho ra đời một cách liên tụ c: Nhớ Phùng Quán (2003), Đất Thiêng (2005), Phùng Quán - 3 phút sự
thật (tổ chứ c bản thảo, 2006), Chuyện tử tù Lê Quang Vi ̣nh (2007), Phùng Quán còn đây (biên soạn cùng
chị Bộ i Trâm, 2007), 100 ngày vượ t Trường Sơn (2010), Cổ tích tà u không số (2011), Tướ ng Giáp trong tôi
(2013)…Trong lời thưa đầu sách, nhà thơ nói: “Bốn mươi năm qua tôi viết ngày viết đêm, say mê, cuồng
nộ. Làm thơ, viết chân dung văn nghệ sỹ, tiểu luận và phê bình thơ, viết truyện k{, viết cả bút k{ về ẩm
thực Huế, nhưng cơ bản là tâm tình, hồn cốt của tôi đều ở trong thơ. Tôi đã xuất bản 14 tập thơ trữ tình
và hơn 14 tập truyện k{, phóng sự, tiểu luận phê bình, sưu tầm biên soạn, nay tuyển chọn lại trong 5 tập
là món quà gửi đến độc giả, là sự tổng kết một thời dấn thân sôi nổi” *39+. Dẫu sau chiến tranh, người
lính Ngô Minh đã trở về thanh bình nhưng trong thơ ông chiến tranh và cuộc sống đời thường vẫn luôn


có sự gắn kết bởi nhiều mối quan hệ. Chính vì vậy mà chiến tranh bước vào thơ Ngô Minh không phải
tiếng gầm rú của B52, không phải cảnh chết chóc thương tâm, vẫn có khói lửa chiến tranh nhưng lại
được ẩn dấu sau những nét màu cảm thức về cảnh tượng làng biển, về những khát khao tuổi trẻ và
những điều mộc mạc dung dị của cuộc sống: “Thương ngọn gió xù lông qua cánh đồng gai thép/ Gió lật
bật cửa liếp/ Mẹ ngồi ngóng tin con/ Tháng năm này lửa cháy biên cương/ Nhấp nhô gió vút lời núi
dựng” (Gió tuổi hai mươi).
Giá trị nhân văn sâu sắc trong thơ Ngô Minh càng được khẳng định khi nhà thơ luôn muốn cảm
thông chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống với mọi người chung quanh. Trong bài thơ Tiếng chim cô
đơn Ngô Minh đã viết: “Cúc cu cúc cu/ Trưa nắng đổ ướt áo người mẹ trẻ/ Tiền quốc doanh mà giá chợ
trời/ Tiếng chim giọt mát/ Phải chút cảm thông chim hát gửi người” (Tiếng chim cô đơn). Trong bài thơ
là tiếng chim hót nhưng đọc lên ta lại có cảm giác như đó là lời thơ, là tiếng lòng của chính tác giả luôn
muốn mang thơ mình ra để xoa dịu những nỗi đau, những vất vả nhọc nhằn của con người trong cuộc

sống luôn phải gồng mình lên vì cơm áo, gạo tiền. Mỗi lần đọc thơ Ngô Minh, người đọc luôn tự hỏi thơ
ông sao da diết, sâu lắng và đọng mãi trong lòng người là vì thế. Ông không có tiền cũng không có quyền
thế để mang ra giữa đời, ông chỉ có tấm lòng gửi vào thơ bằng tất cả sự đồng cảm và trân trọng.
Có gì ư? Tôi chỉ có tôi đây
Quần áo xuềnh xoàng chỗ lành chỗ vá
Duy trái tim chưa một lần sắt đá
Trước mỗi buồn vui đau khổ của con người
(Có gì không)
Đến với văn nghiệp, Ngô Minh không chỉ làm thơ mà còn viết chân dung. Ngô Minh có lối viết
chân dung hết sức lôi cuốn, hấp dẫn bởi ông biết khai thác những chi tiết đời thường mà ít người biết
của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Với ngôn ngữ đậm chất thơ, pha một chút mượt mà của thi ca
truyền thống, một chút góc cạnh của thi ca đương đại, Ngô Minh trở thành người giỏi vẽ chân dung
bằng thơ. Nguyễn Du, Nguyễn Tuân, Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Thu Bồn, Phùng Quán, Nguyễn Minh
Châu…đều được ông phác họa bằng ngôn ngữ của riêng mình. Vì thế mà, mỗi chân dung đều để lại một
dấu ấn dung dị, khó quên. Đối với Ngô Minh: “mỗi nhà văn, nghệ sỹ điêu khắc, đạo diễn điện ảnh, hay
một người làm thơ vươn lên từ đáy cuộc đời, một cây bút trẻ có { chí tiến thủ…đều là những tấm gương
lớn, để mình soi vào đó, học làm một người cầm bút nhạy cảm với cái mới, trung thực và bản lĩnh” *30+.
Trong sự nghiệp cầm bút của mình, ngoài làm thơ, viết văn, viết báo, viết chân dung thì Ngô Minh còn
viết cả k{ và phóng sự. Các tác phẩm k{ và phóng sự trong tuyển tập Ngô Minh tác phẩm đều được viết
theo quan điểm đổi mới và hội nhập cả về nhận thức quan điểm và thực tế cuộc sống. Có nhiều bài là sự


nói lại, khảo cứu lại những nhân vật hay sự kiện, mà theo Ngô Minh, trước đây, nó được nhìn nhận,
đánh giá, một cách “quy chụp” theo nhận thức cực đoan, không công bằng, như đánh giá về Chúa
Nguyễn và Vua Nguyễn, cụ Phan Thanh Giản, Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm, “Hùm xám đường 4”
Đặng Văn Việt…Cách đánh giá theo quan điểm của Ngô Minh trong những bài k{ của mình từng làm
cho một số người không vừa lòng. Nhưng Ngô Minh luôn tuân theo một nguyên tắc là tôn trọng đạo
l{ và lẽ phải.
Sinh ra và lớn lên từ miền cát Quảng Bình, hơn 40 năm thơ Ngô Minh là 40 năm nhà thơ lặn tìm
trong biển, trong từng hạt cát kết tinh thành bãi bờ lớn. Thuỷ chung với cát, với biển với cuộc đời theo

một hướng đi bền bỉ, Ngô Minh kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc sâu lắng và lao động nghệ thuật để
sáng tạo một chân dung thơ độc đáo, mới mẻ, lấp lánh nét tài hoa ám ảnh người đọc bằng những hiệu
quả thẩm mĩ phong phú. Từ tập thơ Phía nắng lên - cho đến nay…Ngô Minh đã có 14 tập thơ góp mặt
trong hàng ngũ thế hệ các nhà thơ hiện đại thời kì đổi mới. Thơ Ngô Minh đã sống như bản thân nhà thơ
từng sống, không cầu kì, bóng bẩy hay chải chuốt bất cứ thứ gì, thơ Ngô Minh bình dị mà sâu lắng mang
nặng nỗi đời. Người đọc sẽ dễ tìm thấy nhiều Ngô Minh trong một bài thơ nhưng cũng có thể tìm thấy
mình qua mỗi trang thơ ông viết. Đó là l{ do vì sao độc giả tìm đến thơ Ngô Minh như tìm một cõi đi về
bình yên cho tâm hồn.
1.3. Quan niệm thơ của Ngô Minh
1.3.1.

Thơ là tiếng gọi đồng vọng của trái tim

Trong suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Ngô Minh là người luôn suy tư trăn trở
một cách nghiêm túc về nghề nghiệp. Ông quan niệm về thơ không chỉ trong sáng tác mà còn trong
trong các công trình nghiên cứu, tiểu luận phê bình. Qua hành trình sáng tạo của mình, nhà thơ ngộ
ra được nhiều điều nhưng có lẽ vấn đề mà Ngô Minh bận tâm nhất chính là thơ viết ra để chia sẻ,
để cảm thông với người và với đời. Muốn như vậy, trước hết, thơ phải là tiếng gọi đồng vọng của
trái tim.
Đồng vọng có nghĩa là tiếng vọng lại từ xa. Thấu hiểu { nghĩa sâu sắc của cụm từ đồng vọng, Ngô
Minh đã đề ra cho thơ mình một mục đích: Từng lời thơ ông cất lên sẽ là tiếng gọi đồng vọng của trái
tim, truyền cảm hứng nhân văn sâu sắc đến tâm hồn độc giả. Phải là người trải qua những sóng gió
thăng trầm trong cuộc sống Ngô Minh mới có những khát khao chân chính với thơ như vậy. Khát khao
chia sẻ, khát khao đồng cảm. Tuổi thơ của Ngô Minh lớn lên trong những câu ru đầy nước mắt của mẹ.
Vì thế hành trình thơ của ông không phải chỉ là những chặng đường suôn sẻ. Từ chú bé nghịch cát, học
lên cấp ba, tốt nghiệp đại học Thương mại rồi lên Trường Sơn thành anh bộ đội giải phóng, rồi về Huế
làm công chức, làm báo, làm văn mà tuổi thơ của ông còn chứa một l{ lịch buồn thảm khác. Ngô Minh


sinh ra là con thứ 3 trong một gia đình có chữ ở làng Thượng Luật, tuổi thơ của ông chìm đắm trong lời

ru ngọt ngào, êm dịu từ mẹ, những tưởng cuộc sống của nhà thơ thật viên mãn và hạnh phúc. Những
ngọt ngào và cay đắng lần lượt đan xen, hòa quyện vào nhau và để lại mãi trong kí ức nhà thơ khoảng
trời vừa tươi đẹp, hạnh phúc lại vừa đớn đau, dằn vặt. Đó là hình ảnh của ba mẹ, anh chị em ruột,
những số phận hẩm hiu, bất hạnh trong cuộc đời. Ba ông bị bắn trong cải cách ruộng đất vì quy sai địa
chủ, khi đó Ngô Minh mới tròn bảy tuổi. Gia đình nhà thơ cũng vì đó mà sa sút, mẹ ông phải tần tảo sớm
hôm một tay nuôi đàn con khôn lớn trưởng thành. Nỗi oan mất chồng, thương con quặn thắt đáy lòng
mà không biết tỏ cùng ai khiến mẹ ông quá đau khổ, lời ru của bà cũng vì thế mà trở nên da diết, thấm
đẫm những giọt nước mắt. Thời gian đã qua đi nhưng tiếng lòng thổn thức của người mẹ luôn là nỗi ám
ảnh tang thương trong kí ức nhà thơ. Đó chính là nỗi nhớ thương da diết, đau đáu trong tim thôi thúc
khiến Ngô Minh không thể không cầm bút. Thơ, đối với riêng ông không thể là tiếng reo vui hớn hở hay
bức tranh rực rỡ sắc màu mà thơ là tiếng gọi u uất, đồng vọng của trái tim đau, của những hoài niệm
khắc khoải. Ngô Minh làm thơ nhiều mà bàn về thơ cũng nhiều. Khi làm thơ cũng như khi bàn về thơ,
Ngô Minh luôn bám lấy cái “căn cốt” nhất của thơ, ấy là thơ phải thực, phải gắn bó bản chất với chủ thể
sáng tạo là con người thực của tác giả. “Thơ là cái chí, cái tâm, cái tình bắt nguồn từ cảm xúc mạnh mẽ
do va chạm giữa nhà thơ và cuộc sống” (Tự ghi chú về thơ). Thơ Ngô Minh toát lên quan niệm về sáng
tác của ông. Nó trước hết là cảm xúc thực của ông. Đọc thơ Ngô Minh ta có thể căn cứ vào tác phẩm mà
biết được cả l{ lịch, hoàn cảnh, cả những suy tư, những quan niệm sống của ông. Người đọc sẽ thấy ngỡ
ngàng trước sức liên tưởng, gợi mở vào những ngõ ngách của đời sống mà ở đó mỗi người như được
tìm thấy chính mình trong đó: “Tôi tìm tôi tìm Huế/ Góc chợ rau dưa hè phố gánh hàng/ Bên dòng sông
nắng đục mưa trong… tôi tìm lạnh toát/ Đường Phan Bội Châu số nhà 31/ Đỉnh dốc Sào Nam tôi ở lưng
chừng” (Tìm tôi tìm Huế).
Ngô Minh đã dày công trải mình với những kí ức vui buồn, đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống để
từ đó l{ giải về đời, về thơ là tiếng gọi đồng vọng của trái tim. “Đồng vọng” là tiếng vọng ngân nga, lắng
dịu của tiếng gọi tình yêu mơ hồ, xa ngái nhưng rất thực, cái thực của con tim thổn thức…, là nỗi buồn,
nỗi nhớ không thể gọi thành tên: “Trắng như tờ lịch vừa rơi/ Ngày không em giấy không lời khát khao/
May đời còn có chiêm bao/ Cho hoa diệp liễu thơm vào trống không” (Sang trang). Ở đây, cái tinh vi,
huyền diệu nhất của tâm thức người đang yêu được nhà thơ nắm bắt và diễn tả khéo léo, tài tình qua hệ
thống từ ngữ phức hợp, "lạ hóa". Đối với Ngô Minh “thơ là sự chiêm nghiệm, chiêm cảm và giãi bày. Thơ
vừa là thứ dùng để mong lấp đầy khoảng trống cô đơn trong tâm hồn, vừa là thứ cuốc xẻng để đào sâu
thêm khoảng trống ấy” [Tạp chí Sông Hương, số 5-2009, tr.4]. Vì lẽ đó, thơ ông không chỉ là nơi thể hiện



tâm hồn với những buồn, vui, đau khổ, yêu thương của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế mà còn là sự giãi
bày những ngẫm ngợi, suy tư về nhân tình thế thái của cái tôi triết lí, chiêm nghiệm.
“Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” (Biêlinxki). Trước khi trở thành một tác
phẩm nghệ thuật, thơ là tiếng lòng thầm lặng của người nghệ sĩ về hiện thực, về nhân sinh, về chính bản
thân mình. Đối với Ngô Minh “thơ là tiếng gọi của những hoài niệm khắc khoải về về cơn chấn thương
mà mình phải mang vác suốt đời như con dân nước Chúa mang cây thập tự trên lưng nặng trĩu”. Trên
hành trình sáng tác của mình, nhà thơ tự nhận ra “có thể đó chỉ là cái đích mong mỏi khó mà đạt đến,
nhưng tôi tự thấy rằng, các sáng tác của mình mấy chục năm qua đã luôn hướng đến điều tâm niệm đó”
[44,tr274]. Cho nên, từng lời thơ cất lên, từng tập thơ “lớn bé” ra đời chính là cảm xúc, suy tư, trăn trở
thường trực của ông về những gì đã thấy, những nơi đã qua, những người đã gặp, những việc đã trải
trong từng quan hệ với từng không gian và thời gian cụ thể: “Ta về uống câu buồn đời mạ đời cha/ Từ
xưa từ xưa truyền qua tao võng/ Nhận ra bao điều ta vô { bỏ qua/ Về úp mặt vào từng hạt cát/ Nhận
ảnh hình giữa sáng láng phong ba” (Truyền thuyết làng chân sóng).
Bằng lối thơ “nặng nỗi đau nhân tình” nhà thơ đang sống với hiện tại nhưng trong thế giới thơ
của ông niềm vui, nỗi buồn như đan xen vào nhau. Phải có một sự thấu hiểu về sự đời và lòng người thật
thấu đáo thì tác giả mới có thể đồng cảm được với thế giới xung quanh mình. Trong tuyển tập Ngô Minh
tác phẩm, có một nội dung thơ mà tác giả viết bằng tất cả sự hiểu biết, nỗi niềm gan ruột và tâm huyết của
mình, cũng là những sáng tác mà người viết muốn đi sâu trong việc làm sáng tỏ quan niệm thơ là tiếng gọi
đồng vọng của trái tim, đó là phần Thơ tặng của Ngô Minh, ông dành phần lớn tình cảm của mình cho bạn
bè, đồng nghiệp. Đây cũng là những sáng tác độc đáo, mới lạ thể hiện sự đổi mới trong tư duy thơ của Ngô
Minh bằng ngòi bút phác họa chân dung thật tài tình, mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả.
Từ góc độ tư tưở ng và quan niệm nghệ thuật củ a nhà thơ , Ngô Minh đã chọn và viết về
Nguyễn Du, tiền nhân xuất hiện tường minh trên văn bản cụ thể.
Lạy này xin cụ ngậm cười
Văn chương trần thế chín mười đơn sai
Chữ tâm rơi rớt dặm dài
Chữ tài liền với chữ tai…Thôi thì…
(Lạy cụ Nguyễn Du)

Ngô Minh chọ n Nguyễn Du chứ không phải Nguyễn Công Trứ hay Nguyễn Trãi hay Trần Nhân
Tông – nhữ ng đại thi hào dân tộ c khác là bở i Nguyễn Du mang thân phận tri ́ thứ c bên lề và Truyện Kiều
có sự quan tâm nhân đạo nhất đến tầng lớp người dưới đáy xã hội. Nhữ ng nhà thơ khác, họ không kém
tài, nhưng họ là nhữ ng ngườ i thành đạt, đứ ng ở vi ̣ tri ́ trung tâm trong chế độ phong kiến, dùng Nho giáo


làm hạt nhân tư tưởng. Thơ của họ là thơ tụ ng ca, thơ hà nh đạo hoặc là thơ hưở ng lạc, tài tử của kẻ đã
thành đạt, ngât́ ngưở ng. Như vậy, rõ ràng là Ngô Minh thấy đồng cảm với Nguyễn Du hơn, hoặc thông
qua Nguyễn Du nhà thơ để nói lên tư tưởng của mình dễ dàng hơn, hoặc cả hai ý nghi ̃a đó. Để rồi qua
cuộ c đối thoại bằng thơ vớ i tiền nhân, Ngô Minh muốn gử i đến độc giả đương đại nhữ ng thông điệp
quan trọng đang hiện hữ u trong đờ i sống đó là thự c tại của văn chương nướ c nhà , và rộng ra, là cả bối
cảnh văn hóa với nhiều biến độ ng trong thờ i hộ i nhập.
Ngô Minh Viết về tiền nhân thuở trước với tất cả sự đồng cảm, trân trọng và cảm thông, điều đó
được thể hiện qua nhiều bài tiêu biểu khác như Bên thà nh nhà Hồ nghĩ về Hồ Quý Ly, Đi bộ vớ i cụ Tú
Xương, Nguyêñ Minh Châu, Ngô Kha - chào anh, Ghi ở đườ ng Kim Ngọc, Trần Dần cõi lặ ng, Nhớ ông
Nguyêñ Tuân, Tưởng niệm Văn Cao, Trướ c mộ cụ Phạm Quznh…Qua cuộ c đối thoại vớ i Hồ Quý Ly, Ngô
Minh thể hiện sự đồng cảm, ủng hộ, thương tiếc đối vớ i nhữ ng nỗ lự c đổi mớ i, canh tân nướ c nhà trong
cô đơn, bài thơ ra sức chiêu tuyết cho những hiểu lầm của lịch sử về mộ t triều đại soán ngôi, “ngụ y ” như
triều Hồ: “Tôi thương ông đơn độc/ Phát hành tiền giấy, dùng chữ Nôm/ Cải cách đo lường, cân, thướ c/
Ông đôỉ mớ i, nhưng chẳng ai nghe/ Trăm họ vinh thân trong cá i cũ” (Bên thà nh nhà Hồ nghi ̃ về Hồ Quý
Ly). Thể hiện sự đồng cảm vớ i nỗi cô đơn “canh tân trong đơn độ c” củ a Hồ Quý Ly, về thự c chât́ sâu xa
hơn, Ngô Minh muốn cât́ mộ t tiếng nói đồng cảm, ủng hộ với những người quyết tâm đổi mới nước nhà
trong thờ i kì hội nhập quốc tế. Trong một góc độ nào đó, Ngô Minh biết, nhượ c điểm củ a mộ t nhà canh
tân, cải cách quân sự, kinh tê,́ văn hóa tài ba như Hồ Quý Ly là không đượ c lò ng dân. Bài học ấy, cho đến
nay vẫn chưa hề cũ ki ̃ và trong bất cứ thời đại nào chúng ta cũng không đượ c phép sao nhãng.
Đối với cuộc đời những nhà văn từng chịu thân phận bên lề, ngoại biên, Ngô Minh luôn tìm thâý
ở họ sự lấp lánh của tài năng, sự dữ dộ i củ a tính cách và sự cô đơn bản thể thườ ng trự c củ a kiếp ngườ i.
Đó là những trường hợp như Nguyễn Tuân, Phùng Quán, Trâǹ Dần, Văn Cao, Phùng Cung,…họ là những văn
nghệ si ̃ lớ n củ a dân tộ c thờ i hiện đạ, nhưng
i

họ hoặc thuộ c về nhó m Nhân văn G
iai phẩm, hoặc thuộ c về
nhóm những người cách tân, đổi mớ i từ ng chi ̣u nhiều kì thi
, câ
̣ ́m đoán. Nhữ ng đối thoại thơ của Ngô Minh
vớ i nhữ ng danh nhân, tiền nhân trong trườ ng hợ p này không phải là sự biện hộ hay giãi bày đối vớ i nhữ ng
con người ít nhiều từng rơi vào vòng xoáy của sự bỏ rơi
, bị đẩy ra ngoài lề đời sống văn học
, mà thực ra, đó là
sự đồng cảm chân thà nh trướ c nhữ ng tài năng nghệ thuật lớ, nhữ
n ng cá tính sáng tạo tiêu biểu củ a văn họ c
Việt Nam thế kỷ XX. Cuộ c sống mưu sinh gian khó giữ a đờ i thườ ng nhưng giản, di
gậ ̀ n gũ i vớ i nhân dân của
Phùng Quán đã được Ngô Minh khắc họa
: “còn lại anh/ nhân vậ t của chính mình/ 30 năm/ cá trộm/ văn chui/
rượ u chịu/ 30 năm/ vịn câu thơ đứ ng dậy” (Phùng Quán II).
Cuối cù ng, khi tât́ cả đã trôi qua, chỉ còn tác phẩm văn học là cái còn lại, và cũng chỉ có cái đẹp là
bât́ tử trướ c thờ i gian. Ngườ i nghệ si ̃ có thể sai lầm trên mọ i phương diện, kẻ khiếm khuyết và thât́ bại


trong đờ i sống và mọ i li ̃nh vự c, nhưng chi ̉ cần họ cò n để lại nhữ ng tác phẩm bât́ hủ cho đờ i sau thì họ sẽ
còn mãi bất tử trước thời gian. Thơ là tiếng gọi đồng vọng của trái tim là vì thế, trong phần Thơ tặng của
mình, Ngô Minh đã thực sự thấu hiểu nỗi đời và lòng người, chính điều đó đã giúp ông có cái nhìn cảm
thông và ngưỡng mộ với những người dù sống xa mình nhiều thế kỉ, song vì tri ân mà có được cuộc gặp
gỡ kì ngộ cùng văn chương. Ông viết tặng Nguyễn Trọng Tín cũng là tặng cho chính mình, cho chính các
nhà thơ: “Nước non ngàn dặm mong gần/ Núi cao vực thẳm phong trần sá chi/ Thơ còn đêm thức ngày
đi/ Khi nơi chót Mũi khi kề Hương Giang” (Khuya Huế uống với bạn Cà Mau). “Tư duy thơ hướng nội là
tư duy tự nhận thức bản thân” *57,tr247+. Ngô Minh đã tự { thức được về những truân chuyên của
người nghệ sĩ trên con đường mang thơ đến với cuộc sống. Tuy nhiên tiếng thơ của ông không vì thế mà
xa rời hiện thực, trái lại nhà thơ đã nhận thức và bộc lộ những trạng thái bên trong của tâm hồn mình.

“Người nghệ sĩ tự khai thác cảm xúc, các biểu tượng để trình bày những tư tưởng của riêng mình. Người
nghệ sĩ tự gặm nhấm bản thân, tự đốt mình cháy sáng” *57,tr427+.
1.3.2.

Thơ là điểm tựa tinh thần cho chính người sáng tạo

Mỗi nhà văn, nhà thơ chân chính thường có cách thể hiện quan niệm của mình về quá trình sáng
tác văn học. Có người bộc lộ bằng những phát ngôn trực tiếp, có người gửi gắm vào trong tác phẩm
thông qua hệ thống hình tượng. Những nhà văn, nhà thơ có quan niệm nghệ thuật độc đáo, tiến bộ và
thể hiện được quan niệm đó trong các sáng tác của mình thường gây được sự chú { của đông đảo bạn
đọc. Ngô Minh là một nhà thơ như vậy.
Trên hành trình sáng tác của mình ông khẳng định “Tôi mong thơ mình phải chia sẻ nhiều hơn
với những số phận bất hạnh giữa cuộc đời. Vâng, thơ phải chia sẻ, phải trở thành chỗ dựa tin cậy cho
tâm linh trước cơn cuồng phong của nhân tính” *44,tr275+. Đưa vào thơ mình chất “người” vô cùng
nhân ái, thể hiện ở cái nhìn đầy cảm thông, xa xót đối với những số phận bé nhỏ giữa dòng đời, Ngô
Minh đã thật sự thấu hiểu nỗi khổ đau của những kiếp người “ôi, khổ đau cũng cầu mong thêm được vài
phút sống” (Tìm tôi tìm Huế). Đọc thơ Ngô Minh người đọc sẽ hiểu được tâm trạng và những nghĩ suy
của nhà thơ khi rơi vào cảnh ngộ: “Lục túi tìm mười đồng bỏ vào mê nón mệ bên đường mà túi rỗng/
Thơ không bán được mệ ơi/ Thơ cũng ở ngoài cuộc đời, thưa mệ!” (Tìm tôi tìm Huế). Thơ Ngô Minh
không hề ở ngoài cuộc đời, thơ ông đằm sâu ở trong trái tim người đọc. Không có mười đồng bỏ vào mê
nón mệ bên đường nhưng nhà thơ đã bỏ vào nón cả một trái tim đồng cảm và tấm lòng nhân ái của
mình mà không chỉ có nhà thơ, không chỉ có mệ ngồi bên đường biết, tất cả chúng ta đều biết bởi thơ
Ngô Minh “là chỗ dựa tin cậy cho tâm linh”, là nơi để con người chia sẻ giãi bày cảm xúc thật nhất của
mình. Những tâm sự của Ngô Minh trong thơ làm ta nhớ đến hai câu thơ của Phùng Quán: “Có những
phút ngã lòng/ Tôi vịn câu thơ và đứng dậy”. Những câu thơ được viết ra với tâm trạng cực kz chân


thành với chính mình của tác giả. Tuổi thanh xuân sẽ tươi đẹp xiết bao, nhưng vì án văn tự mà ngược lại
thành dẫy đầy những cơn ác mộng. Tuy nhiên, với lòng yêu thơ và nghị lực sống phi thường, người nghệ
sĩ như Phùng Quán và rất nhiều những nhà thơ khác đã kiên định cùng “sống chết” với thơ trên tinh

thần thơ là điểm tựa tinh thần cho chính người sáng tạo. Nhờ thơ mà người nghệ sĩ đã dũng cảm đứng
lên để khẳng định mình. Cho đến thời điểm hiện tại Ngô Minh cũng phải thừa nhận rằng nhờ thơ mà
đứng dậy, mà nổi tiếng và nhiều người biết đến ông. Thơ chính là niềm tự hào của Ngô Minh, cho nên, ở
một phương diện nào đó ta thấy có sự đồng cảm gần gũi giữa Ngô Minh và Phùng Quán.
Trong hành trình văn chương, Ngô Minh luôn tuân thủ một nguyên tắc bất di bất dịch đối với thi
ca cũng như văn chương là: “Dù viết theo trường phái truyền thống, siêu thực, tượng trưng, tân hình
thức, hậu hiện đại…gì gì, thì trước hết phải hay, phải làm xúc động lòng người, phải làm cho người đọc
“nổi da gà”. Muốn như thế thơ trước hết phải là tâm trạng thật của cái tôi trữ tình” (Ngô Minh - Vài suy
nghĩ về thơ tân hình thức). Trong hầu hết các thi phẩm của mình, Ngô Minh luôn cố gắng nhập tâm để
bày tỏ cái tôi cảm xúc của mình qua thơ, bởi với ông thơ muốn hay được thì trước hết phải là tiếng nói
chân thực toát ra từ đáy lòng của người nghệ sĩ. Và, cái tôi trữ tình trong thơ Ngô Minh là một cái tôi
hướng nội. Nhà thơ luôn tự đào bới, mổ xẻ tâm can mình để cho ra những câu thơ là một thứ vàng
mười. Chính nhờ sự phân tâm, sự cùng đau, cùng chia sẻ và cảm thông mà thơ Ngô Minh luôn hướng
đến những tầng lớp người lao động nghèo nhưng đôn hậu. Ta bắt gặp trong thơ ông hình ảnh người mẹ
khổ đau ngồi ăn xin bên đường, những em bé mồ côi, người ăn mày, người vô gia cư, người bán kem…và
còn rất nhiều những số phận thiệt thòi, bất hạnh khác trong xã hội. Kể cả những người bạn thơ của Ngô
Minh vì l{ do tế nhị mà họ không xuất hiện trên văn đàn cũng được nhà thơ cảm nhận trong thơ như
một sự đồng cảm, chia sẻ và có cả một sự nuối tiếc trong đó.
Dù viết về bất cứ đề tài gì, Ngô Minh vẫn tâm niệm: “Thơ tôi là thơ thật, là thơ để giãi bày tâm
trạng, chia sẻ hoàn cảnh nên được nhiều người đồng cảm. Thơ ở trong lòng người là niềm hạnh phúc
lớn nhất của nhà thơ” *44,tr276+. Cho đến bây giờ, khi vừa hoàn thành xong bộ Ngô Minh tác phẩm, tác
giả đã thực sự làm được điều đó. Điều đầu tiên của thành công ấy, phải nói đến là cái chất văn chương
của Ngô Minh, ông viết như đào bới ruột gan mình ra mà viết, bày ra hết những nỗi niềm đa mang, hồn
hậu về tình người, tình đất thông qua những trang viết của mình. Người đọc lắng nghe trong bản giao
hưởng của Ngô Minh những âm thanh quen thuộc: “Căn phòng tôi - góc mùa đông bé nhỏ vọng tiếng
mưa, tiếng guốc em về”. Có trong bản giao hưởng đó những mảnh đời hiện tại: “Tiếng em bé rao: Ai mì
nóng không? Xe xiết trong mưa khuya...”. Có trong bản giao hưởng bao suy tư, trăn trở: “mưa ơi, tôi biết
lòng mưa vô bờ bến nhưng mưa chẳng phải là mưa thánh để tôi có thể vẩy cho em giải thoát khổ
nghèo”... (Quà tặng xứ mưa). Không thể giúp được gì, Ngô Minh chỉ còn biết bày tỏ cùng thơ để mong



có thể chia sẻ nỗi đau thân phận với những hoàn cảnh trớ trêu phải chịu nhiều thiệt thòi. Với quan niệm
thơ là chỗ dựa tin cậy cho tâm linh trước cơn cuồng phong của nhân tính, thơ Ngô Minh đã cúi xuống
nỗi đau của con người, cùng đau với họ. Cảm thông và chia sẻ với họ thật nhiều.
Ngô Minh từng tâm sự: “Tôi mang thơ mình chia sẻ nhiều hơn với những số phận bất hạnh giữa
cuộc đời. Vâng, thơ phải chia sẻ, phải trở thành chỗ dựa tin cậy cho tâm linh trước những cơn cuồng
phong của nhân tính” *44,tr275+. Thơ là tiếng lòng, cũng là tiếng tâm tình, thao thức của Ngô Minh dành
cho cuộc đời, con người, mà cụ thể hơn là cho thi hữu và những người thân yêu của nhà thơ. Qua thơ
mình, Ngô Minh có thể quan tâm được đến nhiều hơn những con người sinh ra đã thiệt thòi. Đó là
người bán kem chiều ba mươi tết, người ngủ ngày trên phố, những người bán hàng rong…tất cả đều
được nhà thơ gói gém lại trong những trang viết của mình. Qua thơ, ông hi vọng những con người
nghèo khổ, những số phận thiệt thòi bất hạnh sẽ không cảm thấy lẻ loi, cô độc, bơ vơ giữa cuộc đời nữa.
Thông điệp thơ Ngô Minh giàu cung bậc cảm xúc và tâm trạng là vì thế, ông đã nhìn thấy đáy của nỗi
buồn và sự trái ngang: “bạn ơi bạn ơi rượu hay nước mắt/ cạn túi mươi đồng cạn cốc tiễn nhau/ cay
đắng trong veo nồng nàn cũng trong veo/ trong veo câu thơ thương người biết khóc/ thôi bạn đi/ túi
sách vở muối mè đừng để mất/ con tàu thơ không có ga dừng” (Thơ tiễn bạn lên tàu đi học trường viết
văn Nguyễn Du).
Không có ga dừng, vì thế, thơ sẽ tiếp tục sứ mệnh của mình là chỗ dựa tin cậy cho tâm linh, là
điểm tựa tinh thần vững chắc cho chính người sáng tạo. Cuộc sống hiện đại ngày nay dù đã tốt hơn
trước kia rất nhiều, đã qua rồi thời chiến tranh bom đạn và chết chóc, đói nghèo và lạc hậu, nhưng đây
đó xung quanh chúng ta vẫn còn rất nhiều những mảnh đời bất hạnh, trái ngang. Hình ảnh người mẹ
nghèo trong bài thơ Tìm tôi tìm Huế, hình ảnh Người bán kem chiều ba mươi tết, rồi hình ảnh Người ngủ
ngày trên phố xuất hiện trong thơ Ngô Minh như một sự trăn trở thật xúc động của tác giả: “Cờ rem đây,
ai cờ rem…/ Tiếng rao nghẹn gió/ Thập thững bóng mùa đông/ Rao khan chiều Bến Ngự (Người bán
kem chiều ba mươi tết).
Tác giả đã nhập vào hoàn cảnh và số phận của những người lao động nghèo để ngậm ngùi cho nỗi bi
thiết bị người đời vô tình để ngoài tầm mắt một sự cảm thông và chia sẻ: Que kem hay trái tim mình/
chiều ba mươi tết Thìn/ tan chảy! Trái tim nhà thơ đã thực sự bị tan chảy trước những cảnh đời éo le và
cảm thấy đau lòng trước sự vô tâm của người đời: “Người ngủ ngày trên phố/ Dáng chiếc đòn gánh oằn
cong/ Gánh con phố vô tâm và dòng người vô cảm” (Người ngủ ngày trên phố). Còn nhiều những câu

thơ nhân tình như thế trong các thi phẩm của Ngô Minh, ông viết lên bằng tất cả sự cảm thông và thấu
hiểu với một niềm khát khao cháy bỏng về tình người ấm TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1969 ), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới (bản dịch tiếng
Việt của Nxb Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du), Nxb Đà Nẵng, Đà nẵng.


2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.

24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.

Ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam (2010), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội
Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu Tá (2005 – đồng chủ biên), Từ điển văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội
Khánh Chi (2009), “Tìm lại mình qua vần cũ”, nguồn:
Nguyễn Phan Cảnh (2007), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
Ngô Cang (2002), “Gió lạnh đầu mùa đọc thơ Ngô Minh”, Báo Thừa Thiên Huế cuối tuần, (số 9),
tr.5
Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân 1975 – 2000, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội
Vũ Dũng (2000), Từ điển tâm l{ học Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
Nguyễn Tiến Đạt (2004), “Ngô Minh – Đứa con của cát”, Tạp chí Cửa Việt, (số 5), tr.11-14.
Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Thơ Việt Nam 1975 - từ cái nhìn toàn cảnh”, Tạp chí nghiên cứu Văn
học, (số 11), tr. 29 - 34.
Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Hà Minh Đức (Chủ biên) ( 1991), Mấy vấn đề l{ luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại Quảng Bình, Nxb Chi hội Nhà văn Việt Nam,
Quảng Bình.

Nhiều tác giả (2010), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2011), Thơ lục bát Việt Nam, tập I, Nxb Văn học, Hà Nội.
Hồ Thế Hà (2005), Thơ và thơ Việt Nam hiện đại (chuyên luận) Trường Đại học Khoa học Huế
Hồ Thế Hà (2011), Thơ lục bát Việt Nam trên hành trình hiện đại, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.45-46.
Hồ Thế Hà (2015), “Thi pháp lục bát Ngô Minh”, https://ngominhblog.
Inrasara (2008), Song thoại với cái mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, (tr.11)
Nguyễn Thị Bích Kiều (2015), Luận văn “Thế giới nghệ thuật thơ Ngô Minh”,
https://ngominhblog.
Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2007), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục Tp. Hồ Chí Minh.
L{ Hạnh (2007), “Tiếng bật từ trái tim”, nguồn:
Nguyễn Hưng Hải (2006), “Thấy Ngô Minh trong Lệ Thủy mút mùa”, Báo mạng Đảng cộng sản
Việt Nam, (số 6), tr.7
Mai Văn Hoan (2009), “Ngô Minh – người của công chúng”, nguồn:

Nhất Lâm (1997), “Từ Chân sóng đến Quà tặng xứ mưa”, Tạp chí Sông Hương, (số 9), tr.6-9
Mạnh Lê (1999), “Nhớ mạ - nén nhang thơm thảo của đứa con xứ cát”, Báo Văn Nghệ, (số xuân
năm 1999), tr.8
C.G.Liungman (1992), Từ điển biểu tượng, Nhà xuất bản văn hóa, Hà Nội
Lê Huy Mậu (2015), “Ngô Minh làm tuyển”, nguồn:
Ngô Minh (1985), Phía nắng lên (thơ), Nxb Thuận Hóa, Huế.
Ngô Minh (1987), Chiếc lá biết đi (thơ - in chung), Sở Văn hóa thông tin, Thừa Thiên Huế.


×