VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN THUẤN
HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI GIẢI TRÍ CHO
THIẾU NIÊN, NHI ĐỒNG Ở PHƢỜNG PHÚC XÁ,
QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Văn hóa học
Mã số
: 60.31.06.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. LÊ HỒNG LÝ
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành
luận văn Thạc sĩ Văn hóa học với đề tài: “Hoạt động vui chơi giải trí cho
thiếu niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá, quận Ba Đình, TP Hà Nội”.
Trước tiên, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể Quý thầy
cô đã và đang giảng dạy, công tác tại Học viện Khoa học xã hội, đặc biệt là
Quý thầy cô của khoa Văn hóa học, những người tận tình chỉ bảo, giúp đỡ và
định hướng cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến GS.TS. Lê Hồng Lý, người đã quan
tâm, định hướng và có nhiều những góp ý hữu ích giúp tôi trong quá trình
thực hiện luận văn của mình. Cảm ơn thầy vì đã cho tôi có được một góc nhìn
mới trong lĩnh vực nghiên cứu Văn hóa.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cơ quan đoàn thể, tổ chức, cá nhân đã
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập thông tin và các tài liệu liên quan.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp và cơ quan nơi tôi công tác đã hết sức động viên, giúp đỡ, tạo
điều kiện về tình thần và thời gian để tôi có thể hoàn thành được luận văn này.
Xin trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn
Trần Văn Thuấn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn thạc sĩ “Hoạt động vui chơi giải trí
cho thiếu niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá, quận Ba Đình, TP Hà Nội” là
công trình tổng hợp tư liệu và nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến, nhận định, tư liệu khoa học
của các tác giả được ghi chú xuất xứ đầy đủ.
Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn
Trần Văn Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN
CỨU ........................................................................................................ 7
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 7
1.2. Khái quát về khu vực cư dân ở phường Phúc Xá ................................... 21
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI GIẢI TRÍ CHO
THIẾU NIÊN, NHI ĐỒNG TẠI PHƢỜNG PHÚC XÁ HIỆN NAY ....... 27
2.1. Các khu vui chơi giải trí ở phường Phúc Xá .......................................... 27
2.2. Hoạt động vui chơi giải trí cho thiếu niên, nhi đồng tại phường Phúc Xá
trong thời gian qua ....................................................................................... 30
Chƣơng 3 MỘT SỐ XU HƢỚNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI GIẢI TRÍ CHO THIẾU NIÊN, NHI ĐỒNG Ở
PHƢỜNG PHÖC X HIỆN NA ............................................................. 55
3.1 Xu hướng hoạt động vui chơi giải tr cho thiếu niên, nhi đồng tại phường
Phúc Xá ........................................................................................................ 55
3.2. Vấn đề đặt ra đối với hoạt động vui chơi giải trí của thiếu niên, nhi đồng
phường Phúc Xá ........................................................................................... 62
KẾT LUẬN ................................................................................................. 74
TÀI IỆU THAM
HẢO.......................................................................... 76
PHỤ LỤC.................................................................................................... 80
DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Nxb:
Nhà xuất bản
TNTPHN:
Thanh niên thành phố Hà Nội
TLPV:
Tư liệu phỏng vấn
TP.HCM:
Thành phố Hồ Chí Minh
Tr:
Trang
UBND:
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thiếu niên, nhi đồng là lứa tuổi từ 6 - 15 chiếm một phần khá lớn trong
xã hội, là vốn qu của quốc gia, là chủ nhân tương lai của đất nước. Lứa tuổi
thiếu niên, nhi đồng rất hiếu động, rất ham chơi nhưng cũng dễ tiếp thu và nhạy
cảm với những cái mới, cái hiện đại. Để xứng đáng là chủ nhân tương lai của
đất nước, thế hệ thiếu niên, nhi đồng cần phải được, giáo dục, rèn luyện, bồi
dưỡng trên mọi lĩnh vực, kể cả trong vui chơi giải tr nhằm phát triển, hoàn
thiện nhân cách. Có thể nói lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng là giai đoạn chuẩn bị
bước sang tuổi trưởng thành cả về thể chất lẫn tinh thần với những đặc điểm
tâm, sinh lý khá phức tạp. Đây là lứa tuổi có vị tr đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển tâm lý. Ở lứa tuổi này, trẻ có nhu cầu phát triển mạnh cả về tr tuệ lẫn
thể chất, t nh chất “học mà chơi, chơi mà học” là đặc điểm tâm - sinh lý hết sức
quan trọng và đặc trưng cho mọi hoạt động học tập, lao động, vui chơi của các
em. Vì vậy, song song với việc đặt những viên gạch đầu tiên cho nền móng của
kiến thức văn hóa và khoa học trong tương lai các em cần phải biết đến các
hoạt động vui chơi giải tr một cách lý thú, bổ ch và phù hợp với lứa tuổi. Để
qua đó, các em có thể giảm bớt được sự căng thẳng sau những giờ học trên lớp,
có thể thoải mái vui đùa với bạn bè. Đồng thời, qua hoạt động vui chơi giải tr
các em có thể rèn luyện để phát triển về thể lực và phẩm chất tốt đẹp của nhân
cách như xúc cảm thẩm mỹ, tinh thần tương thân tương ái, t nh kiên trì bền bỉ,
t nh t ch cực, độc lập và tính sáng tạo.v.v..
Sự phát triển tr tuệ và thể lực của tuổi thiếu niên, nhi đồng ngoài việc
chịu tác động mạnh mẽ của sự biến đổi tâm, sinh lý bên trong, còn chịu ảnh
hưởng của môi trường xung quanh như: gia đình, nhà trường và xã hội. Các
hoạt động nói chung và hoạt động vui chơi giải tr nói riêng muốn phát triển
1
tình cảm, tr tuệ và thể lực cho thiếu nhi thì các hoạt động vui chơi giải tr
phải hấp dẫn, hợp lý. Điều này có vai trò và ý nghĩa vô cùng lớn lao trong sự
hình thành và phát triển bền vững các phẩm chất đạo đức và tr lực nói riêng
và hình thành nhân cách nói chung ở các em.
Việt Nam là đất nước đầu tiên ở châu Á tham gia “Công ước quốc tế về
Quyền trẻ em”, Quốc hội nước ta cũng đã thông qua “Luật bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em” từ năm 1991. “Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai”, đó
là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, sự phồn vinh của mỗi quốc gia trong
tương lai.
Khu vực phường Phúc Xá, Hà Nội được hình thành muộn, người dân
định cư và lập nghiệp đông đúc trong những năm gần đây. Thời gian qua, tại
khu vực này đã diễn ra một số hoạt động phục vụ nhu cầu của thiếu niên, nhi
đồng. Tuy nhiên, hoạt động vui chơi giải tr cho thiếu niên, nhi đồng chủ yếu
còn mang t nh thụ động, chưa đi vào chiều sâu để đạt hiệu quả giáo dục cao
cho lứa tuổi này. Do đó, việc làm rõ tầm quan trọng của “ Sự chơi”, “Sự giải
trí” và nhu cầu vui chơi giải tr , thực trạng của hoạt động vui chơi giải tr cho
thiếu niên, nhi đồng là cần thiết để tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động
vui chơi giải tr cho các em. Điều này sẽ góp phần quan trọng trong công tác
giáo dục và hình thành nhân cách, hướng cho thiếu niên, nhi đồng phát triển
toàn diện cả về tr , lực, là việc làm rất cần thiết hiện nay.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Hoạt động vui
chơi giải trí cho thiếu niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá, quận Ba Đình,
TP Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học, mong muốn góp
phần nhỏ vào công tác giáo dục, hình thành nhân cách toàn diện cho thiếu
niên, nhi đồng tại một khu vực cụ thể của Hà Nội.
2
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, nghiên cứu về hoạt động vui chơi giải tr đã được quan
tâm nhiều hơn trong những năm gần đây. Các nhà nghiên cứu về du lịch đã
tìm hiểu các nhân tố trực tiếp tác động đến sự hình thành và phát triển du lịch
và vui chơi giải tr :
- Nguyễn Thị Thu Phượng (2016), “Văn hóa giải tr của công nhân tại
khu công nghiệp Đồng Văn, tỉnh Hà Nam”, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học.
Nội dung đề tài đề cập đến phần cơ sở lý luận và thực tiễn đề tài; sau đó là
việc mô tả và giới thiệu về công nhân lao động ở khu công nghiệp Đồng Văn
và văn hóa giải tr của họ; cuối cùng tác giả luận văn đã nhận định về văn hóa
giải tr của công nhân lao động tại khu công nghiệp Đồng Văn hiện nay và một
số vấn đề đặt ra. Trong nội dung bản luận văn này, tác giả luận văn đã phân
t ch khá kỹ những luận điểm về hoạt động giải tr của đối tượng công nhân và
đây cũng là nguồn tư liệu tốt để tham khảo trong việc triển khai đề tài.
- Tác giả Phạm Duy Đức chủ biên đề tài “Hoạt động giải tr ở đô thị
Việt Nam hiện nay (Những vấn đề lý luận và thực tiễn)”. Nội dung đề tài là
việc tập hợp 09 bài viết của các chuyên gia văn hóa và được chia thành ba nội
dung ch nh, đó là: Vai trò của việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong
các hoạt động vui chơi giải tr đối với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc ở đô thị nước ta hiện nay; thực trạng hoạt động vui
chơi giải tr ở đô thị trong thời kỳ đổi mới vừa qua; phương hướng và giải
pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các hoạt động vui
chơi giải tr ở khu vực đô thị thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tác giả Đinh Thị Vân Chi, chủ biên Nhu cầu giải tr của thanh niên
(sách tham khảo) với những số liệu điều tra xã hội học tương đối phong phú
về đối tương thanh niên ở một số thành phố lớn trong đó sách đã làm sáng tỏ
hai vấn đề đó là:
3
Khía cạnh sinh học: Giải tr là những hoạt động nhằm giải tỏa sự căng
thẳng tr não, giúp nó thư giãn, phục hồi khả năng hoạt động mệt mỏi, để có
thể tiếp tục làm việc.
Khía cạnh xã hội: Con người giải tr không phải đơn thuần chỉ để giải
tr . Mọi hoạt động của con người đều có mục đ ch mang lại cho sự phát triển
về tr tuệ và nhân cách, sự thư thái, sảng khoái và những khoái cảm thẩm mỹ.
Nội dung ch nh của 3 chương là: chương I cuối sách tập trung trình bày cơ sở
lý luận về nhu cầu vui chơi giải tr ; chương II được dành phân t ch kết quả
những nghiên cứu thực tiễn về khuân mẫu giải tr của thanh niên hiện nay và
thực trạng đáp ứng của xã hội đối với nhu cầu đó; chương III phân t ch xu
hướng biến đổi nhu cầu giải tr của thanh niên trong giai đoạn hiện tại về đề
xuất các giải pháp nhằm định hướng và thỏa mãn nhu cầu giải tr ngày càng
cao, qua đay cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho nội dung triển khai luận
văn sau này.
- Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết (2000), Trò chơi trẻ em, Nxb. Phụ nữ, Hà
Nội.; Bạch Văn Quế (2003), Giáo dục bằng Trò chơi, Nxb. Thanh niên, Hà Nội;
Nguyễn Quang Khải (1999), Những trò chơi của trẻ em nông thôn đồng bằng
Bắc bộ trước 1954, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội; Liên Hương (2002), Cẩm
nang trò chơi, Nxb Trẻ tp. HCM.
- Tác giả Hà Nhật Thăng (2001), Tổ chức hoạt động vui chơi tiểu học
nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ và thể lực cho học sinh, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội; và một số các dự án quy hoạch phát triển du lịch (1996), Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch Việt Nam (1995- 2010), Quy hoạch tổng thể phát triển
trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận (1998- 2010), Viện nghiên cứu phát
triển du lịch, Hà N ội. . . Gần đây có một số bài báo và tạp ch đã lên tiếng
cảnh báo về những mặt tiêu cực trong các hoạt động vui chơi giải tr như tệ
nạn xã hội trong các nhà hàng, vũ trường, điểm dịch vụ Internet công cộng, ở
4
các tụ điểm vui chơi giải tr công cộng khác. Tình trạng cung cấp dịch vụ đồ
chơi cho trẻ em vô bổ, mang t nh bạo lực.v.v..
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về hoạt động vui chơi giải tr cho
thiếu niên, nhi đồng là khá nhiều, song việc nghiên cứu về hoạt động này tại một
địa bàn cụ thể là phường Phúc Xá chưa có công trình, bài viết nào. Vì vậy, tác giả
đã lựa chọn đề tài vui chơi giải tr cho thiếu niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá, Hà
Nội là đối tượng nghiên cứu của luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Văn hóa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: Khảo sát, đánh giá về hoạt động vui chơi giải trí cho
thiếu niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá, Hà Nội; xem xét các vấn đề đặt ra
đối với việc vui chơi giải tr cho thiếu niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá, Hà
Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
- Trình bày cơ sở khoa học trong hoạt động vui chơi giải tr cho thiếu
niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá, Hà Nội và khái quát địa bàn nghiên cứu.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động vui chơi giải tr của thiếu niên, nhi
đồng ở phường Phúc Xá, Hà Nội hiện nay.
- Xem xét một số xu hướng và vấn đề đặt ra đối với hoạt động vui chơi
giải tr của thiếu niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá, quận Ba Đình, Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Các hoạt động vui chơi giải tr cho thiếu
niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá, Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về hoạt
động vui chơi giải tr cho thiếu niên, nhi đồng (lứa tuổi từ 06 đến 15 tuổi) ở
phường Phúc Xá, Hà Nội hiện nay.
5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu liên ngành như: Văn hóa học, xã hội học, lịch
sử… Đồng thời, sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp các nguồn
tư liệu đã có để phục vụ cho công việc triển khai nội dung đề tài.
Sử dụng phương pháp khảo sát thực tế tại phường Phúc Xá như: quan sát,
điều tra, phỏng vấn, thu thập thông tin phục vụ cho việc triển khai các nội dung
trong luận văn. Trên cơ sở sử dụng các phương pháp cụ thể, tác giả luận văn sẽ
triển khai lấy tư liệu thứ cấp tại 09 tổ dân phố và cơ quan cấp phường, sau đó
triển khai việc tổng hợp tư liệu cần thiết cho các nội dung của đề tài luận văn.
6. Ý nghĩa và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống và khái quát về vai trò hoạt động vui chơi giải tr và các
chức năng của nó trong xã hội và tác động của nó đối với sự phát triển toàn
diện của thiếu niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động vui chơi giải tr cho thiếu
niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá, Hà Nội.
- Xem xét những vấn đề đặt ra đối với các hoạt động vui chơi, giải tr
tại đây, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng hiệu quả của các hoạt động vui chơi giải tr cho thiếu niên, nhi đồng tại
các địa điểm vui chơi giải tr ở phường Phúc Xá.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung
luận văn chia thành 03 chương như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và khái quát địa bàn nghiên cứu.
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động vui chơi giải tr cho thiếu niên, nhi
đồng tại phường Phúc Xá hiện nay.
Chƣơng 3: Một số xu hướng vấn đề đặt ra đối với hoạt động vui chơi
giải trí cho thiếu niên, nhi đồng ở phường Phúc Xá hiện nay.
6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Vui chơi giải trí và hoạt động vui chơi giải trí
Theo từ điển Hán - Việt. Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh giải
th ch “Giải trí là việc làm rỗi, làm cho tr não được khoan khoái, gần nghĩa
với giải trí là tiêu khiển, tiêu khiển là giải muộn, khuây sầu. Giải tr còn đồng
nghĩa với vui chơi cho nên người ta thường nói chung là vui chơi giải trí
Theo từ điển Xã hội học văn hóa, Vui chơi giải trí là một dạng hoạt
động của con người, đáp ứng những nhu cầu phát triển của con người về các
mặt thể chất, trí tuệ và mỹ học và “Giải trí không chỉ là nhu cầu của từng cá
nhân, mà còn là nhu cầu của đời sống cộng đồng” [44, tr.116]
Giải trí là một dạng hoạt động xã hội: Theo quan niệm phổ biến trước
đây, giải tr thường được đặt đối lập với lao động, bị đồng nhất với lao động,
bị đồng nhất với tình trạng “ăn không ngồi rồi” và là “nguồn sinh ra mọi tật
xấu” (nhàn cư vi bất thiện), nên hầu như không được chấp nhận. Nếu như
hoạt động sản xuất được bám sát chặt chẽ vì là điều kiện để xã hội tồn tại thì
ngược lại, hoạt động vui chơi giải trí (giống như tất cả những gì ngoài lao
động hoặc đối lập với lao động) được xác định một cách dễ dãi, thậm chí tùy
tiện. Nguồn năng lượng dành cho giải tr được coi là năng lượng không hiệu
quả bởi nó không sinh ra các sản phẩm vật chất. Trên thực tế, giải trí không
đối lập và tách rời với lao động. Cũng như lao động, giải trí là một bộ phận
cấu thành các hoạt động sống của con người [10, tr.33].
7
Vui chơi giải trí là một hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển thể
chất, trí tuệ, tình cảm, tính cộng đồng và tĩnh yêu thương của con người. Vui
chơi là nhu cầu bẩm sinh của mọi trẻ em vì nó không chỉ thỏa mãn sự ham
thích hoạt động mà còn thỏa mãn trí hiếu kỳ, mong được tìm hiểu thế giới
xung quanh. Hoạt động vui chơi giải tr có liên quan đến quá trình trao đổi
chất, làm cho cơ bắp cũng như hệ thần kinh phát triển cân bằng. Vui chơi giúp
cho trẻ em mở rộng giao tiếp với con người và thế giới tự nhiên, phát triển các
cảm xúc trong đó có cảm xúc thẩm mỹ. Do đó, vui chơi giúp cho trẻ có khả
năng phát triển về nhận thức xã hội, phát triển về trí tuệ và thể lực.
Vui chơi còn được coi như là hình thức “lao động” của trẻ em, là hình
thức học tập, vì vậy vui chơi còn mang trong đó chức năng văn hóa, chức
năng giáo dục “Học mà chơi, chơi mà học’’ đã trở thành phương châm giáo
dục đối với lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng.
Hoạt động giải trí nằm trong hệ thống các hoạt động của con người và
là hoạt động duy nhất không gắn với nhu cầu sinh học nào. Trẻ em ở mọi lứa
tuổi đều có một dạng vui chơi mang t nh đặc trưng, phù với trạng thái phát
triển về tâm, sinh lý và nhu cầu. Điều này đòi hỏi điều kiện cơ sở vật chất, nội
dung, hình thức hoạt động vui chơi giải tr cũng phải có sự tương hợp.
Mục đ ch của các hoạt động vui chơi giải trí cho thiếu niên, nhi đồng:
- Rèn luyện phát triển thể lực khỏe mạnh
- Thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, khám phá, hưởng thụ và sáng tạo nghệ thuật
- Bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ và tình cảm đạo đức
- Hình thành nhân cách công dân tốt của tương lai
Vậy, mục đ ch vui chơi giải trí của thiếu niên, nhi đồng phải đáp ứng
được các yêu cần phát triển về “Đức, trí, thể, mỹ”, vui chơi phải theo phương
châm: Sâu sắc, toàn diện, cụ thể sao cho thiết thực, bổ ch, sinh động, hấp
dẫn, tránh máy móc miễn cưỡng [35, tr.95].
8
Văn hóa giải trí, một bộ phận của văn hóa đại chúng là một trong
những biểu hiện rõ nét nhất của tồn tại văn hóa xã hội của các cộng đồng phát
triển hiện đại, về mặt lý luận, loại hình văn hóa này vẫn chưa được quan tâm,
nghiên cứu một cách thấu đáo như vị trí vốn có của nó trong nền văn hóa
đương đại. Như vậy vui chơi giải trí là những hoạt động tạo cho thiếu niên,
nhi đồng một đời sống về tinh thần trong sáng, lành mạnh, phấn chấn… giúp
cho thiếu niên, nhi đồng phát triển toàn diện, vậy coi văn hóa vui chơi giải trí
là một trong những cấu trúc chỉnh thể của văn hóa cộng đồng.
1.1.1.2. Các hình thức hoạt động vui chơi giải trí cho thiếu niên, nhi đồng
Trong những năm gần đây, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
như tuyên truyền thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Công ước
quốc tế quyền trẻ em, tổ chức các diễn đàn, xây dựng các mô hình truyền
thông... về chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đặc biệt, thông qua các điểm vui chơi
cộng đồng, nhà văn hóa tổ dân phố…, đã tổ chức rất nhiều hoạt động vui chơi
giải trí thu hút đông đảo thiếu niên, nhi đồng tham gia.
Hoạt động vui chơi giải trí nằm trong hoạt động hệ thống của con người,
trong bất kỳ xã hội nào cũng có 4 dạng hoạt động mà con người phải thực hiện:
- Hoạt động lao động sản xuất để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của
cá nhân và xã hội. Đó là nghĩa vụ xã hội của mỗi người.
- Hoạt động thuộc các quan hệ cá nhân trong xã hội như nuôi dạy con
cái, chăm sóc gia đình, thăm viếng họ hàng, bạn bè… Đó là nghĩa vụ cá nhân
của mỗi người.
- Hoạt động thuộc đời sống vật chất của con người như nấu nướng, ăn
uống, nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân… Đó là hoạt động thỏa mãn nhu cầu vật
chất của mỗi người
- Hoạt động thuộc đời sống tinh thần của cá nhân như thưởng thức nghệ
thuật, chơi các trò chơi, sinh hoạt tôn giáo… Đó là hoạt động thỏa mãn nhu
cầu tinh thần của mỗi người [12, tr.124]
9
Trong công cuộc đổi mới đất nước, việc chăm sóc và giáo dục thiếu
niên, nhi đồng, tạo điều kiện cho thiếu niên, nhi đồng tham gia các hoạt động
vui chơi giải trí, vừa chơi vừa học thông qua nhiều phong trào, hình thức vận
động khác nhau. Phong trào "Nói lời hay, làm việc tốt, xứng đáng là con
ngoan trò giỏi, đội viên tốt, cháu ngoan Bác Hồ" được phát động nhằm thừa
kế và phát triển các phong trào truyền thống của tổ chức Đoàn, Hội, Đội đã
tập trung vào 3 nội dung chính: Dạy các em biết ứng xử có văn hoá trong lời
nói, hướng dẫn và khuyến khích các em làm việc tốt trong học tập, trong lao
động, động viên các em phấn đấu trở thành cháu ngoan Bác Hồ.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, các hoạt động vui chơi
giải trí cho thiếu niên, nhi đồng hiện nay cũng gặp không t khó khăn. Trước
hết là nhận thức của một bộ phận cán bộ, phụ trách thiếu niên, nhi đồng còn
hạn chế, chưa nhận thức đúng và đầy đủ về quyền tham gia vui chơi của thiếu
niên, nhi đồng dẫn đến khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện. Việc
tham mưu xây dựng các trung tâm, điểm vui chơi cũng như hoạt động cho
thiếu niên, nhi đồng tham gia vui chơi còn manh mún, chưa được đầu tư và
triển khai một cách đồng bộ có hệ thống. Cơ sở vật chất để hoạt động chưa tốt
về chất lượng. Mặt khác, các chính sách hiện nay chưa phản ánh đúng các yêu
cầu thực tế để thu hút được các nguồn lực cần thiết cũng như đẩy mạnh, xã
hội hoá các hoạt động vui chơi giải trí cho thiếu niên, nhi đồng. Bên cạnh đó,
thực tiễn công tác thiếu niên, nhi đồng những năm gần đây cũng xuất hiện
nhiều vấn đề mới như học sinh học quá nhiều, internet hay bạo lực thiếu niên,
nhi đồng. Nhiều vấn đề mà các cấp, các ngành cũng như nhiều cơ quan bộ,
ngành liên quan khác chưa có sự can thiệp và hỗ trợ kịp thời. Các diễn đàn
của thiếu niên, nhi đồng về những vấn đề mà các em quan tâm, của xã hội
hướng đến các em được hoạt động nhưng chưa nhiều, chưa thực sự đem lại
10
hiệu quả cao trong công tác vận động chính sách dẫn đến việc thúc đẩy các
hoạt động vui chơi giải trí cho thiếu niên, nhi đồng còn hạn chế.
1.1.1.3. Nhân cách và yếu tố thành nhân cách của thiếu niên, nhi đồng
thông qua hoạt động vui chơi giải trí.
Trên cơ sở phân t ch mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố sinh học và
nhân tố xã hội trong con người, lý giải sự hình thành nhân cách dưới tác động
của môi trường xã hội và t nh t ch cực của mỗi cá nhân. Theo đó, nhân tố xã
hội cơ bản có ảnh hướng lớn đến sự hình thành nhân cách là tồn tại xã hội,
hoàn cảnh sống mang t nh lịch sử - cụ thể mà cá nhân đó sống. Còn tính tích
cực xã hội của mỗi cá nhân, một mặt, phụ thuộc nào nhu cầu và lợi ch của
họ, mặt khác, phụ thuộc vào môi trường xã hội và khuynh hướng tiến bộ xã
hội, như nền dân chủ, các quan hệ xã hội…
Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng tới sự phát triển con người, ảnh
hưởng tới cơ cấu và chức năng… của cơ thể. Nếu con người t tiếp xúc, trao
đổi với người xung quanh hoặc sống trong môi trường xã hội quá đơn điệu thì
sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém sự linh động. Nghiên cứu sự tác động qua lại
giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người là để thấy được những
hạn chế trong các quan niệm cực đoan về cái sinh học, cái xã hội trong con
người của một số trường phái triết học “Thực tế cho thấy rằng, những quy luật
sinh học chi phối mặt sinh học, còn quá trình con người gia nhập xã hội sẽ
quyết định mặt xã hội trong con người. Điều này thể hiện rõ nhất ở những đứa
trẻ sinh ra từ cùng một trứng. Những đứa trẻ này giống nhau về mặt di
truyền”. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình phát triển, chúng có thể mắc một
số bệnh giống nhau, như bệnh về mắt hay nội tiết, tức là ở đây, mặt sinh học
đóng vai trò không nhỏ. Song, nếu được nuôi dưỡng trong những môi trường
xã hội khác nhau thì những đứa trẻ này cũng có sự phát triển khác nhau.
11
Nhân tố xã hội cơ bản có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển
nhân cách con người là tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang t nh lịch sử - cụ
thể mà cá nhân đó sống. Đó có thể là các tập đoàn xã hội, kiểu loại cộng đồng
dân tộc, tập thể... C.Mác đã nói: Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh vật
có t nh xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản t nh của mình
trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng bản t nh của anh ta, không phải
căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn
xã hội. Do vậy, ở mỗi thời đại khác nhau, như thời Cổ đại, Trung cổ, Cận đại,
Hiện đại… có những kiểu loại nhân cách khác nhau. Thời Cổ đại, khi nền
kinh tế chưa phát triển, của cải còn t, con người phải sống phụ thuộc vào tập
thể, nhân cách mỗi người hoà vào nhân cách tập thể. Thời Trung cổ, với sự ra
đời Kitô giáo, nhân cách chủ yếu hướng về đời sống tinh thần, về những giá
trị đạo đức thuần túy, con người sống nhưng luôn chuẩn bị cho đời sống của
mình sau khi chết. Thời Cận đại, với sự khẳng định giá trị con người, nhân
cách đã mang t nh độc lập sáng tạo…[20, tr.9,10]
Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta thấy, môi trường, hoạt động hàng
ngày có ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển nhân cách, vì
vậy, việc tạo ra một môi trường đảm bảo cho nhân cách có sự phát triển hài
hòa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, thiết nghĩ, là điều cần thiết. Ngược lại, những nhân cách có đủ đức và tài
sẽ là điều kiện để chúng ta đạt được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh".
Các yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách thiếu niên, nhi đồng.
Yếu tố di truyền
Các yếu tố bẩm sinh di truyền đóng vai trò tiền đề tự nhiên, là cơ sở
vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Các yếu tố bẩm sinh di
truyền như đặc điểm hoạt động của hệ thần kinh, cấu tạo của não, cấu tạo và
12
hoạt động của các giác quan… Những yếu tố này sinh ra đã có do bố mẹ
truyền lại hoặc tự nảy sinh do biến dị (bẩm sinh).
Di truyền là sự tái tạo ở đời sau những thuộc t nh sinh học có ở đời
trước, là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm những phẩm
chất nhất định (sức mạnh bên trong cơ thể, tồn tại dưới sạng nhưng tư chất và
năng lực) đã được ghi lại trong hệ thống gen di truyền.
Yếu tố môi trường
Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, môi trường xã hội có tầm
quan trọng đặc biệt vì nếu không có xã hội loài người thì những tư chất có
t nh người cũng không thể phát triển được. Môi trường là hệ thống các hoàn
cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội xung quanh cần
thiết cho hoạt động sống và phát triển của trẻ nhỏ.
Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể được thực hiện trong
một môi trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đ ch, động cơ,
phương tiện và điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, nhờ đó giúp trẻ
chiếm lĩnh được các kinh nghiệm để hình thành và phát triển nhân cách của
mình. Tuy nhiên, t nh chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường, quan điểm,
thái độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó, cũng như tùy thuộc vào xu
hướng và năng lực, vào mức độ cá nhân tham gia cải biến môi trường.
Yếu tố giáo dục
Giáo dục là sự tác động có mục đ ch, có tổ chức, có kế hoạch nhằm
thực hiện có hiệu quả các mục đ ch đã đề ra. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục có thể mang lại những
tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm sinh- di truyền hoặc môi trường, hoàn
cảnh không thể có được.
13
Giáo dục không chỉ th ch ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc
đẩy nó phát triển. Giáo dục có giá trị định hướng sự hình thành phát triển nhân
cách. Giáo dục thúc đẩy sức mạnh bên trong khi trẻ nắm bắt được nhu cầu,
động cơ, hứng thú và nó phù hợp với quy luật phát triển bên trong của cá nhân.
Bên cạnh đó giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người
bị khuyết tật, nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con
người. Giáo dục còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho
nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội.
Tuy nhiên không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục đối với sự hình
thành nhân cách. Giáo dục không thể tách rời tự giáo dục, tự rèn luyện, tự
hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.
Yếu tố hoạt động vui chơi giải trí của cá nhân.
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Hoạt động vui chơi
giải tr của con người là hoạt động có mục đ ch, mang t nh xã hội, cộng đồng,
được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định.
Hoạt động vui chơi giải tr của mỗi cá nhân đóng vai trò quyết định trực tiếp
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Thông qua hoạt động vui chơi
giải tr của bản thân trẻ sẽ lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội và biến nó
thành nhân cách của mình. Hoạt động vui chơi giải tr giúp k ch th ch hứng thú,
niềm say mê sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, những thuộc tính
tâm lý mới… ở mỗi cá nhân mà nhờ đó nhân cách được hình thành và phát
triển. Sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ phụ thuộc vào hoạt động
chơi ở mỗi thời kì, lứa tuổi nhất định. Muốn hình thành và phát triển nhân cách
thì cha mẹ cần phải cho con tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau và
k ch th ch yếu tố hoạt động vui chơi giải tr , nuôi dưỡng tâm hồn của cá nhân.
Ngay từ khi còn nhỏ, ở mỗi trẻ đã hình thành những nhân cách khác
nhau cũng như chịu chi phối bởi hệ thống gia đình, giáo dục, xã hội,….Trong
14
đó gia đình được coi là cái nôi của nhân cách, tác động vào hệ thống phát
triển tinh thần và thể chất của trẻ. Vì vậy thông qua hoạt động vui chơi giải tr
để giáo dục nhân cách cho trẻ ngay từ nhà là điều rất quan trọng và cần thiết.
1.1.1.4. Vai trò của hoạt động vui chơi giải trí đối với thiếu niên, nhi đồng
Thiếu niên, nhi đồng là một nhóm xã hội đặc thù. Trong quá trình phát
triển, các em luôn có nhu cầu vui chơi giải trí. Thông qua quá trình đó các em
thực hiện xã hội hoá tiếp nhận các giá trị chung của xã hội. Thiếu niên, nhi
đồng là độ tuổi hiếu động, ham học hỏi, các em có nhu cầu vui chơi, học tập
và giao lưu kết bạn. Bên cạnh gia đình và nhà trường, nhân cách thiếu niên,
nhi đồng chịu sự ảnh hưởng lớn của bạn bè và nhiều tương tác xã hội khác.
Đặc điểm tâm lý của thiếu niên, nhi đồng là thiếu hiểu biết về mọi mặt nhưng
lại hay tò mò, th ch khám phá, giàu tưởng tượng ước mơ, hoài bão; thiếu kiên
trì, thiếu bền bỉ; giàu xúc cảm, cả tin và dễ chia sẻ thông tin với bạn bè khác.
Về mặt năng lực hoạt động thì thiếu niên, nhi đồng có tính hiếu động, thích
hoạt động vui chơi giải tr nhưng về đặc điểm nhận thức chủ yếu là cảm tính,
nhận thức lý t nh chưa phát triển mạnh, tư duy trừu tượng còn hạn chế. Trong
mỗi bối cảnh, giai đoạn xã hội, thiếu niên, nhi đồng đều có nhu cầu mạnh mẽ
về hoạt động vui chơi giải tr nhưng những nhu cầu đó thường biến đối và
chịu sự tác động của các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cùng thời điểm.
Những hoạt động vui chơi giải trí hấp dẫn đối với thiếu niên, nhi đồng ngày
hôm nay có thể còn hạn chế với các thế hệ trẻ em trước hoặc sau đó. Nhu cầu
hoạt động vui chơi giải trí của thiếu niên, nhi đồng hiện nay chịu sự tác động
của nhiều yếu tố kinh tế - xã hội đan xen.
Đối với thiếu niên, nhi đồng, vai trò hoạt động vui chơi giải trí vừa là
nhu cầu, vừa là một quyền rất cơ bản của các em. Và đây còn là điều kiện rất
quan trọng để phát triển trí tuệ, thể chất và hình thành nên những phẩm chất
đạo đức, những thói quen ứng xử giao tiếp và nhiều kỹ năng, năng lực khác
15
của các em. Qua hoạt động vui chơi giải trí, thể lực các em được rèn luyện,
lòng ham hiểu biết và óc sáng tạo được phát huy, lòng nhân ái của các em
được vun đắp. Ở lứa tuổi này cùng với hoạt động học tập, vui chơi giải trí
cũng là một hoạt động chủ đạo góp phần quan trọng hình thành thế giới quan,
nhân sinh quan và các thuộc tính nhân cách của các em. Thông qua hoạt động
vui chơi giải tr các em có cơ hội bộc lộ đầy đủ phẩm chất, năng lực, ý chí của
bản thân, đồng thời có cơ hội tự đánh giá và nhận được những tác động qua lại
hết sức phong phú từ các cá nhân khác hoặc cộng đồng tham gia vui chơi. Các
yếu tố này là cơ sở rất quan trọng giúp các em từng bước hình thành các phẩm
chất cao đẹp mình vì mọi người, đồng thời phát huy quyền được tham gia hoạt
động của thiếu niên, nhi đồng, biết loại bỏ, tránh xa những tác động xấu.
Tuy nhiên, do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, hoạt động vui chơi giải trí
của thiếu niên,nhi đồng cũng có sự khác nhau.
Ở lứa tuổi nhi đồng, hoạt động vui chơi giải trí là nhu cầu tất yếu và
chiếm vị tr đáng kể trong cuộc sống của các em. Trong thực tế nếu chúng ta hỏi
các em làm gì ngoài việc học tập thì các em đều trả lời “Chúng em chơi”. Nhu
cầu hoạt động vui chơi của các em nhi đồng rất lớn, rất đa dạng. Ngoài thời gian
học tập là các em chơi, và sự chơi của các em được coi là tập lao động;
Ở lứa tuổi thiếu niên do thời gian dành cho học tập nhiều hơn, hơn nữa
các em đã có địa vị mới trong gia đình đã tham gia vào cuộc sống của người
lớn, làm một số công việc giúp đỡ bố mẹ nên chỉ còn ít thời gian dành cho
hoạt động vui chơi giải trí và hoạt động vui chơi giải tr cũng mang nhiều ảnh
hưởng của việc học tập.
Trong khi hoạt động vui chơi giải trí ở lứa tuổi nhi đồng thường hay
“Bắt chước” thiếu sự chọn lọc. Còn đối với các em ở lứa tuổi thiếu niên trong
khi vui chơi cũng có sự bắt chước nhưng bên cạnh đó các em lại có khuynh
hướng bắt chước những gì chứng tỏ mình là người lớn, biết chọn lọc những gì
16
hay hơn, th ch hơn và muốn được mọi người và bạn bè xung quanh tín nhiệm,
đánh giá tốt về mình. Các hoạt động vui chơi giải trí của lứa tuổi thiếu niên
cũng có t nh bền vững hơn, các em th ch vui chơi giải trí mang tính chất tập
thể nhiều hơn, cố định hơn. Trong quá trình vui chơi các em thiếu niên cũng
có khuynh hướng đấu tranh cho danh dự, uy tín của tập thể, yêu cầu phải có
thi đua, đánh giá, xếp loại, khen thưởng trong các hoạt động vui chơi giải trí.
Hoạt động vui chơi giải trí thực sự là một hoạt động sống động của thiếu
niên, nhi đồng. Khi các em ham mê vui chơi thì sẽ chơi hết mình mà quên hết
mệt mỏi, quên hết thời gian. Bởi đối với các em chơi ch nh là sống, là phương
thức để phát triển những khả năng tiềm ẩn bên trong cơ thể của mình.
Đặc điểm lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng trong giai đoạn hiện nay là phát
triển nhanh chóng về cả thể lực và tâm sinh lý. So với thiếu niên, nhi đồng
cùng lứa tuổi thì ngày nay, các em có độ cao trung bình cao hơn so với trẻ em
sống ở đầu thế kỷ 20. Trẻ em dậy thì sớm hơn từ 3 đến 4 năm so với đầu thế
kỷ trước. Nhu cầu hoạt động, trong đó có nhu cầu hoạt động vui chơi giải trí
vô cùng đa dạng, phong phú. Đặc biệt với sự phát triển như vũ bão của công
nghệ thông tin, nhất là Internet, công nghệ phát thanh, truyền hình, sự thâm
nhập của các nền văn hoá của thế giới vào nước ta làm cho nhu cầu vui chơi
giải trí trở nên hấp dẫn, dễ dàng và hiệu quả hơn đối với thiếu niên, nhi đồng.
Với những phương tiện vui chơi giải tr ngày càng đa dạng, hấp dẫn, dễ chơi,
kết nối nhanh, thiếu niên, nhi đồng ngày càng có điều kiện tiếp thu kiến thức
và trưởng thành nhanh, nhưng cũng dễ là nạn nhân của các trò chơi nguy
hiểm, những “Trò chơi đen” đầy rẫy trong xã hội và trên Internet. Những yếu
tố tác động quan trọng đến nhu cầu vui chơi giải trí của thiếu niên, nhi đồng
như môi trường sống, gia đình, nhóm bạn, tập thể Đoàn, Hội, Đội và cộng
đồng... có ảnh hưởng lớn đến hoạt động vui chơi giải trí của thiếu niên, nhi đồng.
17
Trong những năm qua, gia đình Việt Nam chứng kiến nhiều sự thay đổi
lớn cả về quy mô và chức năng, trong đó chức năng giáo dục và tạo điều kiện
hoạt động vui chơi giải trí cho thiếu niên, nhi đồng hạn chế, nhiều ông bố bà mẹ
vì mải mê kiếm tiền mà quên đi trách nhiệm hướng dẫn, giáo dục, đặc biệt là
việc xây dựng các giá trị tinh thần cho con cái. Họ quan niệm một cách đơn giản
rằng chỉ cần cho con nhiều tiền, thoả mãn đầy đủ những nhu cầu vật chất chứ
không cần quan tâm đến đời sống tình cảm đạo đức của con cái. Chính sự buông
lỏng quản lý của gia đình đã dẫn đến sự hư hỏng của rất nhiều trẻ em, tạo
khoảng trống để bạn bè, kẻ xấu có điều kiện lôi kéo các em vào con đường tội
phạm, nghiện ngập...
Đối với khu vực thành phố, các em thiếu niên, nhi đồng phải tốn quá
nhiều thời gian vào việc học ở trường, học thêm... thiếu điều kiện được vui
chơi giải trí trong không gian rộng, gắn với tự nhiên đều giúp các em có thể
lấy lại sự cân bằng giữa phát triển trí lực và thể lực; tạo sự tự tin, lối sống hoà
đồng với tập thể bè bạn. Đối với khu vực nông thôn, trẻ em có nhiều thời gian
rỗi, đặc biệt là trẻ em vùng sâu, vùng xa, số trẻ em không được đến trường
còn nhiều, các em thiếu các điều kiện về cơ sở vật chất và thiếu các hình thức
vui chơi giải trí mới, hiện đại, có t nh định hướng cao.
1.1.2. Chức năng hoạt động vui chơi giải trí cho thiếu niên, nhi đồng
1.1.2.1. Tăng cường sức khỏe
Trong thời thơ ấu thì hoạt động vui chơi giải trí của thiếu niên, nhi
đồng là phương thức tập dượt để làm “người lớn”; đến tuổi trưởng thành thì
hoạt động vui chơi giải tr là đối trọng lao động, nhằm giải tỏa những căn
thẳng về tâm sinh lý để lập lại cân bằng của nội tại. Hoạt động vui chơi giải trí
còn được coi là phương thức nghỉ ngơi t ch cực, nhằm tái sinh sức lao động ở
một cấp cao hơn.
18
Hoạt động vui chơi giải trí gắn liền với tăng cường sức khỏe. Vào
những năm 60 của thế kỷ XX ở các nước phát triển đã rộ lên phong trào tập
luyện giữ gìn sức khỏe. Các hoạt động khỏe và đẹp đã dần dần được đại
chúng hóa và xã hội hóa. Theo đà phồn vinh kinh tế, các hoạt động thể dục
thẩm mỹ cùng trang thiết bị luyện tập đã dần dần vào từng gia đình thành trào
lưu và mốt sinh hoạt. Ở Việt Nam những vũ điệu, múa, hát, sinh hoạt tập thể,
nhảy cao, đánh đu, đá cầu, thể dục, nhảy dây, lắc vòng…là những môn vừa chơi,
vừa rèn luyện sức khỏe được nhiều thiếu niên, nhi đồng yêu thích. Cho nên việc
rèn luyện kết hợp với hoạt động vui chơi giải trí sẽ tạo ra một hình thức vận
động thích hợp, vừa đạt được mục tiêu rèn luyện thân thể, vừa thoải mái vui vẻ.
Trong hoạt động vui chơi giải trí cho thiếu niên, nhi đồng tại xã phường thường
thấy là: Đá bóng, đá cầu, cầu lông, x ch đu, ô ăn quan, tập xe đạp…
Khi thiếu niên, nhi đồng được tham gia hoạt động vui chơi giải trí thỏa
mái sẽ giúp đốt cháy năng lượng, khích thích tinh thần giúp, các em ăn nhiều
hơn, ngủ ngon hơn, tinh thần và thể chất được tăng cường, giúp các em khỏe
mạnh và phát triển.
1.1.2.2. Tăng cường tính giáo dục
Trước hết cần phải phân biệt hoạt động vui chơi giải trí là hoạt động tự
giáo dục. V như ta quan sát một đứa trẻ chơi trò nặn tượng trên bãi cát, ta
thấy nó đắm mình vào hoạt động chơi của nó để cho ra một sản phẩm theo ý
của đứa trẻ, đó là cách chơi của đứa trẻ và khi đứa trẻ hoàn thành thì cảm thấy
vui vẻ thoải mái, giải tỏa được nhu cầu của mình. Nếu không phải hoạt động
chơi thì làm sao một đứa bé 5 tuổi lại có thể đứng 2 giờ liền bên cạnh một gốc
cây to trong công viên đầy trò chơi hấp dẫn. Qua trò chơi cũng có thể giáo
dục đứa trẻ biết tập làm người lớn để theo quy ước đã định, trẻ dần sẽ phân
biệt giữa nghĩa thực và nghĩa biểu tượng của sự vật.
19
Ngoài ra, hoạt động vui chơi giải tr còn là điều kiện để thiếu niên, nhi
đồng rèn luyện sự tự tin, mạnh dạn trước đông người, học cách hoạt động
chơi tập thể, xử lý các tình huống và ra quyết định. Nhiều hoạt động vui chơi
giải tr như: đá bóng, cầu lông, bóng bàn… đòi hỏi người chơi phải học tính
phản xạ, nhanh nhẹn. Các trò chơi như ô ăn quan, cờ vua lại cần đến sự tính
toán, khả năng phân t ch, phán đoán, suy nghĩ. Các hoạt động như múa, hát,
vẽ, cắm hoa… thì đòi hỏi người chơi có năng khiếu, sáng tạo và thẩm mỹ cao.
Trong khi đó, những hoạt động vui chơi giải tr như đá bóng, cướp cờ, khéo
co lại rèn luyện cho thiếu niên, nhi đồng tính tập thể, phối hợp nhịp nhàng,
đoàn kết, hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau để giành chiến thắng. Với những trò chơi
này, mọi sự “Chơi trội”, cá nhân chủ nghĩa, ỷ lại, đều không thể tìm được chỗ
đứng, thiếu niên, nhi đồng phải tự học cách tham gia trò chơi theo cách của
mình sao cho hòa đồng và bắt nhịp được.
Hoạt động vui chơi giải tr làm tăng hứng thú cho việc học tập sinh
hoạt của mình. Nếu như hàng ngày, các em chỉ biết học tập trên lớp thì dễ gây
buồn chán, gây ức chế, khiến các em dễ mệt mỏi, cuộc sống hàng ngày
thường buồn tẻ, t để lại ấn tượng và khó tạo sự hứng thú. Trong khi đó, khi
thiếu niên, nhi đồng được tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí sẽ làm cho
tinh thần sảng khoái, vui vẻ và đầy hứng thú với cuộc sống hàng ngày. Điều
này cũng đang được thể hiện rõ rệt ở thiếu niên, nhi đồng.
1.1.2.3. Nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho thiếu niên, nhi đồng
Các nhà nghiên cứu về vui chơi giải tr đều cho rằng con người sẽ hài
lòng hơn, yêu đời hơn, cảm nhận về cuộc sống thú vị hơn khi tham gia các
hoạt động vui chơi giải trí theo ý thích, mối quan hệ trong việc tham gia các
hoạt động giải trí, chất lượng cuộc sống tâm lý của con người cũng tốt đẹp
hơn. Nó chỉ rõ: những người tham gia hoạt động vui chơi giải trí sẽ thấy cuộc
sống có ý nghĩa hơn với những người không tham gia hoạt động vui chơi giải
20