VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NGỌC ÁNH
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số
: 60.34.04.10
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HỌC
Hà Nội, 2017
Công trình được hoàn thành tại thành phố Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: T.S. Hà Thị Ngọc hà
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
văn thạc sỹ họp tại: Học viện khoa học xã hội
....... giờ........ngày......tháng......năm...........
Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa
học Xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một đất nước trong quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện nền kinh tế như vậy, KTĐL
hình thành và phát triển là một xu thế tất yếu như mọi nền kinh tế
trên thế giới.
Sau hơn 25 năm phát triển, ngành KTĐL đã có hơn 140 DNKT
được thành lập và hoạt động, góp phần minh bạch hóa thông tin trên
thị trường. KTĐL ở Việt Nam đã khẳng định được vai trò và vị thế
trong nền kinh tế thị trường, có sự lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng của các công ty kiểm toán.
Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì
dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam vẫn còn một khoảng cách khá xa chưa
đáp ứng được nhu cầu của thị trường cũng như tổ chức hoạt động còn
chưa hiệu quả và phù hợp. Vì vậy cần phải có những thay đổi để
nâng cao hiệu quả hoạt động của KTĐL xuất phát từ thực tế trên, tác
giả chọn đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình là: “Phát triển dịch vụ
kiểm toán độc lập ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề lý luận chung về hoạt động KTĐL, trong đó có
DNKT cũng đã được trình bày trong các giáo trình như giáo trình
Kiểm toán của các trường đại học. Ngoài ra, còn có một số những đề
tài, luận án nghiên cứu. Tuy nhiên, các nội dung nghiên cứu được
đặt ra một cách riêng lẻ chuyên sâu từng vấn đề. Như vậy trên thực
1
tế, chưa có tài liệu nào, tác giả nào đi sâu nghiên cứu về hoạt động
KTĐL nước ta hiện nay để chỉ ra những mặt được, mặt hạn chế, tìm
ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy dịch vụ KTĐL ở
Việt Nam phát triển.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng của
hoạt động dịch vụ KTĐL, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm
thúc đẩy phát triển dịch vụ này ở Việt Nam. Theo đó nâng cao hoạt
động KTĐL ở Việt Nam đáp ứng đòi hỏi của thị trường và nhu cầu
hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về quá trình phát triển dịch vụ
KTĐL từ khi hình thành năm 1991 cho năm 2016 bao gồm các nội
dung thể chế, doanh nghiệp kiểm toán, dịch vụ kiểm toán, các biện
pháp quản lý chất lượng dịch vụ…
Luận văn cũng nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về dịch vụ
KTĐL, quản lý nhà nước về dịch vụ này từ đó đưa ra các quan
điểm, giải pháp để phát triển dịch vụ KTĐL ở Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng; các
phương pháp cụ thể là: phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh... để
nghiên cứu và phân tích trên cơ sở đó giải quyết các nhiệm vụ và
đưa ra các giải pháp phát triển dịch vụ KTĐL ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
2
Hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về KTĐL;
Làm rõ thực trạng dịch vụ KTĐL ở Việt Nam, chỉ ra được những kết
quả đạt được và hạn chế trong hoạt động dịch vụ này; Đưa ra được
các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình phát triển dịch vụ KTĐL ở
Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về dịch vụ kiểm toán
độc lập
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát triển dịch vụ kiểm
toán độc lập ở Việt nam
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ kiểm toán độc lập
1.1.1 Khái niệm kiểm toán, kiểm toán độc lập, dịch vụ kiểm
toán và phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập
Theo khái niệm KTĐL tại Luật kiểm toán độc lập 2011 thì
“Kiểm toán độc lập là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp
kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt
Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo cáo tài chính và
công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán.” [18, Điều 5]
3
Trong luận văn này, phát triển dịch vụ KTĐL được hiểu là: (i)
quá trình hình thành, phát triển của dịch vụ KTĐL trong một khoảng
thời gian bao gồm sự thay đổi về số lượng doanh nghiệp; số lượng,
chất lượng, doanh thu của dịch vụ KTĐL; cũng như những sự thay
đổi trong quản lý nhà nước về dịch vụ này; (ii) Đồng thời cũng đưa ra
những quan điểm, giải pháp nhằm thay đổi theo hướng tích cực các
nội dung trên, đóng góp có lợi cho dịch vụ KTĐL nói riêng cũng như
ngành KTĐL nói chung.
1.1.2 Phân loại kiểm toán và phân biệt kiểm toán độc lập,
kiểm toán nhà nước, và kiểm toán nội bộ
Căn cứ vào mục đích, kiểm toán có thể phân thành 3 loại:
kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, và kiểm toán BCTC. Trong
khi đó nếu căn cứ vào hình thức tổ chức, kiểm toán có 3 loại: Kiểm
toán độc lập, kiểm toán nhà nước, và kiểm toán nội bộ.
1.1.3 Vai trò của dịch vụ kiểm toán độc lập trong nền kinh tế
thị trường
Thứ nhất, tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tình hình
tài chính của doanh nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, góp phần làm lành mạnh hóa các mối quan hệ tài
chính.
Thứ ba, tư vấn nghiệp vụ và góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý.
1.1.4 Các nhân tố tác động đến phát triển dịch vụ kiểm toán
độc lập
4
Thứ nhất, đó là nhu cầu và yêu cầu từ thị trường đối với dịch
vụ kiểm toán.
Thứ hai, một trong những nhân tố ảnh hưởng tới phát triển dịch
vụ là hành lang pháp lý cho việc thực hiện dịch vụ.
Thứ ba, nguồn nhân lực thực hiện cung cấp dịch vụ KTĐL.
1.1.5 Chuẩn mực kiểm toán
Chuẩn mực kiểm toán là những nguyên tắc cơ bản về nghiệp
vụ và việc xử lý các mối quan hệ phát sinh trong quá trình kiểm
toán. Chuẩn mực kiểm toán theo nghĩa rộng bao gồm cả những
giải thích, hướng dẫn về các nguyên tắc cơ bản để KTV có thể áp
dụng trong thực tế cũng như để đo lường và đánh giá chất lượng
công việc kiểm toán.
1.2 Dịch vụ kiểm toán độc lập ở một số nước và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam
1.2.1 Tổng quan về dịch vụ kiểm toán độc lập của một số
nước trên thế giới
Căn cứ qui mô và phạm vi hoạt động của các tổ chức kiểm
toán có thể chia thành các nhóm sau:
- Văn phòng kiểm toán địa phương: một hay một vài KTV
công chứng có thể thiết lập văn phòng để phục vụ cho khách hàng có
nhu cầu kiểm toán và tư vấn kế toán, thuế.
- Doanh nghiệp kiểm toán: Các tổ chức KTĐL được tổ chức
theo mô hình doanh nghiệp.
5
- Tổ chức kiểm toán quốc tế: Các Tổ chức kiểm toán quốc tế
phát triển mạng lưới rộng khắp, trước hết để phục vụ khách hàng đa
quốc gia.
1.2.1.1 Mô hình, tổ chức dịch vụ kiểm toán độc lập trên thế
giới
Hiện nay có thể tổng kết được 3 mô hình chính mà các DNKT
đang áp dụng, cụ thể như sau:
+ Mô hình Công ty mạng lưới
Công ty mạng lưới: Là công ty hoặc pháp nhân thuộc cùng một
mạng lưới;
Mạng lưới: Là sự liên kết giữa các tổ chức để: (i) Hướng tới sự
hợp tác; và (ii) Hướng tới sự chia sẻ lợi ích, hợp đồng kiểm toán,
hoặc cùng được sở hữu, kiểm soát hoặc quản lý chung, có chung các
chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng, chiến lược kinh doanh
chung, sử dụng chung thương hiệu, hoặc cùng chung một phần đáng
kể nguồn lực chuyên môn.
+ Mô hình Hiệp hội các công ty
Mô hình Hiệp hội rất phổ biến trong các Tổ chức kiểm toán
quốc tế theo đó các công ty kế toán, kiểm toán có uy tín tại các quốc
gia khác nhau tập hợp nhau lại tuy nhiên không hướng đến sở hữu
chung, hoặc quản lý công ty mà độc lập trong mô hình này.
+ Mô hình Liên kết
Trong Mô hình này, mối liên hệ giữa các thành viên yếu hơn so
với Mô hình công ty mạng lưới và Mô hình hiệp hội do các thành
6
viên hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, không chỉ kế toán
và kiểm toán.
1.2.1.2 Tổ chức (hội) nghề nghiệp về kiểm toán
- Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) là tổ chức phi Chính phủ
của các tổ chức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán trên toàn thế giới.
Được thành lập từ tháng 10 năm 1977, đến nay IFAC đã có 167 tổ
chức thành viên của 127 nước trên thế giới. Ngoài ra ở từng khu
vực, cũng có tổ chức nghề nghiệp kế toán kiểm toán như Liên đoàn
kế toán các nước ASEAN (AFA); Hiệp hội Kế toán Châu Á Thái
Bình Dương (CAPA)....
Ở Việt Nam có Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam
(VACPA).
1.2.2 Quản lý nhà nước về dịch vụ kiểm toán độc lập ở một
số nước trên thế giới
- Ở Trung Quốc
Việc thành lập công ty kiểm toán phải có sự chấp thuận của Bộ
Tài chính. Để thành lập công ty hợp danh kiểm toán cần đáp ứng các
điều kiện: Có tối thiểu 2 CPA làm việc toàn bộ thời gian cho công ty
kiểm toán ; Phải có hợp đồng bằng văn bản, tên gọi công ty và trụ sở
cố định ; Điều kiện thành lập công ty kiểm toán TNHH: Có tối thiểu
5 CPA ; Có số lượng nhân viên nhất định làm việc toàn thời gian, có
vốn đăng ký tối thiểu là 300.000 nhân dân tệ, phải có tên gọi và trụ
sở cố định.
- Ở Singapore
Việc cấp phép thành lập doanh nghiệp nói chung và DNKT do
7
Cơ quan quản lý KTV và doanh nghiệp thực hiện. Điều kiện thể
thành lập và hoạt động
Vốn góp tối thiểu phải lớn hơn 50.000 đô la Singapore; 2/3 số
lượng thành viên góp vốn phải là CPA, nếu công ty có 1 hoặc 2 thành
viên góp vốn thì người đó phải là CPA ; Các CPA nắm giữ tối thiểu
2/3 vốn doanh nghiệp.
CPA phải bắt buộc cho những người là thành viên của Hiệp hội
Kế toán viên công chứng Singapore.
1.2.3 Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Thứ nhất, DNKT Việt Nam không nên đứng đơn lẻ để hoạt
động kinh doanh. Cần tham gia liên kết với nhau, đặc biệt là liên kết
vào các mô hình của các DNKT lớn trên thế giới.
Thứ hai, hầu hết các nước trên thế giới đều coi dịch vụ KTĐL
là ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Thứ ba, về quản lý hoạt động kiểm toán: Hoạt động KTĐL liên
quan đến lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế trên thị trường.theo
đó, các quốc gia đều thiết lập hệ thống điều hành quản lý bằng luật
pháp để định hướng phù hợp.
Thứ tư, về quản lý người hành nghề kiểm toán: Phần lớn pháp
luật các nước trên thế giới đều quy định việc quản lý, đào tạo, kiểm
soát chất lượng dịch vụ của người hành nghề thuộc trách nhiệm của
Hội nghề nghiệp về kiểm toán.
Thứ năm, tính chất của dịch vụ KTĐL là dịch vụ tư vấn nên
các nước đều có quy định khá nghiêm ngặt quy tắc hành nghề kiểm
toán.
8
Chương 2
THỰC TRẠNG DỊCH VỤ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
Ở VIỆT NAM
2.1 Sự hình thành và các nhân tố phát triển dịch vụ kiểm
toán độc lập ở Việt Nam
2.1.1 Hành lang pháp lý cho dịch vụ kiểm toán độc lập và
chính sách phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập hiện nay
- Giai đoạn từ 1991-1998: Hoạt động KTĐL ở Việt Nam bắt
đầu hình thành từ năm 1991. Chính phủ đã ban hành Nghị định 07CP ngày 29/1/1994 Quy chế về KTĐL trong nền kinh tế quốc dân.
- Giai đoạn từ năm 1998 đến 2011, vốn đầu tư nước ngoài tăng
nhanh, Nhà nước bãi bỏ quy định xét duyệt BCTC, quyết toán thuế
của các doanh nghiệp và đòi hỏi các báo cáo này phải được kiểm toán
trước khi công khai, nộp cho cơ quan nhà nước làm cho nhu cầu dịch
vụ kiểm toán ngày càng tăng.
Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản về
KTĐL, chủ yếu gồm: Nghị định số 105/2004/NĐ-CP; Thông tư số
64/2004/TT-BTC; và 38 Chuẩn mực kiểm toán và Chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán.
- Giai đoạn từ 2012 đến nay
Đây là giai đoạn mà hệ thống pháp luật về KTĐL tập trung
hoàn thiện. Hệ thống văn bản pháp luật được ban hành đồng bộ từ
Luật, Nghị định, Thông tư, bao gồm cả quy định về xử lý vi phạm
hành chính. Hệ thống văn bản giai đoạn này giúp quản lý chặt chẽ về
DNKT, đối tượng được kiểm toán, góp phần nâng cao chất lượng
9
dịch vụ kiểm toán trên thị trường. Hệ thống văn bản bao gồm: Luật
kiểm toán độc lập ; các Nghị định và Thông tư hướng dẫn.
2.1.2 Sự hình thành, phát triển các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ kiểm toán độc lập
- Giai đoạn từ năm 1991 – 1998
Năm 1991, Bộ Tài chính thành lập hai công ty đầu tiên là
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán,
đó là VACO và AASC. Sau đó, các DNKT khác lần lượt ra đời. Đến
năm 1995, có 9 DNKT được thành lập, trong đó có 4 DNNN và đã có
sự tham gia đầy đủ của 6 DNKT hàng đầu thế giới khi đó.
- Giai đoạn từ năm 1999 đến 2011
Sau khi Luật Doanh nghiệp được ban hành vào năm 1999 đã
mở rộng số lượng của các DNKT, các DNKT được thành lập đã tăng
nhanh và chủ yếu các công ty thành lập dưới hình thức TNHH. Tính
đến tháng 3/2011 đã có 165 DNKT gồm 154 công ty TNHH, 5 doanh
nghiệp 100% VĐT nước ngoài, 2 doanh nghiệp có VĐT nước ngoài,
4 công ty hợp danh với 8.690 người làm việc, trong đó khoảng 1.260
KTV hành nghề.
- Giai đoạn từ 2012 đến nay
Kể từ khi Luật kiểm toán độc lập được ban hành và có hiệu lực
thì kinh doanh dịch vụ kiểm toán đã được quản lý chặt chẽ hơn từ
điều kiện kinh doanh đến chất lượng dịch vụ được cung cấp. Theo đó
để được cấp giấy chứng nhận kinh doanh dịch vụ kiểm toán doanh
nghiệp phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 21 Luật
kiểm toán độc lập. Tính đến tháng 11/2016 số lượng DNKT giảm còn
10
148 công ty với 9.700 người làm việc và khoảng 1.800 người hành
nghề.
Biểu đồ số lượng doanh nghiệp kiểm toán qua các năm
2.1.3. Phạm vi và quy mô của thị trường, dịch vụ kiểm toán,
khách hàng của kiểm toán độc lập
- Giai đoạn từ 1991 đến 1998:
Trong giai đoạn này phạm vi, quy mô cung cấp dịch vụ tập
trung vào đối tượng kiểm toán bắt buộc là các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài (FDI), sau đó được mở rộng ra các dự án có vốn
đầu tư nước ngoài. Theo số liệu tổng kết của Bộ Tài chính thì doanh
thu toàn ngành KTĐL năm 1997 là 144 tỷ đồng, năm 2000 là 281 tỷ
đồng. Dịch vụ của các DNKT cung cấp chủ yếu là dịch vụ kiểm toán
BCTC và kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành.
- Giai đoạn từ 1999 đến 2011
11
Trong giai đoạn này khách hàng của DNKT nói chung tương
đối đa dạng và phong phú, thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó chủ
yếu là các doanh nghiệp, tổ chức bắt buộc phải kiểm toán BCTC.
Cùng với sự phát triển về số lượng và quy mô, dịch vụ của các
DNKT cung cấp đã không ngừng được đa dạng hóa theo hướng mở
rộng dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ đảm. Xu hướng cho thấy các
dịch vụ tư vấn này ngày càng được mở rộng với tỷ trọng doanh thu
ngày càng lớn với hiệu quả tương đối cao.
- Giai đoạn từ 2012 đến nay:
Để góp phần minh bạch thông tin trên thị trường thì BCTC khi
công khai phải được kiểm toán. Luật kiểm toán độc lập quy định bổ
sung các doanh nghiệp, tổ chức bắt buộc phải được DNKT thực hiện
kiểm toán.
Về cơ cấu doanh thu của các loại dịch vụ cung cấp tiếp tục
chuyển biến theo hướng tăng dần dịch vụ tư vấn tài chính, giảm các
dịch vụ về kiểm toán. Tỷ trọng doanh thu dịch vụ kiểm toán trên tổng
doanh thu của toàn ngành kiểm toán năm 2000 là 70,9%, năm 2005
là 62,3%; năm 2010 là 68,8%; năm 2015 là 59%.
12
Biểu đồ cơ cấu doanh thu dịch vụ toàn ngành qua các năm
2.1.4. Nguồn nhân lực thực hiện dịch vụ kiểm toán độc lập
Giai đoạn từ 1991 đến 1998
Từ năm 1991 đến tháng 4/1994 Việt Nam chưa có người có
chứng chỉ KTV. Tháng 10/1994, lần đầu tiên Bộ Tài chính tổ chức
học, thi sát hạch và cấp chứng chỉ đặc cách cho 49 người đủ điều
kiện, tiêu chuẩn KTV chuyên nghiệp.
- Giai đoạn từ 1999 đến 2011
Giai đoạn này số lượng KTV tăng lên nhanh chóng. Tính
đến tháng 12/2010, Bộ Tài chính đã tổ chức 22 kỳ thi tuyển KTV
cho người Việt Nam và 11 kỳ thi sát hạch cho người có chứng
chỉ nước ngoài và đã cấp 2.044 chứng chỉ KTV cho những người
đạt kết quả thi.
- Giai đoạn từ 2012 đến nay
13
Với việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực KTĐL, đặc biệt là các văn bản quy định thi cấp chứng
chỉ KTV, quy định việc cập nhật kiến thức cũng như việc cấp giấy
chứng nhận hành nghề kiểm toán. KTV trong giai đoạn này đã dần
chuyên nghiệp.
Tính đến tháng 11/2016 đã có tổng số 3.837 chứng chỉ KTV
Việt Nam được cấp. Tuy nhiên, số lượng KTV hành nghề hiện nay
vẫn còn thiếu so với nhu cầu do có khoảng 1.500 có chứng chỉ KTV
không đăng ký hành nghề kiểm toán.
2.1.5. Sự hình thành và phát triển của tổ chức nghề nghiệp
về kiểm toán của Việt Nam
- Giai đoạn từ 1991 – 1998
Trong giai đoạn này có sự hình thành của tổ chức xã hội nghề
nghiệp đầu tiên của các tổ chức và cá nhân làm nghề kế toán và kiểm
toán ở Việt Nam, được thành lập năm 1994 với tên gọi là Hội Kế
toán Việt Nam,.
Năm 2004, Hội Kế toán Việt Nam đổi tên thành Hội Kế toán
và Kiểm toán Việt Nam, với tên giao dịch quốc tế là Vietnam
Association of Accountants and Auditors (VAA). Mặc dù có hội của
những người làm kiểm toán tuy nhiên giai đoạn này vai trò của hội
đối với những người hành nghề kiểm toán nhìn chung là chưa nhiều
và rất ít KTV hành nghề tham gia Hội.
- Giai đoạn từ 1999 - 2011
Trong giai đoạn này, ngoài sự tồn tại của Hội Kế toán và Kiểm
toán Việt Nam, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam được thành
14
lập và đi vào hoạt động (VACPA) với tư cách hội thành viên của
VACPA. Kể từ khi thành lập năm 2005, VACPA rất chú trọng việc
tuyên truyền, vận động, phát triển và thu hút được khá nhiều hội viên.
- Giai đoạn từ 2012 đến nay
Theo 02 bản Điều lệ (sửa đổi, bổ sung) của VACPA thì trong
giai đoạn này VACPA không còn là hội thành viên của VAA.
Theo đó hiện nay tồn tại song song 02 Hội nghề nghiệp về kế
toán kiểm toán. Tuy nhiên, với định hướng của cơ quan có thẩm
quyền thì VACPA là hội nghề nghiệp của các KTV hành nghề, thực
hiện các nhiệm vụ được giao tại Điều 4 Nghị định 17/2012/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kiểm
toán độc lập. Theo đó hàng năm VACPA tổ chức các lớp đào tạo, cập
nhật kiến thức cho 1.700 KTV. Từ năm 2006-2014 thực hiện kiểm tra
chất lượng dịch vụ kiểm toán từ 30 đến 40 DNKT trong một năm.
Thực hiện soạn thảo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam phù hợp với
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế theo uỷ quyền của Bộ Tài chính. Với
các kết quả đã đạt được, VACPA là làm tốt tập hợp, đoàn kết hội
viên, hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần duy trì, phát triển
và nâng cao trình độ KTV hành nghề, chất lượng dịch vụ kế toán,
kiểm toán.
2.1.6 Về chất lượng dịch vụ kiểm toán và kiểm soát chất
lượng dịch vụ
- Giai đoạn từ 1991 – 1998
Trong giai đoạn này do dịch vụ KTĐL mới hình thành nên việc
kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán chưa được chú ý nhiều. Chỉ
15
có một số DNKT lớn thuộc mạng lưới DNKT quốc tế mới có hệ
thống kiểm soát chất lượng dịch vụ của đơn vị mình. Cơ quan quản
lý nhà nước trong giai đoạn này cũng chưa có quy định để kiểm tra
chất lượng dịch vụ, giám sát về chất lượng dịch vụ cũng như yêu cầu
doanh nghiệp thiết lập hệ thống kiểm soát chất lượng.
- Giai đoạn từ 1999 – 2011
Với sự mở rộng về quy mô, số lượng DNKT và doanh số của
dịch vụ thì cơ quan quản lý nhà đã bước đầu có những quy định về
kiểm toán chất lượng theo Quyết định 32/2007/QĐ-BTC. Theo đó thì
Bộ Tài chính đã giao cho VACPA thực hiện kiểm soát chất lượng
dịch vụ đối với các DNKT.
Tuy nhiên giai đoạn này không có quy định pháp lý đầy đủ
về việc xử phạt vi phạm hành chính nên hiệu quả của việc kiểm soát
chất lượng dịch vụ còn khiêm tốn.
- Giai đoạn từ 2012 đến nay
Trong giai đoạn này với sự ban hành của Luật kiểm toán độc
lập và sự gia tăng nhanh chóng đối với doanh số hoạt động kiểm toán
thì kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán lại càng trở nên cấp bách.
Trong giai đoạn này Bộ Tài chính đã không ủy quyền cho
VACPA thực hiện kiểm soát chất lượng mà Bộ Tài chính và Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước thực hiện kiểm soát đối với các DNKT.
Kết quả kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán cho thấy chất
lượng dịch vụ vẫn còn nhiều hạn chế đặc biệt là ở các DNKT nhỏ.
16
2.2 Đánh giá chung về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt
Nam hiện nay
2.2.1 Những kết quả đạt được
Thứ nhất, về cơ bản, hệ thống văn bản pháp luật về KTĐL do
Nhà nước ban hành sau khi Luật kiểm toán độc lập ban hành năm
2011 đã khá hoàn chỉnh.
Thứ hai, việc quản lý nhà nước được thực hiện một cách rõ
ràng, minh bạch và đã có những hiệu quả nhất định tiệm cận mới các
thông lệ quản lý của quốc tế.
Thứ ba, sau 25 năm hoạt động, ngành KTĐL của Việt Nam đã
có những tiến bộ đáng kể, đã phát triển nhanh về số lượng và quy mô
công ty cũng như năng lực chuyên môn và chất lượng dịch vụ.
2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, đối với hệ thống pháp luật và năng lực quản lý nhà
nước về dịch vụ
Thứ hai, quy mô các doanh nghiệp kiểm toán còn hạn chế,
chưa đa dạng về các dịch vụ cung cấp
Số lượng DNKT đã tăng đáng kể nhưng đa phần có quy mô
quá nhỏ, số lượng công ty chỉ có tối thiểu 5 KTV hành nghề vừa đủ
để đáp ứng theo qui định hiện hành.
Về số lượng khách hàng kiểm toán, hiện nay chủ yếu là kiểm
toán bắt buộc theo luật định, số lượng khách hàng tự nguyện chưa
đáng kể.
17
Về cơ cấu dịch vụ, tỷ trọng doanh thu dịch vụ kiểm toán vẫn
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu của các DNKT. Các dịch vụ tư
vấn tài chính, kế toán, thuế... chiếm tỷ trọng chưa cao.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực cho dịch vụ kiểm toán
độc lập chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế
Tính đến năm 2016, cả nước có 3.747 người được cấp chứng
chỉ KTV, tuy nhiên số lượng KTV hành nghề tại các DNKT chỉ có
1.650 người. Chất lượng KTV mới chỉ đáp ứng được nhu cầu trong
nước, chưa đủ để nhập với quốc tế, đặc biệt là hướng dẫn hành nghề,
cung cấp dịch vụ trong ASEAN khi pháp luật cho phép.
Thứ tư, hội nghề nghiệp về kiểm toán chưa thể hiện được vai trò
Mặc dù, VACPA đã có những thay đổi theo hướng chuyên
nghiệp, tuy nhiên vai trò của hội vẫn chỉ gói gọn trong tập hợp, bồi
dưỡng, nâng cao năng lực kiểm toán của các hội viên. Trong khi đó
theo thông lệ quốc tế các hội nghề nghiệp có vai trò rất lớn trong việc
quản lý nhà nước từ việc cấp phép hành nghề, kiểm soát chất lượng,
kiểm tra, xử lý vi phạm...
Thứ năm, về chất lượng dịch vụ và sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp kiểm toán
Trong những năm gần đây, phát sinh tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh như: giảm giá phí kiểm toán dẫn đến chất lượng
kiểm toán không đảm bảo, còn hiện tượng đưa tin thiếu trung thực về
tình hình của chính công ty và công ty cạnh tranh
18
Chất lượng dịch vụ của các DNKT nói chung ngày càng tốt
hơn nhưng vẫn chưa đạt mong muốn và còn rất khó khăn để được
khu vực và quốc tế thừa nhận.
Thứ sau, về hợp tác quốc tế về dịch vụ kiểm toán
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ KIỂM
TOÁN ĐỘC LẬP VIỆT NAM
3.1 Bối cảnh trong và ngoài nước tác động tới dịch vụ kiểm
toán độc lập
3.1.1 Bối cảnh trong nước
Dịch vụ KTĐL hiện nay đã hiện diện tại Việt Nam cũng
được một khoảng thời gian nhất định, số lượng doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ cũng như các loại dịch vụ và chất lượng đã có những
bước phát triển đáng ghi nhận, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Hiện nay sự đòi hỏi, đa dạng dịch vụ ngày càng cao. Các dịch
vụ kiểm toán khác ngoài dịch vụ kiểm toán BCTC ngày càng được các
khách hàng của doanh nghiệp kiểm toán quan tâm, có nhu cầu
3.1.2 Bối cảnh ngoài nước
Trong khu vực ASEAN, hiện nay thì Việt Nam cũng như các
nước ASEAN có thỏa thuận lẫn nhau về dịch vụ, theo đó trong thời gian
tới thì các nước ASEAN sẽ được thừa nhận về chuyên môn của kiểm
toán viên hành nghề và có thể tự do di chuyển cung cấp dịch vụ.
Bối cảnh trên, vừa là thuận lợi cũng là thách thức cho DNKT
và thị trường dịch vụ KTĐL
19
3.2 Những quan điểm chủ yếu trong phát triển dịch vụ
kiểm toán độc lập Việt Nam
3.2.1 Phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập phải phù hợp và
tiếp thu những kinh nghiệm, thông lệ của quốc tế
Trong khi thế giới đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm thì
ngành KTĐL Việt Nam mới có lịch sử phát triển hơn 25 năm nên có
nhiều cơ hội để tiếp nhận kinh nghiệm thực tiễn của các nước phát
triển trong việc xây dựng chiến lược phát triển cho ngành.
Những kinh nghiệm quốc tế cần tiếp thu bao gồm từ cách thức
quản lý nhà nước về hoạt động kiểm toán, mô hình tổ chức hoạt động
của DNKT, các quy định mới tại các chuẩn mực kiểm toán mới mà
Việt Nam chưa cập nhật.
3.2.2 Phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập phải dựa trên nhu
cầu thị trường
Một dịch vụ muốn tồn tại, phát triển phải nắm bắt được nhu
cầu của thị trường. Hiện nay thị trường mới coi kiểm toán là dịch vụ
đảm bảo, xác nhận thông tin tài chính. Tuy nhiên trong thời gian tới
các dịch vụ này sẽ trở lên bão hòa với sự xuất hiện của rất nhiều
DNKT, đồng thời sẽ có rất nhiều loại hình dịch vụ cho DNKT.
3.2.3 Phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập phải dựa trên cơ
sở chất lượng dịch vụ
Đối với hoạt động KTĐL hiện đại thì quan điểm phát triển là
cung cấp dịch vụ phải thỏa mãn lợi ích của các đối tượng này sử
dụng dịch vụ. Do đó, chất lượng mới là cốt lõi của sự phát triển
ngành.
20
3.3 Một số giải pháp phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập
Việt Nam.
3.3.1 Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và nâng cao năng lực
quản lý nhà nước về dịch vụ kiểm toán độc lập
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định pháp lý:
Hệ thống các quy định pháp lý về KTĐL đã được ban hành khá
đầy đủ bộ, tuy nhiên cũng còn những điểm cần hướng dẫn rõ.
Đối với hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cần phải
đảm bảo cập nhật kịp thời với các chuẩn mực kiểm toán quốc tế mới
ban hành.
Thứ hai, nâng cao tăng cường năng lực kiểm tra, kiểm soát của
cơ quan nhà nước:
Cơ quan quản lý nhà nước cần quản lý chặt chẽ các đối tượng
thuộc diện bắt buộc kiểm toán BCTC thực hiện cơ chế kiểm toán cũng
như quản lý giám sát chặt chẽ DNKT, cần phải thực hiện nghiêm các quy
định quản lý nhà nước cũng như các quy định xử phạt vi phạm hành
chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Nhà nước cần tạo ra cơ chế phù hợp để huy động được người
có trình độ, kinh nghiệm tham gia vào công tác kiểm soát chất lượng.
3.3.2 Phát triển quy mô doanh nghiệp kiểm toán, đa dạng
hóa dịch vụ được cung cấp
Cơ quan quản lý cần khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất các
DNKT cũng như khuyến khích DNKT tham gia vào các mô hình
mạng lưới liên kết với tổ chức quốc tế để đạt được quy mô doanh
nghiệp đủ mạnh, đủ chuyên nghiệp thực hiện cung cấp dịch vụ.
21
Về cơ cấu các loại hình dịch vụ: Xu thế trong tương lai thì cơ
cấu các loại hình dịch vụ sẽ chuyển đổi theo hướng giảm dần tỷ trong
doanh thu từ dịch vụ kiểm toán và tăng dần doanh thu đối với các
dịch vụ tư vấn, thuế, tư vấn quản lý... Các DNKT cần đón đầu xu thế
này, trang bị cho đội ngũ hành nghề những kỹ năng cần thiết, đa dạng
để có thể đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu từ thị trường.
3.3.3 Phát triển nguồn nhân lực cho kiểm toán độc lập
Trước hết phải thực hiện thay đổi đào tạo chuyên ngành kế
toán, kiểm toán tại các cơ sở đào tạo đại học. Các chương trình đào
tạo cần phải bám sát các chuẩn mực kiểm toán của quốc tế qua đó sẽ
nâng cao, giúp các sinh viên có được kiến thức thực tế về công việc
của mình.
Bộ Tài chính tổ chức thi để cấp chứng chỉ KTV phải có lộ trình
thay đổi theo hướng giao cho Hội nghề nghiệp hoặc cơ sở giáo dục
thực hiện đào tạo để cấp chứng chỉ KTV. Chương trình đào tạo sẽ
không chỉ tập trung đào tạo kiến thức cho KTV mà phải đào tạo cả
những kỹ năng để phục vụ cho quá trình hành nghề cũng như các kỹ
năng cần thiết khác để phục vụ việc di chuyển hành nghề của KTV.
Chương trình đào tạo có thể tham khảo của các tổ chức nghề nghiệp
quốc tế như ACCA, CPA Úc…
3.3.4 Tăng cường năng lực và vai trò của tổ chức nghề
nghiệp về kiểm toán.
Trước hết ở tổ chức nghề nghiệp phải: Kiện toàn cơ cấu tổ
chức quản trị điều hành, tăng cường bộ máy đủ năng lực, uy tín; Chú
trọng phát triển đội ngũ cán bộ có chuyên môn, có trình độ cao để
22
tăng cường việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, đảm bảo
đạo đức nghề nghiệp của những người hành nghề kiểm toán, không
ngừng nâng cao uy tín, hình ảnh nghề nghiệp, phục vụ tốt cho nhu
cầu xã hội, đặc biệt là công chúng đầu tư.
Đồng thời, Bộ Tài chính cần có lộ trình chuyển giao các công
tác quản lý hành nghề, đào tạo cấp chứng chỉ KTV, kiểm soát chất
lượng kiểm toán các DNKT cho VACPA.
3.3.5 Nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp và năng lực
cạnh tranh của các doanh nghệp
Các DNKT cần thực hiện tốt công tác tự kiểm soát chất lượng
dịch vụ kiểm toán của mình theo quy định của Chuẩn mực kiểm toán
và quy định có liên quan của Bộ Tài chính.
Về phía quản lý nhà nước, trước mắt cần tăng cường hoạt
động kiểm tra, giám sát chất lượng hoạt động kiểm toán, đặc biệt là
các DNKT thực hiện kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng
hoặc những DNKT có quy mô nhỏ. Về lâu dài cần có cơ chế để
chuyển việc kiểm soát chất lượng ra một cơ quan độc lập, hoặc
chuyên giao cho Hội nghề nghiệp để các tổ chức này có thêm cơ chế
khuyến khích cho công tác kiểm soát chất lượng.
3.3.6 Mở rộng hợp tác quốc tế về dịch vụ kiểm toán
Các DNKT cần có kế hoạch tham gia vào các mạng lưới, thành
viên của các hãng kiểm toán quốc tế.
Bộ Tài chính cần mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên
thế giới về lĩnh vực KTĐL nhằm nghiên cứu, học tập kinh nghiệm
quản lý nhà nước về hoạt động KTĐL.
23