Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.28 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN MÔN : KIỂM SOÁT Ô NHIỄM

ĐỀ TÀI : TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ
CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM.
Họ và tên : Đặng Ngọc Quý
Lớp

: K24A - Môi Trường

GVHD

: TS. Lê Ngọc Thuấn

1


Mở đầu
Hiện nay cùng với sự gia tăng dân số mạnh mẽ và sự hình thành, phát triển vượt
bậc của các ngành nghề sản xuất trong thời gian qua, đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế – xã hội của đất nước, song mặt khác đã làm gia tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa,
nguyên vật liệu, năng lượng và cũng làm gia tăng nhanh chóng lượng chất thải rắn phát
sinh. Chất thải rắn tăng nhanh chóng về số lượng, với thành phần ngày càng phức tạp đã và
đang gây khó khăn cho công tác quản lý, xử lý.
Việc thu gom, vận chuyển, xử lý và tiêu hủy chất thải rắn đã và đang trở thành một
bài toán khó đối với các nhà quản lý tại hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là ở các
nước có nền kinh tế đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh đó, công tác quản lý, xử lý chất thải rắn ở nước ta thời gian qua chưa
được áp dụng theo phương thức quản lý tổng hợp, chưa chú trọng đến các giải pháp giảm
thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải dẫn đến khối lượng chất thải
rắn phải chôn lấp cao, không tiết kiệm quỹ đất, tại nhiều khu vực chất thải chôn lấp ở các
bãi chôn lấp tạm, lộ thiên, hiện đã và đang là nguồn gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra,


công tác triển khai các quy hoạch quản lý chất thải rắn tại các địa phương còn chậm; việc
huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng khu xử lý, nhà máy xử lý chất thải rắn còn gặp
nhiều khó khăn; đầu tư cho quản lý, xử lý chất thải rắn còn chưa tương xứng; nhiều công
trình xử lý chất thải rắn đã được xây dựng và vận hành, nhưng cơ sở vật chất, năng lực và
hiệu suất xử lý thải rắn chưa đạt yêu cầu.
Chính vì vậy, hiệu quả đạt được trong công tác quản lý, xử lý chất thải có những
hạn chế nhất định đồng thời việc xử lý chất thải rắn không đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật về
môi trường đã gây những tác động tổng hợp tới môi trường, sức khỏe cộng đồng và phát
triển kinh tế – xã hội.
Bài tiểu luận này của em sẽ nói về vấn đề “ Tình hình quản lý chất thải rắn n tại
Việt Nam “ để cho mọi người có cái nhìn tổng quan về vấn đề này.

2


1. Mục tiêu nghiên cứu.
-

Tình hình quản lý chất thải rắn ở Việt Nam

-

Công tác xử lý chất thải rắn ở Việt Nam.

2. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các hồ sơ đăng ký hành nghề của các

cơ sở xử lý CTNH do Tổng cục Môi trường cấp phép và các tài liệu có liên quan.

-

Phương pháp chuyên gia: trao đổi, tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong quá

trình xem xét cấp phép hành nghề quản lý CTNH và trong các vấn đề cụ thể.
-

Phương pháp thống kê: áp dụng trong việc thống kê các số liệu khảo sát và thu

thập được.
-

Phương pháp phân tích: phân tích và đánh giá công nghệ dựa trên các số liệu khảo

sát.

3


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI RẮN
NGUY HẠI
1. Khái niệm.
Chất thải rắn là toàn bộ các loại vật chất được con người loại bỏ trong các hoạt
động kinh tế - xã hội của mình (bao gồm hoạt động sản xuất, các hoạt động sống và duy trì
sự tồn tại của cộng đồng,...). Trong đó quan trọng nhất là các loại chất thải sinh ra từ các
hoạt động sản xuất và các hoạt động sống.
2. Nguồn gây ra chất thải rắn
Chất thải rắn phát sinh chủ yếu từ các nguồn sau:
- Từ khu dân cư: Bao gồm các khu dân cư tập trung, những hộ dân cư tách rời.
Nguồn rác thải chủ yếu là: thực phẩm dư thừa, thuỷ tinh, gỗ, nhựa, cao su,... còn có một số

chất thải nguy hại
- Từ các động thương mại: Quầy hàng, nhà hàng, chợ, văn phòng cơ quan, khách
sạn,...Các nguồn thải có thành phần tương tự như đối với các khu dân cư (thực phẩm, giấy,
catton,..)
- Các cơ quan, công sở: Trường học, bệnh viện, các cơ quan hành chính: lượng rác
thải tương tự như đối với rác thải dân cư và các hoạt động thương mại nhưng khối lượng ít
hơn.
- Từ xây dựng: Xây dựng mới nhà cửa, cầu cống, sửa chữa đường xá, dỡ bỏ các công
trình cũ. Chất thải mang đặc trưng riêng trong xây dựng: sắt thép vụn, gạch vỡ, các sỏi, bê
tông, các vôi vữa, xi măng, các đồ dùng cũ không dùng nữa
- Dịch vụ công cộng của các đô thị: Vệ sinh đường xá, phát quan, chỉnh tu các công
viên, bãi biển và các hoạt động khác,... Rác thải bao gồm cỏ rác, rác thải từ việc trang trí
đường phố.
- Các quá trình xử lý nước thải: Từ quá trình xử lý nước thải, nước rác, các quá trình
xử lý trong công nghiệp. Nguồn thải là bùn, làm phân compost,...
- Từ các hoạt động sản xuất công nghiệp: Bao gồm chất thải phát sinh từ các hoạt
động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công, quá trình đốt nhiên liệu, bao bì đóng gói sản
phẩm,... Nguồn chất thải bao gồm một phần từ sinh hoạt của nhân viên làm việc.
- Từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp: Nguồn chất thải chủ yếu từ các cánh đồng
sau mùa vụ, các trang trại, các vườn cây,... Rác thải chủ yếu thực phẩm dư thừa, phân gia
súc, rác nông nghiệp, các chất thải ra từ trồng trọt, từ quá trình thu hoạch sản phẩm, chế
biến các sản phẩm nông nghiệp.

3. Phân loại chất thải rắn.
Bảng 1.1. CTR theo các nguồn phát sinh khác nhau
Nguồn phát sinh

Tính chất

Loại chất thải

4


Rác thực phẩm, giấy, vải, da, rác vườn, gỗ, thủy
Thông thường
CTR Đô Thị

tinh, lon, kim loại, lá cây,.. VLXD thải từ xây sửa
nhà, đường giao thông, vật liệu thải từ công
trường,..
Đồ điện, điện tử hư hỏng, nhựa, túi nylon, pin, săm

Nguy hại

lốp xe, sơn thừa, đèn neon hỏng, bao bì thuốc diệt
chuột/ruồi/muỗi,..
Rác thực phẩm, giấy, vải, da, rác vườn, gỗ, thủy

Thông thường

thải chăn nuôi,..
Đồ điện, điện tử hư hỏng, nhựa, túi nylon, pin, săm

CTR Nông thôn
Nguy hại

CTR Công nghiệp

tinh, lon, kim loại, lá cây, rơm rạ, cành lá cây, chất


Thông thường
Nguy hại
Thông thường

CT Y tế
Nguy hại

lốp xe, sơn thừa, đèn neon hỏng, bao bì thuốc diệt
chuột/ruồi/muỗi, bao bì thuốc bảo vệ thực vật,..
Rác thải sinh hoạt của công nhân trong quá trình
sản xuất và sinh hoạt,..
Kim loại nặng, giẻ lau máy, cao su, bao bì đựng
hóa chất độc hại,.
Chất thải nhà bếp, chất thải từ hoạt động hành
chính, bao gói thông thường,..
Phế thải phẫu thuật, bông, gạc, chất thải bệnh nhân,
chất phóng xạ, hóa chất độc hại, thuốc quá hạn,..

5


4. Những ảnh hưởng của chất thải rắn
4.1. Ảnh hưởng tới môi trường nước
Chất thải rắn, đặc biệt là chất thải hữu cơ, trong môi trường nước sẽ bị phân hủy
nhanh chóng. Tại các bãi rác, nước có trong rác sẽ được tách ra kết hợp với các nguồn
nước khác như: nước mưa, nước ngầm, nước mặt hình thành nước rò rỉ. Nước rò rỉ di
chuyển trong bãi rác sẽ làm tăng khả năng phân hủy sinh học trong rác cũng như trong quá
trình vận chuyển các chất gây ô nhiễm ra môi trường xung quanh. Các chất gây ô nhiễm
môi trường tiềm tàng trong nước rác gồm có:
- COD: từ 3000 45.000 mg/l, N-NH3: từ 10

- BOD5: từ 2000

800 mg/l,

30.000 mg/l,

- TOC (Carbon hữu cơ tổng cộng từ: 1500

20.000 mg/l, Phosphorus tổng cộng từ

1

70 mg/l …
- Lượng lớn các vi sinh vật, ngoài ra có có các kim loại nặng khác gây ảnh hưởng
lớn tới môi trường nước nếu như không được xử lý.

4.2. Ảnh hưởng tới môi trường không khí
Các loại rác thải dễ phân hủy (như thực phẩm, trái cây hỏng …) trong điều kiện
nhiệt độ và độ ẩm thích hợp (nhiệt độ tốt nhất là 35 0C và độ ẩm 70 80%) sẽ được các vi
sinh vật phân hủy tạo ra mùi hôi và nhiều loại khí ô nhiễm khác có tác động xấu đến môi
trường đô thị, sức khỏe và khả năng hoạt động của con người.

4.3. Ảnh hưởng tới môi trường đất
Các chất thải hữu cơ sẽ được vi sinh vật phân hủy trong môi trường đất trong hai
điều kiện hiếu khí và kỵ khí. Khi có độ ẩm thích hợp sẽ tạo ra hàng loạt các sản phẩm
trung gian, cuối cùng hình thành các chất khoáng đơn giản, nước, CO2, CH4 …
Với một lượng rác thải và nước rò rỉ vừa phải thì khả năng tự làm sạch của môi
trường đất sẽ phân hủy các chất này trở thành các chất ít ô nhiễm hoặc không ô nhiễm.
Nhưng với lượng rác quá lớn vượt quá khả năng tự làm sạch của đất thì môi trường
đất sẽ trở nên quá tải và bị ô nhiễm. Các chất ô nhiễm này cùng với kim loại nặng, các chất

độc hại và các vi trùng theo nước trong đất chảy xuống tầng nước ngầm làm ô nhiễm tầng
nước này.
Đối với rác không phân hủy như nhựa, cao su … nếu không có giải pháp xử lý
thích hợp thì chúng sẽ là nguy cơ gây thoái hóa và giảm độ phì của đất.

4.4. Ảnh hưởng tới sức khỏe của con người
Chất thải rắn phát sinh từ các khu đô thị, nếu không được thu gom và xử lý đúng
cách sẽ gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng dân cư và làm
mất mỹ quan đô thị.

6


Thành phần chất thải rắn rất phức tạp, trong đó có chứa các mầm bệnh từ người
hoặc gia súc, các chất thải hữu cơ, xác súc vật chết … tạo điều kiện tốt cho ruồi, muỗi,
chuột… sinh sản và lây lan mầm bệnh cho người, nhiều lúc trở thành dịch. Một số vi
khuẩn, siêu vi khuẩn, ký sinh trùng… tồn tại trong rác có thể gây bệnh cho con người như:
bệnh sốt rét, bệnh ngoài da, dịch hạch, thương hàn, tiêu chảy, giun sán, lao…
Phân loại, thu gom và xử lý rác không đúng quy định là nguy cơ gây bệnh nguy
hiểm cho công nhân vệ sinh, người bới rác, nhất là khi gặp phải các chất thải rắn nguy hại
từ y tế, công nghiệp như: kim tiêm, ống chích, mầm bệnh, PCB, hợp chất hữu cơ bị
halogen hóa…
Tại các bãi rác lộ thiên, nếu không được quản lý tốt sẽ gây ra nhiều vấn đề nghiêm
trọng cho bãi rác và cộng đồng dân cư trong khu vực như: gây ô nhiễm không khí, các
nguồn nước, ô nhiễm đất và là nơi nuôi dưỡng các vật chủ trung gian truyền bệnh cho
người.
Rác thải nếu không được thu gom tốt cũng là một trong những yếu tố gây cản trở
dòng chảy, làm giảm khả năng thoát nước của các sông rạch và hệ thống thoát nước đô thị.

7



CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ
CHẤT THẢI RẮN TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng về chất thải rắn tại Việt Nam
Trước đây công tác quản lý CTR được các nhà quản lý quan tâm tập trung chủ yếu
vào công tác thu gom và xử lý các loại chất thải phát sinh từ hoạt động sinh hoạt của con
người (CTR sinh hoạt). Chính vì vậy, mô hình thu gom, xử lý khi đó cũng mới chỉ hình
thành ở mức độ đơn giản. Đơn vị chịu trách nhiệm quản lý, thu gom, vận chuyển và xử lý
CTR được giao cho Phòng Quản lý đô thị trực thuộc UBND tỉnh, thành phố với đơn vị
chịu trách nhiệm vệ sinh đường phố là các công nhân quét dọn và thu gom rác thải từ các
hoạt động sinh hoạt của người dân khu vực đô thị. Chất thải sau đó được tập kết và đổ thải
tại nơi quy định.
Trong giai đoạn tiếp theo, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, các ngành kinh tế bắt đầu được Nhà nước ưu tiên phát triển. Các hoạt động công
nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi và các ngành du lịch, dịch vụ theo đó cũng phát triển mạnh
là nguyên nhân phát sinh lượng chất thải ngày càng lớn của các ngành nêu trên. Đi kèm
với quá trình phát sinh về khối lượng là tính phức tạp, sự nguy hại về tính chất. Công tác
quản lý CTR không còn đơn thuần là quản lý CTR sinh hoạt mà còn bao gồm vấn đề quản
lý CTR công nghiệp, xây dựng, y tế, nông nghiệp...
Quá trình phát triển đòi hỏi công tác quản lý CTR phát triển tương ứng về cơ chế,
chính sách, pháp luật và các nguồn lực. Nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế đặt ra, công
tác quản lý CTR được điều chỉnh bằng một hệ thống các chính sách, văn bản quy phạm
pháp luật quy định khá chi tiết. Song song với đó, hệ thống tổ chức quản lý CTR bắt đầu
hình thành và phát triển với các nguyên tắc tương đối cụ thể; căn cứ theo chức năng quản
lý và nhiệm vụ được giao, các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm quản lý CTR phát sinh
của ngành.
Cho đến nay, hoạt động quản lý CTR không chỉ tập trung vào công tác thu gom và
tập kết CTR sinh hoạt đô thị đến nơi đổ thải theo quy định. Công tác quản lý CTR hiện nay
đã mở rộng hơn, bao gồm từ hoạt động thu gom, vận chuyển, trung chuyển và xử lý CTR

hợp vệ sinh, đảm bảo các QCVN và TCVN đặt ra; không những đối với CTR sinh hoạt đô
thị, nông thôn mà còn đối với CTR công nghiệp, CTR từ hoạt động sản xuất nông nghiệp,
chăn nuôi và CTR y tế.
Mặc dù hiện nay, công tác quản lý CTR chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tế nhưng
cùng với sự phát triển KT-XH, đi cùng với xu hướng phát triển và hội nhập, công tác quản
lý CTR đã từng bước được thay đổi, tăng cường để phát huy hơn nữa vai trò và hiệu quả
thực hiện.
CTR thông thường phát sinh trong cả nước: 28 triệu tấn/năm, trong đó:
-

CTR công nghiệp thông thường: 6,88 triệu tấn/năm

-

CTR sinh hoạt ≈ 19 triệu tấn/năm

8


-

CTR y tế thông thường ≈ 2,12 triệu tấn/năm

CTR nguy hại: phát sinh tại 35/63 tỉnh/thành phố khoảng 700 nghìn tấn/năm:

Hình 2.1. Hiện trạng chất thải rắn tại Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, lượng chất thải không ngừng gia tăng tạo sức ép rất lớn
đối với công tác BVMT. Theo kết quả thống kê năm 2009, theo báo cáo của 35/63 tỉnh
thành phố, lượng CTNH phát sinh từ các địa phương này đã vào khoảng 700 nghìn tấn.
Năm 2009, lượng CTNH được thu gom, vận chuyển, xử lý bởi các đơn vị hành nghề quản

lý CTNH liên tỉnh do Tổng cục Môi trường cấp phép là hơn 100 nghìn tấn (chỉ đáp ứng
một phần nhỏ trong tổng lượng phát sinh).
Phát sinh CTNH rất đa dạng về nguồn và chủng loại trong khi công tác phân loại
tại nguồn còn yếu dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý và xử lý. Chất thải công nghiệp
tại Việt Nam chiếm khoảng từ 13% - 20% tổng lượng chất thải, trong số đó, CTNH chiếm
khoảng 18% tổng số chất thải công nghiệp. CTNH còn phát sinh từ các hoạt động sản xuất
nông nghiệp như các vỏ chai lọ hóa chất, phân bón, thuốc BVTV,... sau quá trình sử dụng,
thậm chí tiện thể vứt ở ngay bờ ruộng, góc vườn hoặc nguy hiểm hơn.
Xu hướng thay đổi về thành phần CTR Sự thay đổi thành phần CTR có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc hoạch định kế hoạch quản lý CTR.
Tại các nước phát triển, 4 thành phần CTR có xu hướng thay đổi lớn: chất thải từ thực
phẩm thừa, giấy, nilon - nhựa và vải; Chất thải thực phẩm: sự phát triển của ngành công
nghiệp chế biến và đóng gói thực phẩm có ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi lượng chất thải
thực phẩm. Cộng đồng cũng đã ý thức về các vấn đề liên quan đến môi trường nhiều hơn,
xu hướng sử dụng thực phẩm công nghiệp đã gia tăng đáng kể;
Chất thải rắn trường hợp còn vứt bừa bãi ngay đầu nguồn nước sinh hoạt. Tổng số
các loại hoá phẩm nông nghiệp hiện được lưu giữ có thể hơn 37 nghìn tấn, trong đó có
53% được lưu giữ tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh các kho lưu giữ, theo
điều tra tại 39 tỉnh thành trong cả nước thì có đến hơn 730 nghìn hoá phẩm nông nghiệp
9


không nhãn mác, bao gồm các chai lọ bằng nhựa, thuỷ tinh hay kim loại. Những hoá phẩm
này hiện đang thải bỏ không đúng cách hoặc vẫn được sử dụng.
Trong hoạt động y tế, lượng CTR y tế phát sinh hiện vào khoảng 350 tấn/ngày.
Chất thải y tế được chia làm 5 loại gồm: chất thải lâm sàng, chất thải phóng xạ, chất thải
hoá học, các bình khí có áp suất và chất thải sinh hoạt thông thường. CTR y tế nguy hại
chiếm tỉ trọng khoảng 20 - 25% tổng lượng phát sinh trong các cơ sở y tế. Đó là chất thải
có tính lây nhiễm như máu, dịch, chất tiết, bộ phận cơ thể, vật sắc nhọn, chất thải hóa học,
dược phẩm, chất thải phóng xạ và các bình áp suất có khả năng cháy nổ.


2.2. Tình hình quản lý chất thải rắn nguy hại.
2.2.1. Tình hình phát sinh
Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, lượng chất thải nguy hại phát sinh trên toàn quốc khoảng 800 ngàn tấn/năm.
Số lượng chất thải nguy hại này được thống kê dựa trên số lượng chất thải nguy hại tối đa
dự kiến phát sinh từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (do các chủ cơ sở này đăng
ký) và không bao gồm lượng chất thải nguy hại phát sinh từ các cá nhân, hộ gia đình nên
có độ chính xác chưa cao. Lượng chất thải nguy hại phát sinh thực tế hàng năm hiện chưa
được thống kê đầy đủ nhưng thường ít hơn số lượng 800 ngàn tấn nêu trên, đặc biệt là
trong tình hình kinh tế khó khăn trong giai đoạn vừa qua.
Hiện nay, đa phần các chủ nguồn thải có phát sinh lượng chất thải nguy hại lớn
hàng năm đều đã đăng ký và được cấp Sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại.
Lượng chất thải nguy hại phát sinh từ các chủ nguồn thải này đều đã được thu gom và đưa
đến các cơ sở đã cấp phép để xử lý. Một phần lượng chất thải nguy hại phát sinh từ các
nguồn thải khác được xử lý bởi chính các chủ nguồn thải (bằng các công trình bảo vệ môi
trường tại cơ sở), bởi các cơ sở xử lý do địa phương cấp phép hoặc được xuất khẩu ra nước
ngoài để xử lý, tái chế. Một số chất thải nguy hại đặc thù do chưa có công nghệ xử lý phù
hợp thì hiện đang được lưu giữ tại nơi phát sinh.
Với tình hình như vậy, nhìn chung lượng chất thải nguy hại phát sinh tại hầu hết
các chủ nguồn thải lớn đều đã được quản lý đúng theo các quy định hiện hành. Lượng chất
thải nguy hại phát sinh tại các chủ nguồn thải nhỏ hoặc tại các vùng sâu, vùng xa chỉ phần
nhỏ được thu gom, xử lý; số còn lại được các làng nghề thu gom, tái chế chưa đảm bảo yêu
cầu về môi trường hoặc thậm chí bị đổ lẫn vào chất thải sinh hoạt và chôn lấp chung tại bãi
chôn lấp chất thải sinh hoạt, gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và sức khỏe cộng
đồng.

10



2.2.2. Năng lực thu gom, xử lý
Đến tháng 6 năm 2015, trên toàn quốc có 83 doanh nghiệp với 56 đại lý có địa bàn
hoạt động từ hai tỉnh trở lên đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép và khoảng
130 đơn vị (chủ yếu là đơn vị vận chuyển chất thải nguy hại) do các địa phương cấp phép
đang hoạt động. Riêng công suất xử lý chất thải nguy hại của các cơ sở được Bộ Tài
nguyên và Môi trường cấp phép là khoảng 1.300 nghìn tấn/năm. Với số lượng và công suất
xử lý như vậy, các cơ sở này trong thời gian qua đã đóng vai trò chính trong việc thu gom,
vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại (bao gồm cả chất thải điện tử) đảm bảo tuân thủ các
tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện hành. Tổng số lượng chất thải nguy hại mà các đơn vị này thu
gom, xử lý được trong năm 2012 là 165.624 tấn; năm 2013 là 186.657 tấn; năm 2014 là
320.275 tấn. Căn cứ vào khối lượng chất thải phát sinh này, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải
nguy hại hiện nay chiếm khoảng gần 40% tổng lượng chất thải nguy hại phát sinh trên toàn
quốc.
Hiện nay, hầu hết các Doanh nghiệp xử lý chất thải nguy hại là các doanh nghiệp tư
nhân (chiếm 97%) tổng số Doanh nghiệp xử lý chất thải nguy hại do Bộ Tài nguyên và
Môi trường cấp phép hoạt động. Việc phát triển mạnh các doanh nghiệp tư nhân hoạt động
theo cơ chế thị trường giúp cho hoạt động quản lý chất thải mang tính cạnh tranh cao, đảm
bảo quyền lợi cho các chủ nguồn thải có chất thải nguy hại cần chuyển giao có thể chọn
lựa và tiếp cận với các Doanh nghiệp xử lý chất thải nguy hại với kinh nghiệm và dịch vụ
khác nhau, tránh tình trạng độc quyền và ép giá xử lý chất thải nguy hại.
Về công nghệ xử lý chất thải nguy hại đang được sử dụng ở nước ta hiện nay có thể
được hình dung sơ bộ theo các thống kê tại bảng:
Bảng 2.1.: Thống kê công nghệ xử lý chất thải nguy hại ở Việt Nam (tháng 7/2014)
Số cơ sở áp
Số mô đun hệ
Công suất
TT
Tên công nghệ
dụng
thống

phổ biến
1

Lò đốt tĩnh hai
cấp

34

47

50 – 2000 kg/h

2

Lò đốt quay

02

02

18 – 21
tấn/ngày

3

Đồng xử lý trong
lò nung xi măng

2


2

15 – 30 tấn /h

4

Chôn lấp

5

6

2.000 – 20.000
m3

31

33

1 – 5 m3/h

23

24

3-20 tấn/ngày

23

24


0,2 -10 tấn/ngày

18

19

0,3 – 5 tấn/ngày

5
6
7
8

Hóa rắn (bê tông
hóa)
Xử lý, tái chế dầu
thải
Xử lý bóng đèn
thải
Xử lý chất thải
điện tử

11


9
10

Phá dỡ, tái chế ắc

quy chì thải
Bể đóng kén

18

22

01

10

0,5 – 200
tấn/ngày
500 m3

2.3. Tình hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt
2.3.1. Tình hình phát sinh
Theo báo cáo môi trường quốc gia, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại
các đô thị trên toàn quốc tăng trung bình 10-16% mỗi năm, chiếm khoảng 60-70% tổng
lượng chất thải rắn đô thị và tại một số đô thị tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt phát sinh chiếm
đến 90% tổng lượng chất thải rắn đô thị. Chất thải rắn sinh hoạt đô thị phát sinh với khối
lượng lớn tại hai đô thị đặc biệt là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, chiếm tới
45,24% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ tất cả các đô thị. Chỉ số phát sinh
chất thải rắn sinh hoạt bình quân trên đầu người ở mức độ cao từ 0,9-1,38 kg/người/ngày ở
thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số đô thị phát triển về du lịch như:
thành phố Hạ Long, thành phố Đà Lạt, thành phố Hội An,…Chỉ số phát sinh chất thải rắn
sinh hoạt bình quân trên đầu người thấp nhất tại thành phố Đồng Hới, thành phố Kon Tum,
thị xã Gia Nghĩa thuộc tỉnh Đăk Nông, thành phố Cao Bằng từ 0,31-0,38 kg/người/ngày.
Khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên toàn quốc năm 2014 khoảng 23
triệu tấn tương đương với khoảng 63.000 tấn/ngày, trong đó, chất thải rắn sinh hoạt đô thị

phát sinh khoảng 32.000 tấn/ngày. Chỉ tính riêng tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh là: 6.420 tấn/ngày và 6.739
tấn/ngày.

2.3.2. Tình hình thu gom, vận chuyển
Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt hiện nay tại khu vực nội thành của các đô thị
trung bình đạt khoảng 85% so với lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh và tại khu vực
ngoại thành của các đô thị trung bình đạt khoảng 60% so với lượng chất thải rắn sinh hoạt
phát sinh. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại khu vực nông thôn còn thấp, trung bình
đạt khoảng 40-55% so với lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh, tỷ lệ thu gom chất thải
rắn sinh hoạt tại các vùng nông thôn ven đô hoặc các thị trấn, thị tứ cao hơn tỷ lệ thu gom
chất thải rắn sinh hoạt tại các vùng sâu, vùng xa.
Tại các đô thị, việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt do Công ty môi
trường đô thị hoặc Công ty công trình đô thị thực hiện. Bên cạnh đó, trong thời gian qua
với chủ trương xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường của Nhà nước, đã có các đơn vị tư
nhân tham gia vào công tác thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt tại đô thị. Nguồn
kinh phí cho hoạt động thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt đô thị hiện nay do Nhà
nước bù đắp một phần từ nguồn thu phí vệ sinh trên địa bàn. Mức thu phí vệ sinh hiện nay
từ 4000-6000 đồng/người/tháng hoặc từ 10.000-30.000 đồng/hộ/tháng tùy theo mỗi địa
phương. Mức thu tại các cơ sở sản xuất, dịch vụ từ 120.000-200.000 đồng/cơ sở/tháng tùy
theo quy mô, địa phương

12


Tại khu vực nông thôn, việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt phần lớn
là do các hợp tác xã, tổ đội thu gom đảm nhiệm với chi phí thu gom thỏa thuận với người
dân đồng thời có sự chỉ đạo của chính quyền địa phương. Mức thu và cách thu tùy thuộc
vào từng địa phương, từ 10.000-20.000 đồng/hộ/tháng và do thành viên hợp tác xã, tổ đội
thu gom trực tiếp đi thu. Hiện có khoảng 40% số thôn, xã hình thành các tổ, đội thu gom

chất thải rắn sinh hoạt tự quản, công cụ phục vụ cho công tác thu gom, vận chuyển hầu hết
do tổ đội tự trang bị. Tuy nhiên, trên thực tế tại khu vực nông thôn không thuận tiện về
giao thông, dân cư không tập trung còn tồn tại hiện tượng người dân vứt bừa bãi chất thải
ra sông suối hoặc đổ thải tại khu vực đất trống mà không có sự quản lý của chính quyền
địa phương.

2.3.3. Tình hình xử lý
Chất thải rắn sinh hoạt được xử lý chủ yếu bằng hình thức chôn lấp, sản xuất phân
hữu cơ và đốt.
Tính đến Quý I năm 2014, trong khuôn khổ Chương trình xử lý chất thải rắn giai
đoạn 2011-2020 đã có 26 cơ sở xử lý chất thải rắn tập trung được đầu tư xây dựng theo
hoạch xử lý chất thải rắn của các địa phương. Trong số 26 cơ sở xử lý chất thải rắn có 03
cơ sở xử lý sử dụng công nghệ đốt, 11 cơ sở xử lý sử dụng công nghệ sản xuất phân hữu
cơ, 11cơ sở xử lý sử dụng công nghệ sản xuất phân hữu cơ kết hợp với đốt, 01 cơ sở xử lý
sử dụng công nghệ sản xuất viên nhiên liệu. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của 26 cơ sở
chưa được đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện; chưa lựa chọn được mô hình xử lý chất
thải rắn hoàn thiện đạt được cả các tiêu chí về kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường.
Theo thống kê tính đến năm 2013 có khoảng 458 bãi chôn lấp chất thải rắn có quy
mô trên 1ha, ngoài ra còn có các bãi chôn lấp quy mô nhỏ ở các xã chưa được thống kê
đầy đủ. Trong số 458 bãi chôn lấp có 121 bãi chôn lấp hợp vệ sinh và 337 bãi chôn lấp
không hợp vệ sinh. Các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh phần lớn là bãi rác tạm, lộ thiên,
không có hệ thống thu gom, xử lý nước rỉ rác, đang là nguồn gây ô nhiễm môi trường.
Một số cơ sở xử lý bằng hình thức chôn lấp hợp vệ sinh hiện đang hoạt động như:
Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Đa Phước thuộc Công ty TNHH xử lý chất thải rắn Việt
Nam; Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Tây Bắc Củ Chi thuộc Công ty TNHH MTV môi
trường đô thị thành phố Hồ Chí Minh; Khu xử lý chất thải Nam Sơn thuộc Công ty TNHH
MTV môi trường đô thị Hà Nội,…Trên thực tế, tại nhiều cơ sở xử lý chất thải rắn bằng
hình thức chôn lấp, quá trình kiểm soát ô nhiễm chưa thực sự đem lại hiệu quả trong công
tác bảo vệ môi trường, hiện vẫn đang là vấn đề gây bức xúc trong xã hội. Bên cạnh đó,
chưa có cơ sở xử lý chất thải rắn bằng hình thức chôn lấp nào tận thu được nguồn năng

lượng từ khí thải thu hồi từ bãi chôn lấp chất thải, gây lãng phí nguồn tài nguyên.
Hiện nay, các cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt thành phân hữu cơ sử dụng công
nghệ ủ hiếu khí, một số cơ sở xử lý đang hoạt động: Nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt
Nam Bình Dương thuộc Công ty TNHH MTV cấp thoát nước và môi trường Bình Dương;
Nhà máy xử lý và chế biến chất thải Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh thuộc Công ty TNHH MTV
quản lý công trình đô thị Hà Tĩnh; Nhà máy xử lý rác Tràng Cát, thuộc Công ty TNHH
13


MTV môi trường đô thị Hải Phòng; Nhà máy xử lý chất thải rắn Nam Thành, Ninh Thuận
thuộc Công ty TNHH xây dựng thương mại và sản xuất Nam Thành;…Hệ thống thiết bị
trong dây chuyền công nghệ của các cơ sở xử lý được thiết kế chế tạo trong nước hoặc cải
tiến từ công nghệ nước ngoài. Một số công nghệ mới được nghiên cứu và áp dụng trong
nước đáp ứng được tiêu chí hạn chế chôn lấp nhưng việc hoàn thiện công nghệ và triển
khai nhân rộng còn gặp nhiều khó khăn do vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân còn
hạn chế; tính đồng bộ, hiện đại, mức độ tự động hóa của hệ thống thiết bị trong dây chuyền
công nghệ chưa cao; các công nghệ xử lý chất thải rắn chưa được sản xuất ở quy mô công
nghiệp. Một số địa phương sử dụng nguồn vốn ODA để nhập khẩu từ nước ngoài các công
nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt thành phân hữu cơ nhưng công nghệ xử lý chưa đạt được
hiệu quả như mong muốn: dây chuyền xử lý chất thải rắn sinh hoạt chưa phù hợp với điều
kiện Việt Nam, tỉ lệ chất thải rắn được đem chôn lấp hoặc đốt sau xử lý rất lớn từ 35-80%,
chi phí vận hành và bảo dưỡng cao,…Ngoài ra, sản phẩm phân hữu cơ sản xuất ra hiện nay
khó tiêu thụ, chỉ phù hợp với một số loại cây công nghiệp.
Tại Việt Nam hiện nay đang có xu hướng đầu tư đại trà lò đốt chất thải rắn sinh
hoạt ở tuyến huyện, xã. Do vậy, đang tồn tại tình trạng mỗi huyện, xã tự đầu tư lò đốt công
suất nhỏ để xử lý chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên địa bàn. Theo báo cáo của các địa
phương, trên cả nước có khoảng 50 lò đốt chất thải rắn sinh hoạt, đa số là các lò đốt cỡ
nhỏ, công suất xử lý dưới 500kg/giờ, các thông số chi tiết về tính năng kỹ thuật khác của
lò đốt chất thải chưa được thống kê đầy đủ. Trong đó có khoảng 2/3 lò đốt được sản xuất,
lắp ráp trong nước. Một số cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt sử dụng công nghệ đốt công

suất lớn, hiện đang hoạt động: Nhà máy xử lý chất thải Sơn Tây thuộc Công ty cổ phần
dịch vụ môi trường Thăng Long; Xí nghiệp xử lý chất thải rắn và sản xuất phân bón tại
cụm công nghiệp Phong Phú thuộc Công ty TNHH MTV môi trường đô thị Thái Bình;…
Việc đầu tư lò đốt công suất nhỏ là giải pháp tình thế, góp phần giải quyết nhanh
chóng vấn đề chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên địa bàn, đặc biệt với khu vực nông thôn.
Tuy nhiên, một số lò đốt công suất nhỏ không có hệ thống xử lý khí thải và trên ống khói
không có điểm lấy mẫu khí thải; không có thiết kế, hồ sơ giấy tờ liên quan tới lò đốt.
Nhiều lò đốt công suất nhỏ được đầu tư xây dựng trên địa bàn dẫn tới việc xử lý chất thải
phân tán, khó kiểm soát việc phát thải ô nhiễm thứ cấp vào môi trường không khí. Ngay cả
với một số lò đốt công suất lớn thì hiện còn tồn tại các vấn đề: phân loại, nạp liệu chưa tối
ưu; chưa thu hồi được năng lượng từ quá trình xử lý chất thải; kiểm soát ô nhiễm chưa đảm
bảo; chưa có hệ thống thu hồi nước rác; không có hệ thống xử lý nước rỉ rác; xử lý mùi,
côn trùng chưa triệt để.
Qua khảo sát thực tế cho thấy nhiều lò đốt hiệu quả xử lý chưa cao, khí thải phát
sinh chưa được kiểm soát chặt chẽ, có nguy cơ phát sinh khí Dioxin, Furan, là nguồn gây ô
nhiễm môi trường không khí xung quanh.

14


2.4. Tình hình quản lý chất thải rắn công nghiệp thông thường.
2.4.1. Tình hình phát sinh
Theo kết quả điều tra và ước tính của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tổng lượng
chất thải rắn công nghiệp thông thường phát sinh từ các khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao (viết tắt là khu công nghiệp) vào khoảng 7 triệu tấn/năm.
Ngoài ra, còn có lượng chất thải rắn công nghiệp thông thường phát sinh từ các
ngành công nghiệp khác: khai thác than, công nghiệp nhiệt điện, công nghiệp rượu bia
nước giải khát,… chưa được thống kê đầy đủ.

2.4.2. Tình hình thu gom, vận chuyển

Tỷ lệ thu gom chất thải rắn công nghiệp khá cao, đạt trên 90% khối lượng chất thải
rắn công nghiệp phát sinh. Tỷ lệ này đạt được do chủ nguồn thải xác định và có đăng ký
với Ban quản lý khu công nghiệp.
Hầu hết các cơ sở trong khu công nghiệp ký hợp đồng với các đơn vị hoạt động
trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển chất thải, chiếm tỷ lệ 74,2%; các cơ sở bán chất thải có
giá trị kinh tế chiếm tỷ lệ 18%; một số cơ sở thực hiện nghiền nát chất thải làm nguyên liệu
đun.
Thực tế, còn tồn tại hiện tượng các chất thải không có giá trị kinh tế được thu gom
và đổ lẫn với chất thải sinh hoạt thậm chí còn lẫn cả với chất thải nguy hại, gây khó khăn
cho quá trình thu gom, xử lý. Trước khi được chuyển giao cho các đơn vị hoạt động trong
lĩnh vực thu gom, vận chuyển, chất thải rắn công nghiệp thường được chất thành đống
trong kho chứa, hoặc tại các khu vực trống trong các khuôn viên cơ sở. Tuy nhiên, tại
nhiều cơ sở sản xuất hệ thống kho chứa chất thải rắn công nghiệp còn chưa đạt yêu cầu,
không có mái che, để lộ thiên trong khuôn viên cơ sở. Việc thu gom chất thải rắn công
nghiệp trong nội bộ các nhà máy, xí nghiệp trong khu, cụm công nghiệp do đội vệ sinh của
nhà máy, xí nghiệp đó đảm nhiệm và Ban quản lý khu, cụm công nghiệp chịu trách nhiệm
quản lý chung. Tại nhiều khu công nghiệp chưa có điểm tập trung thu gom chất thải rắn
theo quy định.

2.4.3. Tình hình xử lý
Hiện nay, trong cả nước đang rất thiếu các khu xử lý chất thải rắn công nghiệp, đặc
biệt là khu xử lý chất thải trung quy mô lớn. Việc xử lý chất thải rắn công nghiệp mới chỉ
thực hiện ở các đơn vị có quy mô nhỏ. Ngoài ra, có một số cơ sở sản xuất công nghiệp
ngoài cụm công nghiệp, khu công nghiệp hợp đồng với các tổ chức, cá nhân không có
chức năng thu gom, vận chuyển, dẫn đến việc đổ chất thải không đúng nơi quy định, gây ô
nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân.
Việc tái chế, tái sử dụng chất thải rắn công nghiệp diễn ra khá phổ biến chủ yếu là
tự phát tại các cơ sở công nghiệp. Các chất thải có thể tái sử dụng được các cơ sở thu hồi
để quay vòng sản xuất hoặc được bán cho các đơn vị khác để tái chế.


15


2.5. Các văn bản đã ban hành trong lĩnh vực quản lý chất thải rắn.
– Luật Bảo vệ môi trường năm 2014
– Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường
– Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 của Chính Phủ về quản
lý chất thải và phế liệu
– Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 quy định về quy hoạch
bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế
hoạch bảo vệ môi trường
– Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 9 tháng 4 năm 2007của chính phủ ban hành
quy định về hoạt động quản lý chất thải rắn, quyền hạn và trách nhiệm của các cá nhân, tổ
chức liên quan đến QLCTR
– Nghị định số 179/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BVMT
– Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5 tháng 9 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030
– Quyết định số 2149/2009/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2009 của Thủ tướng
chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2015,
tầm nhìn đến năm 2050.
– Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về chính
sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dậy nghề, y
tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
– Quyết định số 1440/2008/QĐ-TTg ngày 6 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng
chính phủ phê duyệt kế hoạch các cơ sở xử lý chất thải tại ba vùng kinh tế trọng điểm miền
Bắc, Trung, Nam đến năm 2020.
– Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT quy định về quản lý chất thải nguy hại.

– Thông tư số 13/2007/TT-BXD ngày 31/12/2007 của Bộ Xây dựng hướng dẫn một
số điều của Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 9/4/2007 của Chính phủ về quản lý chất
thải rắn.
– Quyết định số 60/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 7/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Khoa
học Công nghệ và Môi trường về việc ban hành Hướng dẫn kỹ thuật chôn lấp chất thải
nguy hại
– Thông tư liên Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường và Bộ Xây dựng số
01/2001/TTLT-BKHCNMT-BXD ngày 18 tháng 1 năm 2001 hướng dẫn các quy định về
bảo vệ môi trường đối với việc chọn lựa địa điểm, xây dựng và vận hành bãi chôn lấp chất
thải rắn.

16


– Thông tư số 121/2008/TT-BTC ngày 12 tháng 12 năm 2008 của Bộ Tài chính
hướng dẫn cơ chế ưu đãi và hỗ trợ tài chính đối với hoạt động đầu tư cho quản lý chất thải
rắn.
– QCVN 07:2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy
hại.
– QCVN 02:2013/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất
thải rắn y tế
– QCVN 30:2012/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất
thải công nghiệp.
– QCVN 41: 2011/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về đồng xử lý chất thải
nguy hại trong lò nung xi măng.
– QCVN 56: 2013/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về tái chế dầu thải.
– TCXDVN 261-2001: Bãi chôn lấp chất thải rắn. Tiêu chuẩn thiết kế.
– TCVN 6696-2000: Chất thải rắn – Bãi chôn lấp hợp vệ sinh – các yêu cầu về môi
trường.
– TCVN 6706-2009: Chất thải nguy hại – Phân loại.

– TCXDVN 320:2004 bãi chôn lấp chất thải nguy hại – tiêu chuẩn thiết kế.

17


CHƯƠNG III. TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP XỬ LÝ
ĐƯA RA
3.1.Tồn tại
3.1.1.Công tác quản lý chất thải nguy hại
Hiện nay, một vấn đề dễ nhận thấy là sự phát triển không đồng đều giữa các vùng
miền cũng như các địa phương trong công tác quản lý chất thải nguy hại. chất thải nguy
hại phát sinh tập trung chủ yếu tại các Vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước. Cùng với sự
phát triển mạnh việc công nghiệp hóa tại các tỉnh thành nằm trong Vùng kinh tế trọng
điểm thì lượng phát sinh chất thải nguy hại tại địa phương đó càng tăng cao và diễn biến
phức tạp, đòi hỏi cơ sở vật chất để quản lý chất thải nguy hại cũng như cơ quan quản lý
nhà nước về chất thải nguy hại tại địa phương phải được xây dựng và vận hành khoa học,
đáp ứng với nhu cầu phát triển. Ngược lại, thời gian qua, quản lý chất thải nguy hại tại các
tỉnh vùng sâu, vùng xa lại chưa nhận được sự quan tâm thoả đáng. Để giải quyết vấn đề
này, tại Nghị định 38/2015/NĐ-CP và Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT đã có các quy
định để có thể có biện pháp quản lý phù hợp với các địa phương này kể từ khâu lưu giữ,
thu gom, vận chuyển và xử lý. Một trong những giải pháp đưa ra là xây dựng những trung
tâm xử lý chất thải nguy hại theo cụm hoặc theo Vùng để giải quyết cho những địa phương
phát sinh ít chất thải nguy hại. Hi vọng, trong thời gian tới việc quản lý chất thải nguy hại
sẽ có những chuyển biến tích cực.
Về nhân lực: Lực lượng cán bộ quản lý chuyên trách của các tỉnh thành phố và
ngay tại Trung ương còn khá mỏng, trong khi đó nhiệm vụ được giao là tương đối lớn và
phức tạp. Quản lý chất thải nguy hại tại địa phương hiện nay đa phần được giao cho Phòng
Kiểm soát ô nhiễm trực thuộc Chi cục Bảo vệ môi trường các địa phương. Tuy nhiên, về
nhân lực các Phòng Kiểm soát ô nhiễm đa phần có từ 3-5 nhân lực, một vài địa phương có
hơn 10 nhân lực tuy nhiên quản lý địa bàn lên tới cả ngàn chủ nguồn thải gây sức ép không

hề nhỏ cho việc quản lý chất thải nguy hại.
Các cơ sở xử lý chất thải nguy hại được cấp phép nhìn chung còn ở quy mô vừa và
nhỏ, chưa có cơ sở lớn ở quy mô vùng được đầu tư tập trung đầy đủ về mặt công nghệ và
công suất xử lý để xử lý các loại chất thải nguy hại khác nhau.
Công nghệ xử lý chất thải nguy hại của nước ta hiện nay chưa hiện đại, dựa chủ
yếu vào công nghệ đốt, không tiết kiệm được năng lượng cũng như có khả năng gây ô
nhiễm thứ cấp nếu như các công trình bảo vệ môi trường liên quan hoạt động thiếu hiệu
quá

18


Nguồn nhân lực có chuyên môn về quản lý chất thải nguy hại hiện còn mỏng và chỉ
tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn dẫn đến nhiều bất cập trong vấn đề thực thi các văn
bản pháp lý tại các địa phương, đặc biệt là tại các tỉnh vùng sâu, vùng xa…
Đầu tư tài chính cho quản lý chất thải nguy hại chưa tương xứng. Việc thu gom, xử
lý chất thải nguy hại nói chung và chất thải nguy hại công nghiệp nguy hại nói riêng cần
được đầu tư thỏa đáng về công nghệ và vốn. Trong khi đó, mức phí thu gom, xử lý chất
thải nguy hại còn chưa thoả đáng, vì vậy việc đầu tư cơ sở, công nghệ cũng như hoạt động
thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại còn manh mún, tự phát và chưa hiệu quả.

3.2. Giải pháp xử lý đưa ra
3.2.1. Theo từng loại chất thải nói riêng
Đối với nhóm CTR đô thị
- Khuyến khích, thay đổi hành vi, xây dựng lối sống thân thiện đối với môi trường
của người dân. Thực hiện các chương trình thúc đẩy người dân mua các loại sản phẩm có ít
bao bì, tái sử dụng các túi đựng nhiều lần, sử dụng các loại bao bì dễ phân hủy trong tự
nhiên, nói không với túi nilon khó phân hủy. Xây dựng tiêu chuẩn thời gian lưu hành của
một số sản phẩm, cung cấp thông tin cho người tiêu dùng sử dụng các đồ dùng, vật dụng
một cách hiệu quả nhất. Xây dựng chính sách yêu cầu, khuyến khích, ký kết các thỏa ước

giữa cơ quan quản lý với các hiệp hội, các công ty sản xuất bao bì, túi đựng nhằm xây
dựng và thực hiện lộ trình cắt giảm lượng sản phẩm được sản xuất và phân phối, đồng thời
nghiên cứu chế tạo những sản phẩm thân thiện với môi trường. Thiết kế, xây dựng các
điểm thu gom CTR xây dựng và thúc đẩy tận dụng tái sử dụng loại chất thải này.
Đối với nhóm CTR công nghiệp
- Tăng cường giảm thiểu CTR trong sản xuất, giảm thiểu tối đa nguyên liệu đầu
vào, khuyến khích sử dụng chất thải của ngành này làm nguyên liệu của ngành khác. Tăng
cường áp dụng sản xuất sạch hơn trong ngành CN, tăng cường quản lý nội vi, kiểm soát
quá trình, cải tiến trang thiết bị để tránh thất thoát nguyên vật liệu, đầu tư đổi mới công
nghệ, sử dụng nhiên liệu sạch hơn, hạn chế sử dụng các hóa chất độc hại trong từng giai
đoạn sản xuất. Kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu theo quy định của Luật BVMT,
thực hiện nghiêm túc các cam kết của Công ước Basel về vận chuyển chất thải nguy hại
xuyên biên giới. Hạn chế nhập khẩu các phương tiện giao thông, các loại máy móc, trang
thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng có hiệu quả sử dụng thấp, vòng đời ngắn,
gây ô nhiễm môi trường. Tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý đạt tiêu chuẩn chất

19


lượng ISO 14000 trong các cơ sở công nghiệp; Xây dựng các cơ sở công nghiệp, KCN
sinh thái; Cấp nhãn sinh thái cho các sản phẩm đạt yêu cầu.
Đối với nhóm CTR nông thôn, nông nghiệp và làng nghề
- Thực hiện giảm thiểu các loại chất thải phát sinh trong quá trình trồng trọt và thu
hoạch, đẩy mạnh việc xây dựng các hệ thống hầm biogas trong chăn nuôi. Kiểm soát chặt
chẽ và có các biện pháp hướng dẫn xử lý bao bì các loại phân bón và thuốc bảo vệ thực vật
dùng trong nông nghiệp. Xây dựng và thực hiện chương trình hành động sản xuất sạch
hơn, thu gom, vận chuẩn và xử lý chất thải ở các làng nghề, đặc biệt là ở các làng nghề tái
chế phế liệu.
Đối với nhóm CTR y tế
- Cần phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu, bắt buộc thực hiện việc phân loại

chất thải y tế tại nguồn theo quy định tại Quy chế quản lý chất thải y tế được banh hành
theo Quyết định 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 và thu gom, xử lý đúng yêu cầu kỹ
thuật BVMT 100% chất thải phát sinh ở các bệnh viện, các cơ sở y tế, chữa bệnh. Xây
dựng và ban hành cơ chế bảo đảm kinh phí cho chi phí vận hành thiết bị xử lý chất thải y tế
(lò đốt CTR y tế). Nghiên cứu áp dụng các phương pháp xử lý chất thải y tế không bằng
phương pháp đốt, như là phương pháp sấy hấp nhiệt sát trùng.

3.2.2. Giải pháp về tổ chức, quản lý và cơ chế, chính sách
– Kiện toàn hệ thống tổ chức phục vụ công tác bảo vệ môi trường từ Trung ương
đến địa phương theo Luật bảo vệ môi trường 2014.
– Rà soát, quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân từ cấp tỉnh tới cấp huyện,
cấp xã; trách nhiệm các cơ quan chuyên môn; trách nhiệm của tổ chức chính trị-xã hội, tổ
chức xã hội-nghề nghiệp; trách nhiệm của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; trách
nhiệm của cộng đồng dân cư trong công tác quản lý chất thải.
– Đẩy mạnh công tác xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số
38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 về quản lý chất thải và phế liệu và các Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến lĩnh vực quản lý chất thải.
– Triển khai hiệu quả công cụ pháp lý trong công tác quản lý chất thải: xác nhận
bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt, cơ sở xử lý
chất thải rắn công nghiệp thông thường trước khi hoạt động.

20


– Nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích thu
gom, vận chuyển và đầu tư cơ sở xử lý chất thải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tếxã hội địa phương
– Xây dựng cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân tham gia đầu tư
xây dựng và trực tiếp quản lý, khai thác, vận hành dự án xử lý chất thải sau khi xây dựng
xong đảm bảo tính hiệu quả, ổn định và bền vững của dự án xử lý chất thải.
– Có chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp hành nghề quản lý chất thải

nguy hại đầu tư các thiết bị, công nghệ xử lý chất thải nguy hại theo hướng thân thiện môi
trường nhằm phát triển công nghệ xử lý chất thải nguy hại tại Việt Nam cả về chất lượng
và số lượng; khuyến khích các cơ sở xử lý không có giấy phép và cơ sở hoạt động trong
các làng nghề chuyển đổi mô hình sản xuất (áp dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi
trường…) hoặc lắp đặt các thiết bị/hệ thống xử lý để đáp ứng các quy định về bảo vệ môi
trường.

3.2.3. Giải pháp về truyền thông, nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực
– Đẩy mạnh tuyên truyền, giới thiệu nội dung về quản lý chất thải quy định tại Luật
bảo vệ môi trường 2014 và Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 về
quản lý chất thải và phế liệu rộng rãi tới các cấp, các ngành, cộng đồng dân cư, tổ chức, cá
nhân.
– Tăng cường trao đổi, tham quan, học tập kinh nghiệm trong triển khai công tác
quản lý chất thải, chú trọng đến tính khả thi, sự phù hợp khi triển khai áp dụng cùng mô
hình xử lý chất thải giữa các địa phương.
– Nghiên cứu đưa nội dung giáo dục môi trường trong đó có quản lý chất thải vào
chương trình chính khóa của các cấp học phổ thông
– Đào tạo và tăng cường nguồn nhân lực biên chế phục vụ cho công tác quản lý chất
thải
– Đẩy mạnh việc tuyên truyền, đào tạo và tổ chức các khoá tập huấn cho doanh
nghiệp về sản xuất sạch hơn, hoạt động giảm thiểu phát sinh chất thải rắn; quy trình thu
gom, vận chuyển, xử lý, tái chế chất thải rắn theo đúng các quy định của pháp luật.
– Đẩy mạnh việc xây dựng và phổ biến cơ sở dữ liệu và trang thông tin điện tử về
chất thải rắn; các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật về quản lý, xử lý chất thải rắn.

21


3.2.4. Giải pháp về đầu tư và tài chính
– Huy động mọi nguồn lực đầu tư cho công tác quản lý, xử lý chất thải rắn: nguồn

ngân sách nhà nước (cả vốn ODA), quỹ bảo vệ môi trường, các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước ngoài.
– Mở rộng hỗ trợ tín dụng nhà nước cho các công trình đầu tư, dự án tái chế, tái sử
dụng và thu hồi năng lượng từ chất thải rắn cũng như các ưu đãi về thuế, phí và lệ phí.
– Rà soát, nghiên cứu giảm thiểu thủ tục trong quá trình triển khai vay vốn, bao
gồm cả vay từ nguồn vốn ưu đãi để thực hiện các dự án xử lý chất thải rắn áp dụng công
nghệ phù hợp với điều kiện Việt Nam.
– Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào hoạt động tái
chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng từ chất thải rắn. Đẩy mạnh hợp tác công – tư (PPP)
trong lĩnh vực xử lý, tái chế chất thải rắn.
– Đẩy mạnh xã hội hoá công tác thu gom, vận chuyển và vận hành cơ sở xử lý chất
thải rắn; tăng dần nguồn thu phí vệ sinh, giảm dần hỗ trợ từ ngân sách cho hoạt động thu
gom, vận chuyển chất thải rắn; Rà soát sửa đổi bổ sung và ban hành đơn giá xử lý chất thải
rắn có thu hồi năng lượng.
– Xây dựng chính sách mua sắm công để ưu tiên mua sắm các sản phẩm thân thiện
môi trường, sản phẩm sau quá trình tái chế, xử lý chất thải từ nguồn ngân sách.
– Nghiên cứu, áp dụng giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt, có lộ trình điều
chỉnh giá nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu về bù đắp chi phí quản lý vận hành và đầu tư
xây dựng
– Lựa chọn các địa điểm hợp lý để đầu tư các trung tâm xử lý và tái chế chất thải ở
quy mô liên vùng, liên tỉnh. Bố trí kinh phí đầu tư các cơ sở xử lý chất thải nguy hại công
ích ở các vùng, miền còn gặp nhiều khó khăn hoặc không có cơ sở xử lý như các tỉnh miền
núi, hải đảo…

3.2.5. Giải pháp về giám sát, kiểm tra, thanh tra
– Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường của các
địa phương trong kiểm soát chặt chẽ các khu xử lý chất thải, bãi chôn lấp chất thải giáp
ranh giữa các địa phương và việc vận chuyển chất thải liên tỉnh.
– Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý
chất thải rắn để phòng ngừa cũng như kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm


22


3.2.6. Giải pháp hỗ trợ kỹ thuật và nghiên cứu, phát triển công nghệ
– Nghiên cứu phát triển công nghệ xử lý chất thải rắn theo hướng giảm thiểu lượng
chất thải rắn chôn lấp, tăng cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng từ chất
thải
– Tăng cường nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các công nghệ sẵn có tốt nhất
(BAT), công nghệ thân thiện với môi trường.
– Đẩy mạnh việc xây dựng các mô hình điểm về tái chế, tái sử dụng và thu hồi
năng lượng từ chất thải rắn nhằm lựa chọn các mô hình phù hợp để nhân rộng trên phạm vi
cả nước.
– Áp dụng các công nghệ tái chế hiện đại, thân thiện với môi trường thay thế các
công nghệ cũ, lạc hậu ở các cơ sở tái chế.

3.2.7. Giải pháp về đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường trao đổi và hợp tác kỹ
thuật với các tổ chức quốc tế
– Chủ động đề xuất, xây dựng cơ chế và nội dung hợp tác song phương và đa
phương, trao đổi kinh nghiệm trong công tác quản lý, xử lý chất thải rắn.
– Tiếp tục kêu gọi, thu hút đầu tư nước ngoài tham gia phát triển cơ sở hạ tầng, nhà
máy phục vụ quản lý, xử lý chất thải rắn.
– Tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và đào tạo trong hoạt động tái
chế, tái sử dụng thu hồi năng lượng từ chất thải rắn.

23


KẾT LUẬN
Như vậy một chiến lược quản lý, xử lý CTR tổng hợp chất thải cần được chú ý

trước tiên vào các biện pháp hạn chế phát thải, nghĩa là theo nguyên tắc phòng ngừa.
Trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, nếu càng giảm thiểu được phát thải thì càng giảm
được các chi phí cho các khâu tiếp theo để xử lý chất thải (tái sử dụng, tái chế, thu hồi,
chôn lấp,...). Trường hợp phát sinh chất thải trong sản xuất và tiêu dùng thì cần cố gắng tái
sử dụng và tái chế tối đa trước khi đem chôn lấp trả chúng về môi trường.
Ở nước ta “Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025,
tầm nhìn đến năm 2050” đã được xác định quản lý tổng hợp chất thải rắn là một ưu tiên
trong công tác bảo vệ môi trường. Đây là một định hướng đúng đắn góp phần bảo vệ môi
trường, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước. Cách tiếp cận này hoàn toàn
phù hợp với xu hướng chung trên thế giới, tuy nhiên chúng ta còn rất nhiều việc phải làm
như: nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người tiêu dùng, có những chính sách cụ thể
hỗ trợ cho các doanh nghiệp áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn, đào tạo nguồn nhân
lực đủ trình độ chuyên môn để quản lý tổng hợp chất thải rắn... Sự phối hợp đồng bộ giữa
các bộ ngành trong quy hoạch chiến lược và ban hành các quy định về quản lý chất thải rắn
là vấn đề quan trọng và khó khăn nhất cần được cải thiện trong thời gian tới. Dựa vào
những nghiên cứu cụ thể về thành phần và đặc trưng của chất thải rắn ở từng địa phương,
các đặc trưng điều kiện khí hậu, địa chất, thủy văn của vùng, các cơ quan chức năng cần có
những phân tích đề xuất và chọn lựa giải pháp quản lý tổng hợp chất thải rắn phù hợp
nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ môi trường theo hướng bền vững. Việc áp dụng Chiến lược
quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn với sự chuẩn bị tích cực của các cơ quan quản lý
nhà nước và các nhà khoa học, hy vọng tình hình quản lý chất thải rắn của Việt Nam trong
tương lai sẽ khởi sắc.

24


Tài Liệu Tham khảo
- Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2011 - BTN&MT
- Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 9 tháng 4 năm 2007của chính phủ ban
hành quy định về hoạt động quản lý chất thải rắn, quyền hạn và trách nhiệm của các

cá nhân, tổ chức liên quan đến QLCTR.
- Hội thảo góp ý sửa đổi luật bảo vệ môi trường 2005 - ThS. Dương Xuân Điệp
Viện Khoa học quản lý môi trường .
- Tạp chí môi trường - Tổng cục môi trường
- Bài báo Trung tâm quan trắc môi trường.
- Wikipedia Tiếng Việt - Chất thải rắn

25


×