Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THCS năm học 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.6 KB, 37 trang )

TRƯỜNG THCS ………….
TỔ ………………..

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
………….., ngày 10 tháng 4 năm 2017

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN NĂM HỌC 2016 – 2017
Họ và tên giáo viên: …………….
Sinh ngày: …………………..
Tổ chuyên môn: ………………………….
Năm vào ngành giáo dục: …………………………
Nhiệm vụ được giao trong năm học: ……………………….
PHẦN I: CÁC CĂN CỨ HOÀN THÀNH BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG
THƯỜNG XUYÊN
- Căn cứ thông tư số 31/2011/TT-BGDĐT ngày 08 tháng 08 năm 2011 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo
viên trung học cơ sở.
- Căn cứ Thông tư số 26/2012/TT-BGDĐT ngày 10/7/2012 của Bộ GD&ĐT về việc
ban hành Quy chế bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non, phổ thông và giáo dục
thường xuyên; Công văn số 698/SGDĐT-GDCN-TX ngày 16/4/2013 của Giám đốc Sở
GD&ĐT về việc hướng dẫn thực hiện Quy chế BDTX giáo viên mầm non, phổ thông
và GDTX; Công văn số 1428/SGDĐT-GDCN-TX ngày 18/7/2016 của Sở GD&ĐT
Quảng Bình về việc hướng dẫn công tác BDTX giáo viên năm học 2016-2017;
- Căn cứ công văn số 280/PGDĐT-BDTX ngày 3/8/2016 của Phòng GD&ĐT về việc
hướng dẫn công tác bồi dưỡng thường xuyên giáo viên năm học 2016-2017;
- Thực hiện Kế hoạch Số: 03 /2016/BDTX ngày 04 tháng 08 năm 2016 của trường
THCS Phù Hóa về việc bồi dưỡng thường xuyên giáo viên;
- Căn cứ vào kế hoạch năm học 2016 - 2017 của trường THCS Phù Hóa


- Căn cứ kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên của bản thân năm học 2016 - 2017, tôi xin
báo cáo kết quả bồi dưỡng thường xuyên như sau:
PHẦN II: KẾT QUẢ BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN:
I. NỘI DUNG BỒI DƯỠNG I:
1. Nhận thức việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng được quy định trong mục đích, nội
dung chương trình, tài liệu BDTX.
- Giáo viên học tập BDTX để cập nhật kiến thức về chính trị, kinh tế, xã hội, bồi
dưỡng phẩm chất chính trị đạo đức nghề nghiệp, phát triển năng lực dạy học, năng lực
giáo dục và các năng lực khác theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên, yêu cầu
nhiệm vụ năm học. Đồng thời phát triển năng lực tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên
đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục THCS và yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên
THCS.
1


- Học nội dung bồi dưỡng 1 tôi tự trang bị cho bản thân những kiến thức về tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh. Về đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, chính sách phát
triển của giáo dục, chương trình hoạt động giáo dục trong năm học. Phần học chính trị
này giúp tôi có được kiến thức toàn diện về pháp luật như: Luật đất đai, luật lao động,
luật thanh tra… Nắm bắt được các nội dung đổi mới của Đảng sau Kết luận 51- Bộ
Chính trị, nắm bắt được các thông tư 04,05 của Thủ tướng Chính phủ…
- Đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ năm học 2016 - 2017 Nhà trường đã thực hiện
các công việc BDTX được tính từ tháng 8/2015 đến hết năm học. Tập trung bồi dưỡng
một số nội dung:
+ Học tập về pháp luật năm 2016 - 2017
+ Học tập về Điều lệ trường THCS, Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên, Quy chế
đánh giá, xếp loại học sinh.
+ Học tập Nghị quyết 29 của Hội nghị TW 8 ( Khóa XI ) về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cấu CNH- HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, tôi đặc biệt quan tâm các vấn đề sau :

Quan điểm chỉ đạo:
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt
lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ
chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước đến hoạt động quản lý của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia
của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học,
ngành học.
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân
tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh
những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài
hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có
trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
- Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực
tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và
bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan.
Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng
và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học,
trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và
đào tạo.
- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa,
hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát
triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên

2


giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã
hội hóa giáo dục và đào tạo.
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo
dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Nhiệm vụ sẽ thực hiện trong thời gian tới:
- Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo toàn diện, phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN.
- Hoạt động giáo dục cần nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác
giảng dạy với tốc độ nhanh hơn, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội.
- Thực hiện có hiệu quả chủ trương đổi mới toàn diện Giáo dục và Đào tạo ưu tiên
hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học.
- Mỗi cá nhân không ngừng phấn đấu thực hiện tốt sự chỉ đạo của Nghị quyết các cấp
từ trung ương đến địa phương, cần xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình,
luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Luôn học tập đổi mới theo đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước. Phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh”, tự học và trao dồi kiến thức kĩ năng nghiệp vụ chuyên
môn.
Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH
trong điều kiện kinh tế thị trường định hương XHCN và hội nhập quốc tế
- Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước
về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ
mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và
từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại
học và giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Đội ngũ nhà

giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày
càng hợp lý. Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo đạt mức 20% tổng chi ngân sách
nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục và đào tạo ngoài công
lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung của toàn xã hội. Công
tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định.
Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm
2000; phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010; đang tiến tới phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ 5 tuổi; củng cố và nâng cao kết quả xóa mù chữ cho người lớn. Cơ hội
tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số và các đối
tượng chính sách; cơ bản bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo.
Những thành tựu và kết quả nói trên, trước hết bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của
dân tộc; sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, của mỗi gia đình và toàn xã hội; sự tận tụy của đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục; sự ổn định về chính trị cùng với những thành ựu phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước.
Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là
giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông
giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ
3


thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu
cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống
và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn
lạc hậu, thiếu thực chất.
Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu
cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề
nghiệp.
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho

giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là
ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Là một giáo viên, tôi ý thức và quan tâm đến từng vấn đề mà nghị quyết TW 8
khoá XI đã đề ra. Nhằm mục đích tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân, trong
học sinh những vấn đề cấp thiết mà NQ đã nêu. Tuy vậy, với nhiệm vụ thực tại của bản
thân cũng như tình hình địa phương và nhà trường, theo tôi, chúng ta cần tiếp tục thực
hiện nghiêm túc hơn nữa Nghị quyết Trung ương 8 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Các cấp uỷ Đảng đặc biệt
là những tổ chức lãnh đạo của ngành giáo dục cần sơ kết để kịp thời đánh giá thống
nhất, rút kinh nghiệm và có những nhận định, tạo sự đồng thuận cao, làm cơ sở cho việc
tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết này. Đồng thời các tổ chức
Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên và những người làm công tác giáo dục nhận thức
đầy đủ, sâu sắc hơn về tầm quan trọng của việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Từ đó, xác định rõ hơn trách
nhiệm của mình đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc ta trong thời kỳ công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước.
+ Tập huấn các chuyên đề: Nghiên cứu KHSPƯD, tập huấn hòa nhập học sinh khuyết
tật, tập huấn GVCN.
2.Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã được bồi dưỡng vào hoạt động nghề nghiệp
thông qua các hoạt động dạy học và giáo dục.
- Từ các nội dung bồi dưỡng trên tôi đã xây dựng kế hoạch cụ thể từ đó áp dụng vào
thực tế hoạt động như sau:
+ Gương mẫu thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần “Tất cả vì học sinh thân yêu”, có hành
vi, ứng xử, giao tiếp văn hóa trong quan hệ giữa thầy và trò.
+ Thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học, rèn luyện và sáng tạo.
+ Tham gia tích cực các hoạt đông, phong trào của nhà trường, quyết tâm thi đua xây
dựng “Trường học than thiện, học sinh tích cực”.

+ Không ngừng học hỏi, đúc kết kinh nghiệm từ các phương pháp giáo dục để đáp ứng
vào thực tế giảng dạy, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc tham gia các hoạt
động giáo dục, đổi mới phương pháp giáo dục.
+ Học tập các chuyên đề do Phòng giáo dục triển khai. Giáo viên cần nắm rõ nội dung,
yêu cầu, phương pháp thực hiện.
4


+ Tập huấn hòa nhập học sinh khuyết tật và tư vấn tâm lí học sinh giúp tôi tư duy sang
tạo, cởi mở trong trong quan hệ giao tiếp. Nắm bắt tâm lí những em học sinh đặc biệt sẽ
là cơ hội để tôi trau dồi kĩ năng lắng nghe tâm tư tình cảm từ đó có cách tư vấn phù hợp.
3.Tự nhận xét:
- Tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Tham gia học tập đầy đủ các buổi học chính trị, học bồi dưỡng thường xuyên.
- Chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà Nước.
- Rèn luyện phẩm chất đạo đức và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
II. NỘI DUNG BỒI DƯỠNG II:
Năm học 2016 - 2017, Sở GD và ĐT Quảng Bình tiếp tục lựa chọn lựa chọn và
biên soạn chương trình bồi dưỡng thường xuyên với chuyên đề: " Một số hình thức tổ
chức dạy học phân hóa đối tượng môn toán ở trường THCS" trong chương trình
Toán THCS.
Mục tiêu của đợt bồi dưỡng thường xuyên lần này là giúp giáo viên nắm được
phương pháp dạy phân hóa theo từng đối tượng học sinh khá – giỏi; Trung bình; Yếu kém trong công tác giảng dạy bộ môn toán THCS, phát triển tư duy sáng tạo cho học
sinh, phù hợp với thực tiễn dạy học của nhà trường nhằm năng cao chất lượng dạy học
môn Toán.
I. Mục tiêu
* Kiến thức
Trình bày và giải thích được ý nghĩa của dạy học phân hóa trong việc giúp đỡ
HSYK; Hiểu rõ và nắm vững các loại bài tập phân hóa giúp đỡ HSYK; Xác định được
cách tổ chức dạy học phân hóa ở một số chức năng điều hành quá trình dạy học, nhằm

giúp đỡ HSYK.
* Kĩ năng
Vận dụng được các kĩ thuật để thiết kế các bài tập phân hóa ở tất cả các tiết dạy
chính khóa phù hợp với trình độ của HSYK, đồng thời sử dụng thành thạo các bài tập
phân hóa nhằm giúp đỡ HSYK ở một số chức năng điều hành quá trình dạy học trong
các tiết dạy chính khóa.
* Thái độ
Ý thức được sự cần thiết phải thiết kế và sử dụng các bài tập phân hóa trong các
tiết dạy chính khóa, giao bài tập về nhà, dạy tự chọn … trong việc giúp đỡ HSYK. Tích
cực, chủ động và quyết tâm trong việc thiết kế và sử dụng các bài tập phân hóa nhằm
giúp đỡ được nhiều nhất cho HSYK, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
II. Nội dung
1. Giúp đỡ HSYK là nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay
2. Giúp đỡ HSYK học toán thông qua việc thiết kế bài tập phân hóa
Biểu hiện HSYK Khi làm bài tập
HSYK thường là những học sinh không làm được hoặc làm được rất ít bài tập
trong sách giáo khoa và các tài liệu hiện hành. Tâm lý sợ học toán, vô cảm trước nhiệm
vụ học toán … luôn thường trực trong mỗi HSYK. Điều đó đã làm cho các em tự ti đối
5


với bản thân, dẫn đến việc giúp đỡ HSYK học toán của người thầy ngày càng trở nên
khó khăn, vất vả hơn nhiều.
Khó khăn về bài tập: nếu chỉ sử dụng bài tập trong sách giáo khoa, các tài liệu
hiện hành cho HSYK luyện tập thì chúng ta sẽ khó có thể giúp đỡ được nhiều cho
HSYK học toán. Bởi khi các em không được luyện tập nhiều thì sẽ không khắc sâu và
củng cố được kiến thức đã học, từ đó “lỗ hổng” về kiến thức và kỹ năng của HSYK vốn
đã có nay càng lớn dần lên, làm cho việc học toán ngày càng trở thành một gánh nặng
đối với các em.
Cách khắc phục:

- Phương pháp chung: Trong dạy học toán thì củng cố là một trong các chức
năng điều hành quá trình dạy học, luyện tập là một trong các hình thức củng cố nhằm
mục tiêu rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo. Muốn giúp HSYK nắm vững được nội dung kiến
thức đã học, từng bước khắc phục tình trạng yếu kém, thì sau khi học xong bài học
chúng ta cần giúp cho các em có nhiều bài tập vừa sức để có thể luyện tập được. Nếu
được luyện tập nhiều thì HSYK mới nắm vững kiến thức bài học và là tiền đề để có thể
học được những bài tiếp theo. Có như vậy mới tạo được động cơ, hứng thú cho HSYK
cố gắng vươn lên trong học tập. Muốn tạo cho HSYK niềm lạc quan bước vào luyện tập
chúng ta phải ra tăng hệ thống bài tập vừa sức với mức độ tăng dần từ dễ đến khó, giúp
HSYK được luyện tập được nhiều hơn ngay trong các tiết dạy chính khóa và khi làm
bài tập ở nhà.
- Cách ra bài tập:
+ Có thể phân hoá về yêu cầu bằng cách sử dụng những bài tập phân bậc: trong 1
bai có nhiều ý: dành đủ cho các loại đối tượng
+ Cũng có thể phân hoá về mặt số lượng: để hình thành một kiến thức, rèn
luyện một kỹ năng nào đó, số HSYK cần nhiều bài tập cùng loại hơn số các HS khác.
Những HS giỏi, thừa thời gian sẽ nhận thêm những bài tập khác để đào sâu và nâng cao.
Vì vậy GV nên ra đủ liều lượng bài tập cho từng loại đối tượng HS. Cũng như ở
trên lớp, những bài tập về nhà cũng sử dụng những pha phân hoá.
Trong việc làm này người GV cần lưu ý:
* Phân hoá về số lượng bài tập cùng loại: Tuỳ từng loại đối tượng mà GV
ra những bài tập thích hợp cho đối tượng đó. Ví dụ HSYK có thể giao nhiều bài tập
cùng loại để các em thực hành, HS khá giỏi giao thêm những bài nâng cao.
* Phân hoá về nội dung bài tập: Để tránh đ đòi hỏi quá cao đối với HSYK, giáo
viên cần ra những bài tập nhằm đảm bảo trình độ xuất phát cho những HSYK để chuẩn
bị cho bài học sau.
*Phân hoá yêu cầu về mặt tính độc lập: Bài tập cho HS khá giỏi đ đòi hỏi tư duy
nhiều, tư duy sáng tạo. Bài tập cho HSYK chứa các yếu tố dẫn dắt, chủ yếu bài tập
mang tính rèn luyện kỹ năng.
Một trong những nguyên tắc dạy học đó là: tạo niềm tin lạc quan học tập cho

bản thân người học. Nếu dạy không sát trình độ, để học sinh thất bại liên tiếp thì sẽ giết
chết niềm lạc quan của học sinh.
6


Để giúp HSYK thuận lợi trong học và làm toán thì trước khi các em luyện tập các
bài tập trong sách giáo khoa thì chúng ta cần ra các bài tập phân hóa (Từ đây ta gọi bài
tập phân hóa dành cho HSYK là những bài tập bổ trợ (BTBT)) giúp cho HSYK luyện
tập ngay trong tiết học chính khóa, tự chọn hoặc phụ đạo, cũng như khi ở nhà. Đó là
những bài tập với mức độ chủ yếu ở ba cấp độ phù hợp với tư duy của HSYK: nhận
biết, thông hiểu, áp dụng, các bài tập này cần được hỗ trợ về kiến thức, kỹ năng, giúp
cho HSYK dễ thực hiện.
Trong mỗi tiết học cần có các dạng BTBT như sau:
2.1. Thiết kế bài tập củng cố khái niệm, tính chất
2.2. Thiết kế bài tập có yêu cầu rõ ràng, dễ thực hiện
Với nhiều bài tập trong sách giáo khoa, HSYK thường vấp ngay từ bước đầu tiên.
Vì nền tảng kiến thức, kỹ năng còn thiếu nên HSYK thường chưa hiểu yêu cầu của bài
toán, nên không định ra được hướng giải quyết và không biết phải bắt đầu từ đâu, dẫn
đến không muốn tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy, chúng ta cần đưa ra các BTBT với
những từ ngữ, những yêu cầu cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu để HSYK dễ tiếp cận, dễ thực
hiện, giúp các em bước vào luyện tập được thuận lợi ngay từ bước đầu tiên. Từ đó tiếp
thêm sức mạnh cho các em, tạo hứng thú, động lực giúp các em tự tin luyện tập các bài
tập ở mức độ cao hơn.
2.3. Thiết kế bài tập nâng dần mức độ, yêu cầu củng cố vững chắc kiến thức
trọng tâm
Nhằm giúp HSYK thực hiện được các bài tập củng cố vững chắc chuẩn kiến
thức, kỹ năng và từng bước đưa HSYK lên trình độ chung, GV cần đưa ra các BTBT
nâng dần mức độ, yêu cầu từ dễ đến khó, bài tập trước sẽ là tiền đề cho việc luyện tập
các bài tập tiếp theo, khoảng cách giữa các bài tập liên tiếp không nên quá xa, quá cao
về mức độ và yêu cầu. Hai, ba bài tập của HSYK có thể gộp lại thành một bài cho học

sinh có trình độ từ trung bình trở lên, các bài tập cần được nâng dần mức độ, yêu cầu
nhằm củng cố vững chắc kiến thức trọng tâm, đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng của
bài học và trong cả chương trình.
2.4. Thiết kế bài tập có cùng dạng nhưng mức độ, yêu cầu thấp hơn bài tập trong
sách giáo khoa
Các bài tập trong sách giáo khoa là những bài tập cơ bản, điển hình giúp học sinh
thông qua luyện tập để củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và phát triển tư
duy. Nhưng đối với HSYK thường khó khăn trong việc luyện một số bài tập trong SGK,
nên chúng ta cần hạ thấp mức độ, yêu cầu các bài tập đó về dạng bài tập có cùng thể
loại nhưng mức độ, yêu cầu thấp hơn sách giáo khoa. Thực hiện được các BTBT
chuyển đổi này sẽ tạo tiền đề giúp các em thuận lợi hơn trong việc luyện các bài tập
cùng thể loại trong sách giáo khoa.
3. Thiết kế bài dạy phân hóa giúp đỡ HSYK
3.1. Xác định mục tiêu
a) Mục tiêu chung
b) Mục tiêu giúp đỡ HSYK
Xuất phát từ tư tưởng sử dụng những biện pháp phân hoá đưa diện HSYK lên
trình độ chung. Vì vậy, bên cạnh việc xác định mục tiêu chung cho cả lớp, GV cần xác
7


định rõ mục tiêu nào mà với nền tảng kiến thức của các em khó có thể chiểm lĩnh được
theo trình độ chung của cả lớp. Từ đó cần tập trung nhiều vào mục tiêu ấy để giúp đỡ
HSYK đạt được nội dung kiến thức. Việc giúp HSYK đạt được mục tiêu chung của bài
học không nhất thiết phải thực hiện ngay trong các tiết chính khóa, mà GV có thể giúp
đỡ HSYK đạt được những mục tiêu đó ở những tiết tự chọn, phụ đạo, ...
3.2. Thiết kế hoạt động dạy – học chủ yếu
Ta có thể phân trình độ học sinh thành ba nhóm đối tượng như sau:
* Nhóm 1: HSYK
* Nhóm 2: HS trung bình

* Nhóm 3: Khá giỏi
a) Xác định nội dung dạy học phân hóa
Không phải nhất thiết nội dung nào trong các tiết dạy chính khóa chúng ta cũng
tổ chức dạy học phân hóa trên lớp, mà GV cần căn cứ vào mục tiêu đã lựa chọn để giúp
đỡ HSYK, trên cơ sở đó lựa chọn những nội dung mà với nền tảng kiến thức của HSYK
thì các em sẽ gặp khó khăn trong việc chiếm lĩnh nội dung kiến thức mới. Trong khi
thiết kế các hoạt động dạy - học GV cần xác định rõ những nội dung và các hoạt động
dự kiến sẽ tổ chức cho HSYK.
Mặt khác, trong khi thiết kế các hoạt động dạy - học GV cần định rõ câu hỏi nào,
kiến thức nào, bài tập nào ... dành cho đối tượng HSYK, cần lựa chọn những yêu cầu
đơn giản, dễ thực hiện để các em được tham gia hoạt động một cách tích cực, chủ động
để HSYK nắm được kiến thức cơ bản ngay trên lớp cũng như khi học ở nhà.
Nội dung giúp đỡ HSYK có nhiều, song giáo viên nên nhằm vào những phương
pháp sau đây:
- Đảm bảo trình độ xuất phát.
- Lấp “lỗ hổng” về kiến thức và kĩ năng.
- Luyện tập vừa sức.
- Giúp đỡ HS rèn luyện kĩ năng học tập.
4. Một số lưu ý khi tổ chức dạy phân hóa trong các tiết dạy chính khóa
4.1. Giúp đỡ HSYK thông qua việc tổ chức dạy học phân hóa trên lớp
Chúng ta đang tiến hành đổi mới Phương pháp dạy học. Học sinh dù trình độ
đang ở mức nào cũng phải là chủ thể của quá trình dạy học, phải là người tích cực,
chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Với HSYK cần phải có những hoạt động phù hợp,
những bài tập vừa sức để giúp các em có thể tham gia hoạt động giao lưu cùng
thầy và bạn. Đó là một việc làm cần thiết giúp cho quá trình đổi mới phương pháp
dạy học đạt hiệu quả cao hơn.
HSYK về môn toán là những học sinh thường khó tiếp thu được nội dung kiến
thức cơ bản trong các tiết học chính khóa, phương pháp tự học chưa đúng nên
chưa biết bù lại những đơn vị kiến thức còn thiếu của mình, do đó kết quả học
toán thường xuyên dưới trung bình. Việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng cần

thiết ở những học sinh này thường đòi hỏi công sức và thời gian nhiều hơn so với
8


những học sinh khác. Bởi đó là những học sinh đang gặp khó khăn, vấp váp trong
hoạt động học tập làm cản trở nhịp độ và khả năng lĩnh hội kiến thức ở mức bình
thường như những bạn bè cùng lứa tuổi.
Sự yếu kém có những biểu hiện nhiều hình nhiều vẻ, nhưng nhìn chung
HSYK thường có ba mặt đặc điểm sau đây:
- Nhiều lỗ hổng về kiến thức, kĩ năng.
- Tiếp thu chậm.
- Phương pháp học tập toán chưa tốt.
Có thể xem tình trạng HSYK hiện nay là một dạng “suy kiến thức” trầm
trọng, các em không còn khả năng tiếp thu và “tiêu hóa” những kiến thức mới. Bởi
vì với nền tảng kiến thức quá mong manh thì HSYK tiếp thu được bao nhiêu đơn
vị kiến thức trong các tiết dạy chính khóa, lấp được “lỗ hổng” cũ thì các “lỗ
hổng” mới về kiến thức và kỹ năng lại được hình thành. Cứ như thế giáo viên suốt
ngày chỉ có luôn phải “chạy theo” để “bổ túc” lại kiến thức cho học sinh. Cái mà
HSYK đang cần là tiếp thu một lượng kiến thức vừa phải để có thể “tiêu hóa”
được chúng. Vì vậy, bên cạnh việc bổ sung kiến thức nhằm lấp ‘‘lỗ hổng’’ cũ về
kiến thức, kỹ năng cho HSYK thì việc hạn chế hình thành ‘‘lỗ hổng’’ mới về kiến
thức và kỹ năng ngay trong các tiết học chính khóa là việc làm cần thiết giúp
HSYK từng bước khắc phục mức độ yếu kém để có thể sớm tiến tới học hòa nhập
với bạn bè cùng trang lứa.
Việc giúp đỡ HSYK cần được thực hiện ngay trong cả tiết dạy đồng loạt,
bằng những phương pháp phân hóa nội tại thích hợp. Có như vậy chúng ta mới
hạn chế được ‘‘lỗ hổng’’ mới về kiến thức và kỹ năng cho các em. Tuy nhiên,
ngoài việc giúp đỡ HSYK ngay trong các tiết dạy chính khóa, giáo viên cần có sự
giúp đỡ tách riêng đối với nhóm HSYK thông qua các tiết dạy tự chọn, phụ đạo ...
để các em nắm vững, nắm chắc nội dung kiến thức đã học.

Nội dung giúp đỡ HSYK có nhiều, song giáo viên nên nhằm vào những phương
pháp sau đây:
- Đảm bảo trình độ xuất phát.
- Lấp “lỗ hổng” về kiến thức và kĩ năng.
- Luyện tập vừa sức.
- Giúp đỡ HS rèn luyện kĩ năng học tập.
Hiện nay, một số GV trong các tiết dạy đồng loạt còn lúng túng khi sử dụng
biện pháp phân hóa nội tại thích hợp, phương pháp dạy học chưa phù hợp với thực tế,
giáo viên đang còn nặng trong việc đối phó với sự kiểm tra của các cấp quản lý,
nên chỉ làm sao dạy hết nội dung trong sách giáo khoa, do đó chỉ có số học sinh có
trình độ từ trung bình trở lên hoạt động, còn số HSYK thì ít có cơ hội được tham
gia hoạt động.
9


Mặt khác, HSYK lại thiếu phương pháp học tập và đa số các em là những
học sinh nghịch ngợm, lười học. Nếu như chúng ta không dành cho các em sự
quan tâm đặc biệt, nếu HSYK không có những thử thách dù là rất nhỏ để các em
được trải nghiệm, thì các em sẽ không thấy được ý nghĩa của việc học, và từ đó
làm cho các em mất phương hướng với nhiệm vụ học tập, rất khó để các em tích
cực, tự giác học tập để đạt được chuẩn kiến thức kỹ năng theo chương trình cấp
học.
Để giúp đỡ HSYK học Toán trong các tiết dạy chính khóa, chúng ta có thể tổ
chức thực hiện dạy phân hóa như sau:
4.2. Tổ chức dạy phân hóa nhằm giúp đỡ HSYK trong lớp chỉ có các đối tượng
học sinh trung bình và yếu kém (xếp lớp) nhà trường cần khảo sát chính xác để xép lớp
cho phù hợp
Trong quá trình tổ chức các hoạt động trên lớp, giáo viên cần lưu ý thực hiện tốt
một số chức năng điều hành quá trình dạy học, cụ thể như sau:
a) Kiểm tra bài cũ

b) Làm việc với nội dung mới
Việc hình thành nội dung kiến thức mới là nhiệm vụ trọng tâm của tiết học.
Trong một số tiết, nếu giáo viên sử dụng toàn bộ ví dụ, bài toán như trong sách
giáo khoa sẽ khó cho HSYK và học sinh trung bình tiếp thu được bài. Vì vậy, giáo viên
có thể lựa chọn một số nội dung khó để tổ chức dạy phân hóa giúp HSYK, bằng cách hạ
thấp mức độ, yêu cầu của các ví dụ, bài toán trong SGK. Hệ thống câu hỏi hoặc những
nhiệm vụ giao cho HSYK cần từ dễ đến khó, GV lấy thêm nhiều bài toán nâng dần mức
độ, yêu cầu để giúp HSYK đạt được chuẩn kiến thức, kỹ năng của bài học và giúp học
sinh trung bình nâng cao trình độ của mình.
c) Luyện tập, củng cố
Giáo viên cần thiết kế một số bài tập phân hóa vừa sức với trình độ của HSYK để
các em luyện tập, có thể lấy nhiều bài tập tương tự về thể loại và mức độ tương đương
nhau để HSYK được luyện tập nhiều lần, thông qua đó nắm được nội dung cơ bản của
tiết dạy. Giáo viên có thể hỗ trợ tiếp cho những học sinh không làm được bài tập trong
SGK bằng cách ra tăng bài tập cùng thể loại nhưng mức độ, yêu cầu thấp hơn bài tập
trong SGK.
Cần dành cho học sinh những lời khen ngợi, động viên giúp các em xây dựng
niềm tin trong học tập.
d) Giao bài tập về nhà
- Giao cho HSYK một số BTBT và một số bài tập dễ trong SGK.
- Giao cho học sinh trung bình các bài tập trong SGK.
e) Ví dụ
Khi sử dụng BTBT giúp đỡ HSYK trong bài: Tìm giá trị phân số của một số cho
trước (§14 - Toán 6 tập 2) giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau trong quá trình thực
hiện các chức năng điều hành quá trình dạy học:
(1) Kiểm tra bài cũ
10


Mục đích việc kiểm tra bài cũ là kiểm tra những kiến thức học sinh đã học có liên

quan trực tiếp đến bài mới, kiến thức cần kiểm tra trong bài này đó là có thể coi phân số
là kết quả của phép chia. Vì vậy chúng ta có thể sử dụng bài tập sau:
(2) Làm việc với nội dung mới
4.3. Tổ chức dạy học phân hóa nhằm giúp đỡ HSYK trong lớp có các đối tượng
học sinh khá giỏi, trung bình và yếu kém
Khi tổ chức các hoạt động trên lớp người GV cần phải giao nội dung và nhiệm vụ
cho từng đối tượng HS để làm sao thu hút được tất cả HS cùng tham gia tìm hiểu nội
dung bài học bằng cách giao nhiệm vụ phù hợp với khả năng của từng em.
Khuyến khích HS yếu kém khi các em tỏ thái độ muốn trả lời câu hỏi, tận dụng
những tri thức kỹ năng riêng biệt của từng HS ...
Đối tượng HSYK cần được quan tâm giúp đỡ nhiều hơn đối tượng HS khá giỏi,
những câu hỏi vấn đáp đưa ra cần có sự gợi mở, chẻ nhỏ. Nhưng không có nghĩa là đối
tượng HS khá giỏi không được quan tâm GV cần tạo điều kiện cho nhóm này phát huy
tối đa tính tự giác, độc lập, sáng tạo của các em.
Để thực hiện dạy học phân hóa ở chức năng làm việc với nội dung mới nhằm
giúp đỡ HSYK trong lớp có các đối tượng học sinh khá giỏi, trung bình và yếu kém
chúng ta cần lứu ý một số vấn đề như sau:
Phân trình độ học sinh thành ba nhóm đối tượng như sau:
* Nhóm 1: HSYK
* Nhóm 2: HS trung bình
* Nhóm 3: Khá giỏi
Trong quá trình tổ chức hình thức dạy học phân hóa đối tượng trên lớp nhằm giúp
đỡ HSYK trong lớp đối tượng có trình độ khác nhau, giáo viên cần lưu ý một số vấn đề
khi thực hiện các chức năng điều hành quá trình dạy học như sau:
a) Kiểm tra bài cũ
* Nội dung kiểm tra:
Giáo viên cần tạo tâm thế chuẩn bị kiểm tra cho tất cả các đối tượng học sinh,
nhất là tạo thói quen được kiểm tra bài cũ cho đối tượng HSYK. Nội dungkiểm tra cần
chia thành 3 nhóm đối tượng, vừa củng cố kiến thức cũ vừa phục vụ trực tiếp cho nội
dung bài mới, không nhất thiết phải kiểm tra kiến thức ở tiết học liền kề.

- Nhóm 1: Kiểm tra câu hỏi, BTBT hoặc những bài tập có mức độ, yêu cầu vừa
sức với trình độ của HSYK.
- Nhóm 2: Kiểm tra câu hỏi, bài tập có cùng nội dung nhưng mức độ yêu cầu cao
hơn nhóm 1.
- Nhóm 3: Kiểm tra câu hỏi, bài tập có cùng nội dung nhưng mức độ yêu cầu cao
hơn nhóm 2.
GV có thể kiểm tra câu hỏi, bài tập phân hoá nếu bài tập đó đảm bảo yêu cầu
hoạt động cho cả ba nhóm đối tượng HS: Bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho HSYK (bài a),
trang bị kiến thức chuẩn cho HS trung bình (bài b) và nâng cao kiến thức cho HS khá
giỏi (bài c).
11


Có thể cho HS trung bình và yếu kém làm tuần tự hai bài a; bài b những HS khá
giỏi có thể bỏ qua bài a; bài b và sử dụng thời gian đó để làm thêm bài c là một bài tập
nâng cao khác.
* Tổ chức nhận xét, đánh giá:
- Cho cả lớp nhận xét lần lượt đối tượng nhóm 1, nhóm 2 và nhóm 3.
- Khi nhận xét bài làm của nhóm 1 thì nên để học sinh trong nhóm 1 nhận xét
- Khi nhận xét nhóm 2 nên nhắc lại yêu cầu bài toán để cả lớp cùng hiểu, nếu
nhóm 1 nhận xét được thì ưu tiên cho nhóm 1 nhận xét, nếu không thì chuyển nhiệm vụ
nhận xét cho nhóm 2, nhóm 3.
- Khi nhận xét nhóm 3 nên nhắc lại yêu cầu bài toán để cả lớp cùng hiểu, nếu
nhóm 1, nhóm 2 nhận xét được thì ưu tiên cho nhóm 1, nhóm 2 nhận xét, nếu không thì
chuyển nhiệm vụ nhận xét cho nhóm 3.
b) Làm việc với nội dung mới
Dạy học phân hóa ở chức năng làm việc với nội dung mới là rất khó khăn, để làm
được điều này người GV phải nắm chắc nội dung kiến thức của từng bài và có sự đầu tư
nghiên cứu cho bài soạn. Để thực hiện phân hóa trong toàn bài là một điều khó có thể
thực hiện được vì thời gian không cho phép, song muốn giúp đỡ HSYK giáo viên cần

lựa chọn một số nội dung khó để tổ chức dạy phân hóa giúp cho HSYK tiếp thu bài
được thuận lợi hơn. Khi lựa chọn nội dung dạy phân hóa cần lưu ý một số vấn đề sau:
* Có thể lấy bài toán, ví dụ khác cùng thể loại nhưng mức độ, yêu cầu thấp hơn
SGK để HSYK dễ tiếp thu, sau đó mới dùng bài toán, ví dụ trong sách giáo khoa (nếu
thời gian cho phép).
* GV cần tuân thủ phương pháp dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh tri thức theo con
đường nhận thức: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Những hoạt động có yếu tố trực quan giao cho HSYK, những hoạt động liên quan
đến tư duy trừu tượng thì giao cho học sinh khá giỏi, còn việc vận dụng là tùy theo trình
độ của học sinh mà GV giao cho những bài tập phân hóa.
Giáo viên nên đưa ra những câu hỏi, bài tập với mức độ nâng dần từ dễ đến khó,
từ cụ thể đến tổng quát. Những hoạt động dễ nên giao cho những học sinh trong nhóm 1
thực hiện: đọc chú ý, đọc ghi nhớ, đọc lại kết quả, ghi giả thiết, kết luận, … Những câu
hỏi, nhiệm vụ khó không nên giao cho nhóm 1 thực hiện mà giao nhiệm vụ đó cho
nhóm 2, nhóm 3: tổng quát hóa bài toán, rút ra quy tắc, chứng minh định lý …
* Giáo viên cần để HSYK được trình bày tự nhiên, hết ý kiến, dù các em trả lời
đúng hay sai giáo viên cũng phải lắng nghe đầy đủ, tỏ thái độ thân thiện, khích lệ, động
viên, gợi mở để học sinh trả lời tiếp.
* HSYK thường diễn đạt kém, có những lúc các em đã hiểu bài, song trình bày
chưa rõ ràng. Vì vậy, giáo viên cần hiểu được những ý kiến chưa tường minh của các
em, gợi ý giúp các em trình bày được rõ ràng hơn.
c) Luyện tập, củng cố
* Nội dung:
- Nhóm 1: Làm một số BTBT và một số bài tập dễ trong SGK.
- Nhóm 2: Lựa chọn làm một số bài tập vừa sức trong sách giáo khoa.
12


- Nhóm 3: Lựa chọn làm một số bài tập khó trong sách giáo khoa và một số bài
nâng cao ở các tài liệu tham khảo.

GV cần lựa chọn một số bài tập phân hóa với mức độ nâng dần cho cả ba nhóm
thực hiện, bài tập nhóm 1 là gợi ý, là tiền đề để làm bài tập nhóm 2. Bài tập nhóm 2 là
cơ sở để làm bài tập nhóm 3. Có như vậy mới tạo cơ hội cho nhóm 1 hiểu được bài tập
nhóm 2. Nhóm 1, nhóm 2 hiểu được bài tập nhóm 3, từ đó giúp cho HSYK và học sinh
trung bình từng bước nâng cao trình độ của mình.
* Tổ chức nhận xét, đánh giá:
- Cho cả lớp nhận xét lần lượt đối tượng nhóm 1, nhóm 2 và nhóm 3.
- Khi nhận xét bài làm của nhóm 1 thì nên để học sinh trong nhóm 1 nhận xét
- Khi nhận xét nhóm 2 nên nhắc lại yêu cầu bài toán để cả lớp cùng hiểu, nếu
nhóm 1 nhận xét được thì ưu tiên cho nhóm 1 nhận xét, nếu không thì chuyển nhiệm vụ
nhận xét cho nhóm 2, nhóm 3.
- Khi nhận xét nhóm 3 nên nhắc lại yêu cầu bài toán để cả lớp cùng hiểu, nếu
nhóm 1, nhóm 2 nhận xét được thì ưu tiên cho nhóm 1, nhóm 2 nhận xét, nếu không thì
chuyển nhiệm vụ nhận xét cho nhóm 3.
- Giáo viên có thể hỗ trợ tiếp cho những học sinh không làm được bài tập BTBT
theo mặt bằng chung của đa số HSYK bằng cách ra tăng bài tập cùng thể loại nhưng
mức độ thấp hơn bài tập chung của nhóm 1.
- Cần dành cho HSYK những lời khen ngợi, động viên khi các em đã làm được
bài tập dù là những bài tập đơn giản, giúp các em xây dựng niềm tin trong học tập.
d) Giao bài tập về nhà
- Giao cho nhóm 1 một số BTBT và một số bài tập dễ trong sách giáo khoa.
- Giao cho nhóm 2 làm một số bài tập trong sách giáo khoa.
- Giao cho nhóm 3 làm một số bài tập trong sách giáo khoa và một số bài tập
nâng cao khác.
5. Phân hoá việc kiểm tra, đánh giá HSYK
6. Một số biện pháp khác nhằm giúp đỡ HSYK
6.1. Xây dựng mối quan hệ thầy – trò đúng đắn, mẫu mực, thân thiện
6.2. Thiết lập hồ sơ theo dõi
6.3. Tư vấn cho phụ huynh học sinh về quản lý việc học thêm ở nhà
III. Những nội dung bản thân sẽ vận dụng vào thực tiễn giảng dạy và giáo

dục tại đơn vị:
1. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, chú trọng áp dụng KHKT vào dạy
học
2. Chú trọng đổi mới phương pháp học tập cho HS
3. Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
4. Chú trọng dạy học phân hóa cho học sinh
Cụ thể như sau:

13


Đổi mới việc lập kế hoạch dạy học, thiết kế bài dạy sử dụng phù hợp các tiết dạy
có sử dụng công cụ trình chiếu thay cho các tiết dạy mà có các tiết thực hành khó có thể
thành công.
Hướng dẫn có kiểm tra cách học của học sinh.
Kiểm tra phù hợp với năng lực của học sinh, chấm, chửa bài, trả bài đúng quy
định, chú trọng chỉ nên khen tránh chê bai nhắc nhỏ các học sinh có ít tiến bộ
Lập kế hoạch dạy học phân hóa đối tượng, nhiệt tình giúp đỡ học sinh yếu kém
*Cụ thể đối với dạy học phân hóa giúp đỡ học sinh yếu kém học toán
a. Thiết kế bài tập củng cố khái niệm, tính chất
HSYK chưa thật sự nắm được nội dung kiến thức cơ bản ngay trên lớp, phương
pháp tự học còn nhiều hạn chế, các em rất ngại học lý thuyết khi ở nhà nên không nắm
vững khái niệm, tính chất … của bài học dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong việc vận
dụng vào luyện tập. Vì vậy chúng ta cần sử dụng các bài tập củng cố khái niệm, tính
chất … nhằm giúp HSYK tái hiện lại bài giảng của thầy, củng cố kiến thức trọng tâm
trước khi bước vào luyện tập.
b. Tổ chức dạy học phân hóa nhằm giúp đỡ HSYK trong lớp có các đối tượng
học sinh khá giỏi, trung bình và yếu kém
IV. Những nội dung khó và những đề xuất về cách thức tổ chức bồi dưỡng
nhằm giải quyết những nội dung khó này

1. Trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy ở nhà trường chưa đáp ứng được
nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học, mà điều này không phải dễ dàng gì giải
quyết. đòi hỏi phải có sự giúp đỡ của các ban ngành, của cơ quan cấp trên.
2. Ý thức tự học của học sinh vẫn còn thấp, sự quan tâm của phụ huynh tới
việc học của các em còn những hạn chế vì vậy công tác xã hội hóa GD cần được nhà
trường và thầy cô quan tâm nhiều hơn nữa.
3. Việc dạy học phân hóa đối tượng cần nhiều thời gian và tâm huyết của quý thầy
cô vì vậy cần có sự quan tâm của BGH
4. Cần tổ chức hội thảo cấp cụm (huyện) về một số hình thức dạy học giúp học
sinh yếu kém khi học môn toán
III. NỘI DUNG BỒI DƯỠNG III:
MODUN 7: “HƯỚNG DẪN, TƯ VẤN CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ”

Nội dung 1:
QUAN NIỆM VỀ HƯỚNG DẪN, TƯ VẤN CHO HỌC SINH
1. Hoạt động 1: Làm quen với khái niệm hướng dẫn, tư vấn cho học sinh.
1.1. Hướng dẫn và tư vấn cho học sinh
- Hướng dẫn là hoạt động được hiểu như là chỉ dẫn cho một vấn đề nào đó để đi
đến kết quả cuối cùng.
- Theo từ điển tiếng việt của Hoàng Phê: “ Tư vấn là góp ý kiến về một vấn đề
được hỏi nhưng không có quyền quyết định”.
- Tư vấn mang ý nghĩa như giảng giải, đưa ra lời khuyên có tính chất quan hệ một
chiều.
14


- Như vậy, theo một ý nghĩa nào đó hướng dẫn hay tư vấn là hoạt động nhằm trợ
giúp cho học sinh khi các em hỏi về một vấn đề nào đó.
- Tư vấn là một tiến trình, là sự tương tác, là nguồn tiềm năng và sự tự quyết.
+ Các vấn đề xã hội là một tiền trình, cần phải có thời gian quan sát, theo dõi,

không chỉ trong quá trình tư vấn mà cả sau khi đã làm tư vấn; Là tiến trình giúp thân
chủ và nhà tư vấn phát triển; Là quá trình hướng tới đạo lí làm người; Là quá trình
không được làm hộ thân chủ.
+ Sự tương tác được thực hiện thông qua việc đối thoại giữa nhà tư vấn và thân
chủ, qua đó thân chủ hiểu được hoàn cảnh và khó khăn của mình, thân chủ cảm nhận
được vai trò của họ trong việc giải quyết vấn đề của họ.
+ Nguồn tiềm năng là quá trình nhà tư vấn phải khơi gợi được tiềm năng của thân
chủ, giúp thân chủ làm chủ được cảm xúc và thích nghi được với hoàn cảnh của mình.
+ Sự tự quyết là giúp cho thân chủ tự chịu trách nhiệm về cuộc đời mình, tự tìm
ra cách giải quyết, nhà tư vấn chỉ giúp về mặt tinh thần hoặc soi sáng các vấn đề, khơi
gợi vấn đề.
- Tư vấn là một tiến trình tương tác nhằm giúp thân chủ hiểu được vấn đề của
mình và khơi dậy tiềm năng để thân chủ tự quyết định vấn đề của mình.
1.2. Một số khái niệm có liên quan đến khái niệm tư vấn.
- Cố vấn: Là cuộc nói chuyện giữa một chuyên gia về một lĩnh vừc nhất định với
một hoặc nhiều người đang cần lời khuyên hay chỉ dẫn về lĩnh vực đó.
+ Mục đích của cố vấn giúp thân chủ ra quyết định bằng cách đưa ra những lời
khuyên “ mang tính chuyên môn" cho thân chủ.
+ Mọi quan hệ giữa nhà cố vấn và thân chủ không cỏ ý nghĩa/vai trò quyết định
bằng kiến thức và sự hiểu biết của nhà cố vấn về lĩnh vực mà thân chủ đang cần.
+ Quá trình cố vấn chỉ có thể diễn ra trong một lần gặp gỡ giữa thân chủ và nhà
cố vấn. Kết quả cố vấn không rõ rệt vấn đề sẽ lặp lại vì các nguyên nhân sâu xa của vấn
đề chưa đuợc thực sự giải quyết.
+ Nhà cố vấn làm chủ cuộc nói chuyện và đưa ra những lời khuyên.
- Trị liệu, trị liệu tâm lí
+ Trị liệu - tiếng Anh là therapy - được lấy từ gốc Hy Lạp là therapia có nghĩa là
chữa trị, làm lành. Trị liệu tâm lí có nghĩa là sự xóa bỏ rắc rối những bệnh lí mang tính
tâm lí. Tư vấn và trị liệu tâm lí có mối quan hệ khá mật thiết với nhau.
- Sự khác biệt giữa tư vấn và tham vấn
+ Tư vấn chủ yếu hướng tới giải quyết vấn đề hiện tại, còn hoạt động tham vấn

hướng tới mục tiêu lâu dài hơn, đó là giúp cá nhân nâng cao khả năng giải quyết vấn đề
sau khi được tham vấn.
+ Tư vấn thường là cung cấp thông tin hay đưa ra lời khuyên. Do vậy nó diễn ra
trong một thời gian ngắn, giải quyết vấn đề tức thời, còn tham vấn có thể diễn ra trong
thời gian có thể kéo dài hàng tuần, hàng tháng thậm chí hàng năm.
+ Trong tư vấn có thể là mối quan hệ trên- dưới giữa một người là được xem là “
uyên bác" với những thông tin chuyên môn, còn bên kia là người “ thiếu hiểu biết" về
vấn đề nào đó, bên cạnh mối quan hệ ở đây không đòi hỏi sự tương tác rất tích cực từ
15


phía đối tượng. Trong khi đó ờ tình huống tham vấn, mối quan hệ mang tính ngang
bằng, bình đẳng và đòi hỏi có sự tương tác rất chặt chẽ tích cực giữa hai bên, có thể nói
nó đóng vai trò như một công cụ quan trọng cho sự thành công của ca tham vấn.
+ Trong tư vấn, cách thức can thiệp chính là cung cấp thông tin và lời khuyên bổ
ích từ người tham vấn với kiến thúc chuyên sâu về vấn đề cần tư vấn. Trong tham vấn,
sự thành công phụ thuộc vào kỷ năng tương tác của nhà tham vấn để đối tương tự nhận
thức, hiểu chính mình và hoàn cảnh của mình để chủ động tìm kiếm giải pháp phù hợp
và thực hiện nó.
1.3. Mục đích, nhiệm vụ và các hình thức tư vấn
- Mục đích của tư vấn
+ Tư vấn để ý thức về mình, ý thức về thực tại, đặc biệt hiểu biết về cách phòng
vệ- cách thức mà bản thân và người khác thường dùng để phản ứng lại với những tác
động xung quanh.
+ Tư vấn để thống nhất trong con nguời, để thích nghi với môi trường, thích nghi
với công việc, để chấp nhận bản thân mình, để giúp cho cơ thể đưa ra quyết định vững
vàng, giúp giải tỏa các ẩn úc trong con người, xác định được đúng vấn đề đang khó
chịu, giúp giảm thiểu hậu quả của những sai lầm hoặc những biến cố tiêu cực, để biết
yêu mình hơn, yêu một cách đúng múc, đứng cách, biết tôn trọng bản thân, giúp loại bỏ
những “ rác rưởi" trong đầu, để tìm một hướng đi cho đời mình, làm sáng tỏ được các

giá trị, mục tiêu và phát huy được tiềm năng của bản thân, để thay đổi triết lí sống, thay
đổi cách nhìn nhận về con người, tìm lại ý nghĩa cuộc sống.
- Nhiêm vụ của tư vấn
+ Giúp thân chủ dám đối diện với những vấn đề của mình, với thực tại cuộc sống,
giúp đương đầu một cách có hiệu quả, tự gánh trách nhiệm. Giúp thân chủ củng cố và
phát triển các thói quen tốt, hạn chế hoặc sửa được các thói quen xấu hoặc giúp điều
chỉnh các suy nghĩ tiêu cực.
+ Giúp thân chú giảm bớt các cảm xúc tiêu cực trong hoàn cánh khó khăn, làm
dịu bớt những cảm xúc căng thẳng.
+ Giúp thân chú tăng hiểu biết về bản thân và hoàn cảnh của mình.
+ Giúp thân chú đưa ra những quyết định tích cực. Trợ giúp cho thân chủ xác
định được những cái cần thay thế nếu không giải quyết được; sàng lọc được các hậu quả
của mọi phương án thay thế, lường trước được sự việc, hướng dẫn thân chủ thực hiện
các quyết định.
+ Thực hiện các quyết định bằng cách hướng dẫn thân chủ. Giúp thân chủ lập ra
kế hoạch mang tính khả thi (hành vi), khuyến khích họ thực hiện theo kế hoạch do họ tự
đề ra; giúp thân chủ đánh giá kết quả.
- Các hình thức tư vấn
+ Tư vấn cá nhân: là quá trình trao đổi mang tính bí mật giữa các cá nhân nhằm
giải quyết các vấn đề có liên quan đến xúc cảm ( lo sợ, chán nản, đau k h ổ … ) t ự sát
hay cải tạo phục hồi (tâm trạng), nạo thai, vấn đề hành hung, hâm dọa, cưỡng bức...
+ Tư vấn gia đình: được hình thành dựa trên cơ sở lí luận cho rằng một thành
viên trong gia đình có vấn đề, nó là kết quả của toàn bộ mối quan hệ trong gia đình; mọi
16


vấn đề trong gia đình xuất hiện đều liên quan đến các thành viên trong gia đình.
+ Tư vấn nhóm: là tư vấn cho các đối tượng có cùng một nhu cầu và có những
quan tâm chung. Tư vấn nhóm tạo ra một sự hỗ trợ nhóm đối với mọi cá nhân, cung cấp
một sự hỗ trợ xã hội cho mỗi nhóm.

- Những điều kiện giúp cho cuộc tư vấn thành công
+ Quá trình tư vấn có được sự cộng tác của các thân chủ.
+ Cần có thời gian và sự kiên tâm.
+ Phải đảm bảo tính khách quan, tính rõ ràng (test).
1.4. Những lí do cơ bản gây ra vấn đề ở thân chủ
- Về mặt khách quan
+ Những sáo trộn, căng thẳng trong cuộc sống (stress);
+ Các giai đoạn lứa tuổi;
+ Hệ thống nhu cầu: không thỏa mãn nhu cầu (vật chất, tinh thần...);
+ Vấn đề kinh tế;
+ Vấn đề thất bại: nghề nghiệp, tình cảm, thích nghi;
+ Các áp lưc xã hội: thường là áp lực về môi trường (làm việc, sống, văn hóa, tôn
g i á o . . ) n h ữ n g vấn đề giai cấp, cạnh tranh chèn ép, kì thị, các vấn đề liên quan đến
đời sống cộng đồng, có thể thân chủ là nạn nhân hoặc cảm nhận mình là nạn nhân.
- Về mặt chủ quan
+ Những người thụ động, những người không làm gì cả, thiếu nghị lực trong
hành động (dựa dẫm vào các quyết định của người khác, thiếu ý chí..) những người làm
việc ngẫu hứng, không có mục tiêu;
+ Những người bất lực, không có khả năng gánh trách nhiệm, người hay đổ lỗi,
không cân bằng trong đời sống (lí trí, tình cảm...), luôn thay đổi ý kiến, những người rối
loạn về tình cảm, lí trí, hành động.
- Tiêu chí đánh giá vấn đề của thân chủ
+ Thân chủ thấy không hài lòng, khó chịu về một mối quan hệ nào đó ( hay phàn
nàn, than phiền...).
+ Có những ứng xử gây sự bất bình đối với những người xung quanh.
+ Xuất hiện những cá tính hiếm thấy ở bản thân.
+ Có những lo âu, buồn chán, sợ hãi... ảnh hưởng đến hoạt động sống.
+ Có tính phi lí trong nhận thức (người khác cho là không bình thường) khi thân
chủ biểu hiện qua hành động.
+ Không thích nghi hoặc khó thích nghi với môi trường, luôn hành động theo

mục tiêu cá nhân ảnh hưởng đến mục tiêu hoạt động bình thường của mình và của
những người xung quanh.
2. Hoạt động 2: Phân tích các giai đoạn tư vấn cho học sinh
Quá trình tư vấn chia thành năm giai đoạn
- Giai đoạn 1: Thiết lập mối quan hệ.
- Giai đoạn 2: Tập hợp thông tin, đánh giá và xác định vấn đề.
17


- Giai đoạn 3: Hỗ trợ để thân chủ tìm kiếm các giải pháp và lựa chọn giải pháp
phù hợp.
- Giai đoạn 4: Trợ giúp thân chủ thục hiện giải pháp.
- Giai đoạn 5: Kết thúc ca tư vấn.
3. Hoạt động 3: Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tư vấn cho học sinh
3.1. Nhóm các yếu tố thuộc về chủ thể tư vấn
- Sự say mê, hứng thú với công việc là một trong những nét tâm lí cá nhân luôn
đuợc xem xét tới trong hoạt động tư vấn. Người ta cũng thường xem đây như là một đặc
trưng đầu tiên của nhà tư vấn có thiên hướng.
- Kinh nghiêm thực tiễn, thâm niên công tác cũng có ảnh hưởng khá nhiều tới
hiệu quả của hoạt động tư vấn. Những kinh nghiệm sống hay kinh nghiệm nghề nghiệp
đã tạo cho nhà tư vấn một nền tảng tri thức để họ vận dụng vào công việc trợ giúp.
- Nền tảng kiến thức chuyên môn được đào tạo: kết quả của sự thực hiện tư vấn
chịu sự chi phối khá nhiều nét tâm lí cá nhân, đặc biệt là hứng thú nghề nghiệp và kinh
nghiệm thục tiễn của nhà tư vấn.
- Giá trị, thái độ đạo đức của nhà tư vấn: Trong tư vấn, giá trị, thái độ đạo đức của
nhà tư vấn luôn được xem như một yếu tổ ảnh hưởng khá lớn tới hành vi giúp đỡ, cách
thức ứng xử của họ với thân chủ.
3.2. Nhóm các yếu tố bên ngoài
+ Nhận thức của cha mẹ học sinh, nhà trường và xã hội về tư vấn.
+ Cơ chế chính sách đối với nhà tư vấn.

+ Cơ hội được tập huấn, bồi dưỡng về tư vấn, hướng dẫn cho học sinh.
+ Sự phát triển nghề tư vấn ở Việt Nam.
Nội dung 2:
CÁC LĨNH VỰC CẦN TƯ VẤN, HƯỚNG DẪN CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
CƠ SỞ.

1. Hoạt động 1: Phân tích các lĩnh vực mà học sinh THCS cần tư vấn
Những lĩnh vực mà học sinh THCS cần tư vấn xuất phát từ những khó khăn tâm lí
bao gồm những lĩnh vục khó khăn tâm lí sau:
+ Khó khăn trong quan hệ ứng xử với thầy cô giáo
+ Giao tiếp với thầy cô (trạng thái tâm lí khi giao tiếp).
+ Sử dụng các phương tiện giao tiếp.
+ Tạo dựng mối quan hệ với thầy cô.
+ Ứng xứ phù họp với vị trí, vai trò của mình.
+ Khó khăn trong quan hệ ứng xử với bạn bè
+ Khó khăn trong quan hệ ứng xử với các thành viên trong gia đình
+ Khó khăn trong giao tiếp với cộng đồng
+ Khó khăn trong vấn đề hướng nghiệp
+ Khó khăn trong những công việc được tập thể giao phó
+ Những khó khăn trong các vấn đề về giới tính: Sự phát triển của cơ thể, những
18


vấn đề thầm kín của bản thân, những hiện tượng đồng tính luyến á i …
+ Khó khăn trong việc chấp hành những nội quy của nhà trường, của lớp.
2. Hoạt động 2: Một số nguyên tắc đạo đức khi thực hiện hoạt động tư vấn,
hướng dẫn
+ Nguyên tắc tôn trọng thân chủ trong quá trình tư vấn.
+ Nguyên tắc không phán xét đối tượng.
+ Nguyên tắc dành quyền tự quyết cho thân chủ.

+ Nguyên tắc đảm bảo tính bí mật thông tin cho thân chủ.
Module THCS 12 “KHẮC PHỤC TRẠNG THÁI TÂM LÝ CĂNG THẲNG CHO
HỌC SINH THCS”
NỘI DUNG I. Khái quát chung về căng thẳng tâm lí (stress) và căng thẳng tâm lí
trong học tập.
1. Khái niệm chung về stress
1.1.Khái niệm về stress
Stress trong tiếng Anh có nghĩa là nhấn mạnh. Thuật ngữ này còn dùng trong Vật
lý học để chỉ sức nén mà vật liệu phải chịu.
Thuật ngữ stress được W. Cannon sử dụng lần đầu tiên trong Sinh học, tuy nhiên,
người có công lớn trong việc nghiên cứu về stress là Hans Selye, người Canada. Ông là
người nghiên cứu khá hệ thống về stress. Năm 1936, thuật ngữ stress được ông đề cập
các công trình nghiên cứu của mình để miêu tả hội chứng của quá trình thích nghi với
mọi loại bệnh tật. Trong một số công trình của ông, ông đã nhấn mạnh “ Stress có tính
chất tổng hợp chứ không phải thể hiện trong một trạng thái phản ứng không đặc hiệu
của cơ thể với bất kì tín hiệu nào” Sau đó ông lại quan niệm: “ Stress là nhịp sống luôn
luôn có mặt ở bất kì thời điểm nào của sự tồn tại của chúng ta. Một tác động bất kì tới
một cơ quan nào đó đều gây ra stress. Stress không phải lúc nào cũng là kết quả của sự
tổn thương, ngược lại có hai loại stress khác nhau, đối lập nhau: Stress bình thường
khỏe mạnh và stress độc hại …”
Tác giả Tô Như Khuê cho rằng: “ Stress tâm lí chính là phản ứng không đặc hiệu
xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lí xuất hiện trong các tình
huống mà con người chủ quan thấy là bất lợi hoặc rủi ro, ở đây vai trò quyết định
không chủ yếu do tác nhân kích thích mà do sự đánh giá chủ quan về các nhân tố đó.”
Có nhiều quan điểm khác nhau về stress, với các gốc độ khác nhau stress được
hiểu theo những cách khác nhau. Nhìn chung, các tác giả đều nhìn stress trên gốc độ
tiêu cực, chưa nhìn thấy mặt tích cực của nó đối với sự phát triển tâm lí con người.
1.2. Nguồn gốc gây ra stress
Có nhiều căn nguyên dẫn đến stress. Các nhà khoa học cho rằng, stress có tính
chất tích tụ nên nó xuất hiện thì cần phải kiểm soát và giải tỏa chúng. Nếu không,

những tác động nhỏ hằng ngày sẽ được dồn nén và khi bùng phát nó sẽ gây ra những tác
hại không nhỏ. Theo tác giả Võ Văn Bản, có thể chia nguồn gốc gây ra stress như sau:
* Nguồn gốc từ môi trường bên ngoài:

19


- Nguồn gốc từ cuộc sống gia đình: Những tác nhân gây stress từ phía gia đình đó
là những vấn đề có liên quan đến yếu tố kinh tế và tình cảm, những kì vọng của những
người trong gia đình đối với mỗi thành viên.
- Nguồn gốc từ môi trường xã hội: Đó là những yếu tố liên quan đến môi trường
sống, học tập và làm việc, những mối quan hệ, ứng xử xã hội, tâm lí xã hội…
- Nguồn gốc từ môi trường tự nhiên là những yếu tố như khí hậu, thời tiết, cảnh
quan…
* Nguồn gốc từ bản thân:
- Yếu tố sức khỏe: Những rối loạn bệnh lí mới xuất hiện, những bệnh lí ở giai
đoạn cuối hoặc những bệnh lí mãn tính, sự khiếm khuyết về thực thể.
- Yếu tố tâm lí: Đó là trình độ thích nghi của các thuộc tính tâm lí bao gồm năng
lực, ý chí, tình cảm, nhu cầu, trình độ nhận thức, kinh nghiệm của chủ thể.
2. Khái niệm về stress trong học tập.
2.1 Một số đặc điểm tâm lí đặc trưng của học sinh THCS
Học sinh THCS là những lứa tuổi từ 11 đến 15 đang học từ lớp 6 đến lớp 9. Đây
là thời kì phức tạp và quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi cá nhân, là thời kì
chuyển từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành. Có một số đặc điểm tâm lí cơ bản như sau:
Sự phát triển không cân đối giữa chiều cao và trọng lượng, giữa xương ống tay,
ống chân, xương ngón tay, ngón chân đã dẫn đến sự thiếu cân đối. Các em rất lóng
ngóng, vụng về, không khéo léo khi làm việc, thiếu thận trọng, hay làm đổ vỡ.
Sự phát triển về mặt sinh lí cũng như sự biến đổi căn bản về mặt cơ thể, với nét
đặc trưng lớn nhất là sự phát dục đã dẫn đến nhiều biến đổi về mặt tâm lí
Điều kiện sống của các em cũng có nhiều thay đổi mạnh mẽ. Trong gia đình, các

em có sự tham gia tích cực vào các hoạt động và nhiệm vụ của gia đình giao cho. Các
em thể hiện sự tích cực, chủ động và độc lập trong khi hoàn thành các nhiệm vụ như
một người lớn.
Học sinh THCS có nhu cầu muốn mở rộng các mối quan hệ với người lớn và
mong muốn người lớn nhìn nhận mình một cách bình đẳng, không muốn bị coi là trẻ
con như trước đây. Bên cạnh đó, nhười lớn lại không coi các em đã trở thành người lớn.
Điều này có thể gây ra xung đột tạm thời giữa thiếu niên với người lớn.
Đời sống tình cảm của học sinh THCS sâu sắc và phức tạp hơn so với học sinh
tiểu học. Các em rất dễ bị xúc động, dễ bị kích động, vui buồn chuyển hóa dễ dàng, tình
cảm mang tính bồng bột.
2.2 Bản chất của stress trong quá trình học tập ở học sinh THCS
Stress là sự phản ứng của cơ thể trước các tác nhân bên ngoài. Trong học tập, học
sinh chịu nhiều tác động , áp lực không chỉ ở yêu cầu, nội dung tri thức môn học mà còn
ở phương pháp giảng dạy, thái độ của giáo viên…. Những điều đó đã tạo nên stress cho
các em.
3. Tìm hiểu việc phân loại stress
3.1. Căn cứ vào mức độ stress
Theo Hans Selye, ông phân stress làm hai loại:
20


- Stress tích cực: phản ứng thích nghi với những tác động của môi trường
+ Giai đoạn báo động: Theo cơ chế sinh học, khi có kích thích cơ thể sẽ tiếp nhận
thông qua sự truyền dẫn của các dây thần kinh lên hệ thần kinh trung ương báo hiệu cho
biết là có kích thích đang tác động.
+ Giai đoạn kháng cự: Thường xảy ra sau giai đoạn báo động do các tác động của
các tác nhân gây stress thông qua hệ thần kinh trung ương, kích thích vùng dưới tuyến
yên, tuyến thượng thận… từ đó tác động lên toàn bộ chức năng của cơ thể.
- Stress tiêu cực: Cơ chế diễn ra cũng giống như các giai đoạn của stress tích
cực. Tuy nhiên do giai đoạn chống đỡ kéo dài, liên tục thất bại làm cho hệ tiết dịch

trong cơ thể hoạt động nhiều dẫn đến giảm khả năng miễn dịch của cơ thể mà suy kiệt.
3.2. Phân loại stress dựa trên nguyên nhân.
Stress có thể phân ra làm ba loại cơ bản:
- Stress sinh thái: Đây là loại stress mà yếu tố gây nên nó có nguồn gốc từ sinh
thái. Loại này phát sinh từ mối quan hệ giữa môi trường bên trong và bên ngoài cơ thể
nhằm tạo ra những phản ứng khác nhau với các tình huống nhất định giúp chủ thể có
khả năng thích ứng.
+ Rối loạn chu kì nhịp sinh học: là loại stress sinh thái cơ bản nhất, nguyên nhân
là do con người không chịu tuân theo những sắp đặt sẵn của tự nhiên. Với điều kiện và
khả năng của mình, qua việc tổ chức cuộc sống như vậy đã rơi vào trạng thái stress.
+ Rối loạn nhịp ăn và ngủ: Đây là loại stress cũng được nghiên cứu nhiều cụ thể
với chế độ lao động nặng kèm với ít ngủ hoặc không ngủ, kèm theo chế độ ăn giảm calo
thì khả năng lao động cũng như trạng thái tâm lí và sinh lí biến đổi, giảm chất lượng do
bị stress.
+ Stress do chấn thương và bệnh tật: Nó trực tiếp làm tổn hại, suy giảm đến
chức năng hoạt động của thực thể. Nếu người bệnh được giải thích và hiểu cặn kẻ về
các triệu chứng của bệnh thì các triệu chứng ấy càng ít gây ra stress và ngược lại.
+ Stress do tiếng ồn: Nó tác động và gây trở ngại cho các hoạt động cần thiết cho
con người. Nếu tiếp xúc lâu dài với tiếng ồn, có cường độ cao, có thể làm tăng huyết áp,
giảm trí nhớ.
- Stress tâm lí xã hội: Những tác động của những biến cố được xem là rất lí
tưởng cũng có thể gây ra sự khởi phát stress, cụ thể:
+ Tâm lí xã hội, nhóm xã hội, trình độ tâm lí…. Là những yếu tố quan trọng tạo
ra những biến đổi trong đời sống tâm lí con người, gây nên stress tâm lí xã hội.
+ Sự thất vọng: Không đạt điều mong muốn sẽ gây nên sự khủng hoảng lòng tin.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thất vọng nhưng nguyên nhân cơ bản là sự mất ổn
định chế độ, sự không phù hợp của chính sách kinh tế - xã hội
4. Xác định những ảnh hưởng của stress đến học tập của học sinh THCS
4.1. Ảnh hưởng của stress đến con người
Stress là căn bệnh của thời đại mà xuất phát của nó chủ yếu là từ môi trường, từ

điều kiện, cách thức sinh hoạt và tổ chức cuộc sống của con người.

21


Stress có nhiều mức độ khác nhau, sự ảnh hưởng của nó cũng biểu hiện vô cùng
phong phú. Mặc dù rất hiếm khi stress gây chết người một cách trực tiếp. Nhưng hậu
quả của nó gây ra vô cùng to lớn, nó có thể phá vỡ sự cân bằng
Cơ thể, dẫn đến những biến loạn về tâm lí, sinh lí, sinh hóa của cơ thể gây nên
nhiều căn bệnh dai dẳng và nguy hiểm như đường máu, bệnh tim mạch, rối loạn tiêu
hóa…. ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động và chất lượng cuộc sống con người.
Cuộc sống luôn luôn biến động, stress luôn luôn tồn tại trong đời sống hằng ngày
trong suốt quá trình phát triển nhân cách mỗi cá thể. Cuộc sống văn minh, xã hội càng
phát triển thì con người có thể càng gặp nhiều stress hơn. Do đó việc hiểu biết về stress
và những ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe con người cũng như các biện pháp phòng
ngừa stress để có thể sống chung với stress là việc làm cần thiết và hữu ích nhằm mang
lại sức khỏe cho bản thân, cho cộng đồng, giúp con người thích ứng với điều kiện sống
tốt hơn.
4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến stress trong học tập của học sinh
- Các yếu tố khách quan – môi trường tâm lí _ xã hội
Trong thời đại thông tin bùng nổ, kiến thức được cập nhật nhanh chóng, hiện đại.
Những phát minh khoa học tiên tiến không phải chờ đến khi đưa vào sách học sinh mới
biết mà nó đến với các em hằng ngày thông qua mạng thông tin, sách báo điện tử… Bên
cạnh những điều kiện thuận lợi, môi trường xã hội cũng có thể mang đến nhiều bất lợi.
Những tệ nạn xã hội ở mọi biến động của thời đại đang liên tục tác động mạnh mẻ tới
mọi tầng lớp trong xã hội.
- Các yếu tố chủ quan:
+ Về mặt sinh lí: Bị mắc các chứng bệnh đau đầu, đau lưng khi ngồi vào bàn học,
sức khỏe kém.
+ Về mặt tâm lí:

Nhận thức của học sinh trước các tình huống học tập: Vốn hiểu biết có mâu
thuẩn với nhiệm vụ học tập vừa mới, vừa khó trong khi trình độ nhận thức còn hạn chế.
Thái độ của học sinh trước các nhiệm vụ của môn học đề ra, thấy mình không có
khả năng học, không hứng thú với môn học, không tìm thấy phương pháp học tập thích
hợp.
Đó là các yếu tố quan trọng có thể làm tăng thêm mức độ hay giảm mức độ stress
trong học tập của học sinh.
NỘI DUNG II. Biểu hiện và mức độ stress trong học tập của học sinh THCS
1. Phân tích các biểu hiện của stress trong học tập của học sinh THCS
1.1 Biểu hiện cụ thể của stress trong học tập của học sinh THCS
Stress của học sinh THCS được biểu hiện ở các trạng thái ứng phó tâm lí. Do đó,
nó vô cùng đa dạng và phức tạp. Trước yêu cầu của nhiệm vụ học tập, học sinh không
hoàn toàn bị động, sự tiếp nhận hay chống lại những nhiệm vụ ấy tạo nên những biến
đổi đồng loạt của các phẩm chất, nhân cách cụ thể:
- Biểu hiện về nhận thức trong học tập: Thể hiện ở sự biến đổi trong nhận thức
về môn Toán: ghi nhớ kém, hay nhầm lẫn trong tính toán…
22


- Biểu hiện về mặt sinh lí: Đau đầu, chán ăn, mê sảng, ác mộng, chân tay run,
toát mồ hôi, khó thở…
- Biểu hiện về mặt tâm lí: Thể hiện sự không tập trung, mặc cảm tự ti về năng
lực bản thân, cảm thấy buồn bã, chán nản hay cáu gắt với người khác…
1.2 Mức độ stress trong học tập của học sinh THCS
* Mức độ stress
- Stress bình thường: Là chương trình thích nghi bình thường, đảm bảo hoạt
động sống bình thường, không có biểu hiện rối loạn.
- Mức độ stress cao: Là chương trình thích nghi xuất hiện những biến đổi tâm,
sinh lí nhất định khi có tác nhân gây stress từ mức nặng đến cực hạn.
Mức độ stress trong học tập của học sinh THCS được đánh giá trên cơ sở của các

quá trình nhận thức và mức độ khó hay dễ của nhiệm vụ học tập đối với mỗi học sinh
NỘI DUNG III. Phương pháp và kĩ năng ứng phó với stress trong học tập. các
phương pháp hỗ trợ tâm lí cho học sinh phát hiện và ứng phó với stress trong học
tập ở học sinh thcs
1. Làm quen với một số phương pháp ứng phó với stress trong học tập
- Stress mãn tính có thể phá vỡ cuộc sống của chúng ta và thậm chí có thể gây ra
tử vong. Vì vậy, chúng ta cần tạo ra cách để xử lí stress.
- Việc đầu tiên là học sinh phải biết nhận ra các dấu hiệu của stress: Những bất
thường về thể chất, thần kinh và quan hệ xã hội như bổng nhiên thèm ăn hoặc bỏ ăn,
đau đầu, mất ngủ hoặc là ngủ quên, tâm trạng bất an, giận dữ hoặc sợ hãi…
- Giảm mức độ cao của stress để có một sức khỏe tốt trong học và thi. Muốn có
sức khỏe tốt trước hết hãy lưu ý đến phương pháp học tập, ôn tập, nghỉ ngơi, thư giãn
hợp lí. Cần tránh hiện tượng học dồn, thi mới học, học đêm ngủ ngày. Trí não của con
người chỉ có thể hoạt động hiệu quả trong vòng 45 phút đến 1 giờ sau đó cần được nghỉ
ngơi, giải lao hoặc làm những công việc chân tay từ 15 đến 20 phút sau đó hoạt động trí
não lại.
- Cần có chế độ ăn đầy đủ và cân bằng dưỡng chất. Chú ý dùng các thực phẩm
như sữa, trứng, thịt, rau, quả. Ngoài ra nên dùng thêm các loại dầu thực phẩm như dầu
đậu nành, dầu mè…
- Cà phê, trà đậm là chất có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương làm cho
tỉnh táo, chống lại cơn buồn ngủ, nếu uống ban ngày, đặc biệt là buổi sáng. Tuy nhiên
trong thời gian học thi hoàn toàn không nên lạm dụng. Buồn ngủ là dấu hiệu báo cho cơ
thể đã mệt mỏi, cần sự nghỉ ngơi để lấy lại cân bằng. Nếu giai đoạn này dùng chất kích
thích, cơ thể sẽ mệt mỏi không còn sức tập trung để có thể ghi nhớ.
2. Một số biện pháp làm giảm stress có hại
- Ngâm tắm: Nước có tác dụng xoa dịu các cơ và xương khớp bị đau mỏi, giúp tế
bào được phục hồi, chất độc được đưa ra ngoài cơ thể. Trong khi tắm nên giảm các yếu
tố gây kích thích thị giác, hãy bật những chương trình nhạc nhẹ hoặc loại nhạc mà mình
yêu thích.
- Hát: Hát kích thích hoạt động cơ hoành, cơ cổ, nhờ đó trung tâm thần kinh sinh

dưỡng thuộc phần bụng được phục hồi. Ngoài ra còn cung cấp thêm ôxi cho cơ thể.
23


- Chơi đùa với thú nuôi: Thú nuôi rất có ích cho việc giải tỏa stress cho con
người. Người ta có thể tâm sự những buồn vui với vật nuôi trong nhà.
- Thư giãn: Sau mỗi công việc căng thẳng, cần có thời gian nghỉ ngơi, thư giãn
với tất cả những loại hình mà mình thíc
- Cười: Không chỉ mang lại sự vui vẻ, thoải mái mà cơ thể còn tiết ra monphine
tự nhiên, tạo khả năng chống stress.
- Thưởng thức nghệ thuật: Ngắm nhìn một bức tranh, nghe một bản nhạc mà
mình yêu thích.
- Massage: Mỗi ngày dành 30 phút để làm việc này sẽ làm cho hiện tượng co cơ
giảm đi một cách rõ rệt.
- Tập thể dục buổi sáng, đi bộ: Làm lưu thông khí huyết, hít thở không khí trong
làn
- Thiền: Luyện cho tinh thần và cơ thể tránh những căng thẳng thường nhật, tăng
cường hoạt động có hiệu quả của hệ tuần hoàn và tim mạch, giúp các khớp trong cơ thể
có độ đàn hồi, ngăn ngừa bệnh loãng xương, chống được sự mất ngủ, lo lắng, buồn
phiền.
3. Làm quen với một số phương pháp trợ giúp học sinh THCS ứng phó với
stress trong học tập.
3.1 Những nguyên tắc trợ giúp về mặt tâm lí
- Chăm sóc cho sức khỏe và tránh những nguy hiểm có thể có.
- Can thiệp sớm một cách trực tiếp, chủ động và bình tĩnh.
- Tập trung vào những vấn đề của hiện tại.
- Cung cấp những thông tin chính xác về những gì đã xảy ra.
- Không nói những điều không có khả năng thực thi.
- Tìm ra những vấn đề quan trọng cần phải giải quyết.
- Đoàn tụ gia đình.

- Cung cấp và đảm bảo về những trợ giúp tâm lí.
- Tập trung vào những lợi thế và khả năng phục hồi của nạn nhân.
- Khuyến khích sự tự lực.
- Quan tâm đến cảm xúc của những người xung quanh.
3.2 Sự trợ giúp từ tham vấn tâm lí học đường
- Tham vấn tâm lí học đường là một quá trình diễn ra với nhiều giai đoạn khác
nhau từ việc xây dựng mối quan hệ, khai thác, tìm hiểu, xác định vấn đề đến giải quyết
vấn đề thuộc lĩnh vực tâm lí.
- Mục tiêu của tham vấn tâm lí học đường là giúp đỡ học sinh hiểu được cảm xúc,
suy nghĩ của chính các em, từ đó có thể giải quyết vấn đề một cách tốt nhất.
- Hoạt động tham vấn tâm lí học đường diễn ra trên cơ sở mối quan hệ tương tác
tích cực giữa nhà tham vấn và học sinh, được thực hiện chủ yếu trong tương tác trực
tiếp tại phòng tâm lí học đường hoặc tại lớp học.

24


- Nhà tham vấn tâm lí học đường có thể là người làm chuyên nghiệp hoặc bán
chuyên nghiệp. Song họ đều cần có kiến thức về tâm lí, kĩ năng, thái độ nghề nghiệp
tham vấn tâm lí để thực hiện hoạt động tham vấn tâm lí một cách tốt nhất.
- Đối tượng được tham vấn tâm lí học đường có thể là cá nhân học sinh có nhu
cầu cần được tham vấn tâm lí. Ngoài ra còn có thể là nhóm học sinh, hoặc tập thể học
sinh với các vấn đề nổi cộm của lớp như học tập, đánh nhau, quan hệ bạn khác giới, sự
phát triển của cơ thể, quan hệ của lớp với giáo viên.
- Các giai đoạn trong quá trình tham vấn tâm lí học đường bao gồm:
+ Thiết lập mối quan hệ: xây dựng mối quan hệ tốt trong tham vấn là khâu then
chốt. Nếu không có mối quan hệ tốt thì thông tin và trách nhiệm không thể trao đổi
được. Để đạt được những yêu cầu trên, nhà tham vấn tâm lí phải có các kĩ năng chuyên
môn, những phẩm chất đạo đức, thực hiện đúng nguỵen tắc cũng như phải biết tiếp cận
đối tượng.

+ Tập hợp thông tin, đánh giá và xác định vấn đề: Mục đích của giai đoạn này
là tìm hiểu những mối quan tâm chủ yếu của đối tượng, xác định những mặt mạnh và
hạn chế sẽ ảnh hưởng đến khả năng giải quyết vấn đề. Để đạt mục đích đó, nhà tham
vấn cần tìm hiểu hoàn cảnh đối tượng, gồm cả môi trường xã hội, giáo dục, gia đình,
tình cảm, thể chất, tâm lí.
+ Hỗ trợ để học sinh tìm kiếm các giải pháp và lựa chọn giải pháp phù hợp:
Mục tiêu nổi bật của giai đoạn này là nhà tham vấn trợ giúp đối tượng xác định phương
hướng thiết thực cho cuộc sống. Trong giai đoạn này, nhà tham vấn và đối tượng xác
định các gốc độ khác nhau để giải quyết vấn đề, cố gắng chia nhỏ những vấn đề có qui
mô lớn thành các bước nhỏ dễ xử lí hơn.
+ Trợ giúp đối tượng thực hiện giải pháp: Trong quá trình thực thi các giải
pháp, nhà tham vấn cần kiểm tra quá trình thực hiện theo định kì. Trong quá trình này,
nhà tham vấn và đối tượng cần kịp thời phát hiện, xử lí những những khó khăn mới phát
sinh trong quá trình thực hiện.
C. KẾT THÚC: Giống như nhiều dịch vụ khác, khi giải pháp và điều kiện thỏa
thuận hai bên đạt được, những đối tác có liên quan đến dịch vụ đó sẽ đi đến kết thúc.
Tham vấn tâm lí cũng không phải là ngoại lệ. Khi đối tượng tự giải quyết được vấn đề,
bước kế tiếp là kết thúc dịch vụ tham vấn tâm lí.
Module 14: "XÂY DỰNG KẾ HOẠCH DẠY HỌC THEO HƯỚNG TÍCH HỢP"
A- NỘI DUNG 1: DẠY HỌC TÍCH HỢP

1/ Những vấn đề chung về dạy học tích cực: (1 tiết)
1.1/ Khái niệm:
Tích hợp trong tiếng Anh là integrated, nghĩa là "tập hợp, tích cóp ,nhóm gọn
một hoặc nhiều các phần tử riêng lẻ vào cùng một diện tích".
Theo từ điển tiếng Việt, Tích hợp là sự tập hợp hay thu gọn thành phần một cách
nhỏ gọn nhất có thể.
Theo tự điển giáo dục: Dạy học tích hợp là hành động liên kết các đối tượng
nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong
cùng một kế hoạch dạy học.

25


×