Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Công tác lý luận của đảng TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.52 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề quan trọng quyết định đến vận mệnh của dân
tộc - đó là tư duy nhận thức của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
hoạt động nhận thức (tư duy) của Đảng có vai trò, ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Trên cơ sở của một nhận thức nhất định mà Đảng vạch ra đường lối, chủ
trương, chính sách. Nhận thức đúng, sai quyết định đến xu hướng, bước tiến,
qui mô và có thành bại của cuộc cách mạng.
Con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đã được chủ nghĩa Mác Lênin giải quyết khá căn bản về mặt lý luận. Dường như, sau khi giành được
chính quyền, các Đảng Cộng sản chỉ việc quán triệt cho đầy đủ những luận
điểm lý luận và sử dụng kinh nghiệm của các nước đi trước cho phù hợp với
hoàn cảnh nước mình. Nhiều lắm là đem đến cho nó một vẻ riêng biệt nào đó
trên cơ sở của cùng một con đường, đã được hình dung sẵn. Nhưng trong thực
tế ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và ở Việt Nam, đã có một quá trình
không đơn giản, thậm chí có không ít vấp váp, sai lầm, đến độ phải đổi mới
nhận thức về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đảng ta hình dung ngay từ khi
thành lập Đảng. Đó là con đường sau khi đã hoàn thành cuộc cách mạng điền
địa và phản đế, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản
chủ nghĩa. Đảng đã bước đầu chuẩn bị cho những năm cuối của cuộc kháng
chiến chống Pháp. Nhưng phải đến năm 1954, sau khi miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng, vấn đề quá độ mới thực sự được đặt ra. Những kinh nghiệm
và nhận thức của hai Đảng lớn Liên Xô, Trung Quốc về thời kỳ quá độ khi ấy
được thừa nhận là có ý nghĩa phổ biến.
Vì những lí do chủ quan và khách quan, mặc dù có nêu việc đưa miền
Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội (tại Hội nghị Trung ương lần VIII, 8-1955).
Thời kỳ kỳ 1954 - 1957 Đảng chưa thể vạch ra một chương trình tổng thể xây
dựng miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Những giải pháp kinh tế-xã hội xuất
phát từ thực tiễn đất nước nhằm khôi phục kinh tế… đã tỏ ra có hiệu quả to
1



lớn. Nhưng nó sớn bị ngưng lại và dường như chỉ được coi là chuẩn bị tiền đề
cho miền Bắc bắt đầu vào thời kỳ quá độ, hơn là những biện pháp, chủ trương
cần có của chính thời kỳ quá độ.
Khi rõ ràng không còn khả năng hiệp thương hoà bình giải quyết vấn đề
thống nhất đất nước, khi gánh nặng của cuộc cách mạng ở từng miền và cả
nước tuỳ thuộc vào đôi vai của miền Bắc và sau Hội nghị các Đảng Cộng sản
và công nhân ở Matxơcơva 1957 và 1960. Đảng dứt khoát khẳng định miền
Bắc bước vào thời kỳ quá độ và mặc nhiên thừa nhận những quy luật của
cuộc cách mạng theo các mô hình chung lúc đó.
Nhà nước chuyên chính vô sản trên nền tảng kinh tế của chế độ công hữu
dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa,
tiến hành các cuộc cải biến về văn hoá - tư tưởng nhằm thiết lập hình thái
kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội III (9-1960) đến Đại hội IV (121976) của Đảng, những quan điểm đó không thay đổi, về hình thức, bước đi
để giải quyết các nhiệm vụ kinh tế - chính trị của thời kỳ quá độ - Chủ trương
tương đối nhất quán của Đảng là phải tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận
lợi để tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy vậy, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, công tác xây dựng Đảng đứng trước những khó khăn lớn về mặt lý
luận vì chưa có tiền lệ trong lịch sử. Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân,
phát triển đảng viên từ các chủ doanh nghiệp tư nhân, thi tuyển cán bộ lãnh
đạo quản lý, nhất thể hoá các chức danh lãnh đạo đảng, chính quyền, luận giải
bản chất giai cấp công nhân, phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
cầm quyền… đang là những vấn đề lý luận phức tạp, những câu hỏi lớn cần
được giải đáp thuyết phục hơn bằng căn cứ khoa học.
Các nguyên tắc trong từng lĩnh vực công tác xây dựng Đảng cũng cần
được nghiên cứu, tổng kết. Tại sao các nguyên tắc rất đúng đắn lại chậm đi
vào cuộc sống? Quy chế, quy định nào cản trở sự thực thi của các nguyên tắc
xây dựng Đảng? Đảng cầm quyền lãnh đạo xã hội, không chỉ nghiên cứu
2



những quy luật cầm quyền, phương thức cầm quyền, mà còn nghiên cứu quy
luật, nguyên tắc để nâng cao năng lực cầm quyền của bản thân Đảng.
Do vậy, những vấn đề lý luận về xây dựng Đảng hiện nay đang rất cần
phải gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và lý luận đó
chỉ có thể tồn tại và phát triển một khi nó đáp ứng được yêu cầu của cuộc
sống thực tiễn.

3


NỘI DUNG
Công tác lý luận của Đảng, những vấn đề và kinh nghiệm lịch sử
1. Công tác lý luận của Đảng, những vấn đề và kinh nghiệm lịch sử
giai đoạn 1975 – 1986
Công tác lý luận xây dựng Đảng cũng như vai trò của công tác lý luận
nói chung được Chủ tịch Hồ Chí Minh khi viết tác phẩm “Đường Cách mệnh”
đã trang trọng ghi trên trang bìa cuốn sách câu nói của Lênin: “Không có lý
luận cách mạng thì không có cách mạng vận động… Chỉ có theo lý luận cách
mạng tiền phong, đảng cách mạng mới làm nổi trách nhiệm cách mạng tiên
phong”. Câu nói này trở thành phương châm của cách mạng Việt Nam từ
trước khi ra đời đến nay và mãi mãi là một trong những phương thức tồn tại
và phát triển của một đảng cầm quyền. Trong cuốn sách đó, những quan điểm
về xây dựng một Đảng cách mạng được Người đề cập đầu tiên là vấn đề tư
cách của người cách mạng, góp phần quan trọng cho sự giác ngộ, cảm hoá các
thành viên muốn gia nhập Đảng, đặt nền móng cho khoa học xây dựng Đảng.
Trong suốt quá trình ra đời và phát triển của Đảng, cho dù gặp khó khăn
đến đâu, thậm chí có lúc bị hiểu lầm, bị phê phán “là người có tư tưởng dân
tộc chủ nghĩa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sáng ngời tinh thần khoa học trong
nghiên cứu, lý giải, bảo vệ những quan điểm đúng đắn, sáng tạo, xuất phát từ

thực tế cách mạng và phục vụ nhiệm vụ cách mạng của khoa học xây dựng
Đảng. Người đã đóng góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về quy luật ra
đời của Đảng, kiên trì luận giải bản chất giai cấp của Đảng ta, “Đảng của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc” trong điều kiện cụ thể ở
Việt Nam.
Từ 1976, Đảng có chủ trương kết thúc thời kỳ quá độ sau vài ba kế
hoạch 5 năm. Có thể nói, với công thức chuyên chính vô sản - chế dộ làm chủ
tập thể xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mà Đại hội IV
đề ra những quan niệm về “chủ nghĩa xã hội - Nhà nước” đã đạt đến nhận
thức cao nhất vượt qua những điều kiện thực tiễn đất nước.
4


Hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản giai đoạn 1975-1986 được
chỉ đạo bởi các đường lối của các Đại hội IV và V của Đảng đã góp phần
mang lại những thành tựu mà nhân dân ta đạt được trong 10 năm (1975-1986)
đầy khó khăn, thử thách. Điểm tìm tòi sáng tạo trong giai đoạn này của Đảng
là đã coi làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất của hệ thống chuyên
chính vô sản ở nước ta, đã xây dựng mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân
làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong hoạt động của hệ thống
chính trị ở tất cả các cấp, các địa phương.
Trong hệ thống chuyên chính vô sản giai đoạn này, mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng đơn vị chưa được xác định thật rõ; mỗi
bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa làm tốt chức
năng của mình. Chế độ trách nhiệm không nghiêm, pháp chế xã hội chủ nghĩa
còn nhiều thiếu sót.
Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả mà cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp là nguyên nhân trực tiếp; các cơ quan dân cử các cấp
được lựa chọn, bầu cử và hoạt động một cách high thức chủ nghĩa. Không ít
cơ quan chính quyền không tôn trọng ý kiến của nhân dân, không làm công

tác vận động quần chúng, chỉ quen dùng các biện pháp mệnh lệnh hành chính.
Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ của giai đoạn
mới, chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vần đề kinh tế -xã hội cơ
bản và cấp bách. Nguồn gốc sâu xa là coi nhẹ công tác xây dựng Đảng. Có
tình trạng tập trung quan liêu, gia trưởng, độc đoán trong phương thức lãnh
đạo của Đảng. Trong 10 năm (1976 - 1986) trên 19 vạn đảng viên bị đưa ra
khỏi Đảng, có những người bị truy tố trước pháp luật. Trong số đó một phần
khá lớn là những đảng viên phạm sai lầm về phẩm chất đạo đức.
Đảng chưa phát huy tốt vai trò và chức năng của các đoàn thể trong việc
giáo dục, động viên quần chúng tham gia quản lý kinh tế - xã hội. Các đoàn
thể chưa tích cực đổi mới phương thức hoạt động đúng với tính chất của tổ
chức quần chúng.
5


Nguyên nhân:
Duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp.
Hệ thống chuyên chính vô sản có biểu hện bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới
so với những đột phá trong cơ chế kinh tế đang diễn ra ở các địa phương, các
cơ sở trong toàn quốc. Do đó đã cản trở quá trình đổi mới cơ chế kinh tế.
Bệnh chủ quan, duy ý chí; tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh, vừa
hữu khuynh trong vai trò lãnh đạo của Đảng.
Những hạn chế, sai lầm trên đây cùng những yêu cầu của công cuộc đổi
mới, đã thúc đẩy chúng ta phải đổi mới hệ thống chuyên chính vô sản thành
hệ thống chính trị trong thời kỳ mới.
2. Công tác lý luận của Đảng, những vấn đề và kinh nghiệm lịch sử
giai đoạn từ thời kì đổi mới 1986- 2012
Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28-3-1992
của Bộ Chính trị khóa VII, công tác lý luận của Đảng đã đạt được những kết
quả quan trọng. Tư duy lý luận tiếp tục có bước phát triển; chú trọng tổng kết

thực tiễn, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 2011) và Hiến pháp năm 2013. Đã bước đầu
hình thành hệ thống lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội;
các định hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội; về mô hình kinh tế tổng
quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc, hội nhập quốc tế; về phát huy dân chủ, xây dựng hệ thống chính trị, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xây dựng, chỉnh đốn
Đảng...). Những kết quả đó góp phần tích cực vào thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước, từng bước đưa nước ta thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tình trạng nước nghèo, kém phát
triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, phấn đấu tạo nền
tảng để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
6


Công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận được quan tâm, định hướng với
nội dung, hình thức đa dạng, phong phú hơn. Việc giáo dục lý luận chính trị
được triển khai sâu rộng trong Đảng và hệ thống chính trị. Công tác nghiên
cứu, quán triệt các nghị quyết, kết luận của Đảng có đổi mới. Đội ngũ cán bộ
lý luận được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng phát triển. Việc phát huy dân chủ,
tự do sáng tạo trong nghiên cứu lý luận được coi trọng. Cuộc đấu tranh tư
tưởng, lý luận, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chống âm mưu "diễn
biến hòa bình" và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
Đảng đã đạt kết quả bước đầu.
Các cơ quan lý luận của Đảng, Nhà nước được tổ chức, sắp xếp lại, khắc
phục một bước tình trạng phân tán, chồng chéo và kém hiệu quả. Cơ chế hoạt
động và quản lý nghiên cứu lý luận đã có bước đổi mới. Ngân sách đầu tư cho

nghiên cứu lý luận từng bước được tăng lên; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lý
luận được coi trọng, có bước phát triển mới.
Tuy nhiên, công tác lý luận còn có những hạn chế, khuyết điểm. Nhìn
chung, lý luận còn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa
đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn. Nghiên cứu về hình hình thế giới, khu vực
và vấn đề thời đại chưa sâu sắc, toàn diện. Kết quả nghiên cứu về chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn dàn trải, tính hệ thống chưa cao,
chưa gắn kết chặt chẽ với những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Nghiên cứu
những trào lưu tư tưởng, học thuyết mới, lý thuyết mới chưa được nhiều. Kết
quả thực hiện nhiệm vụ cung cấp luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch
định đường lối, quan điểm của Đảng còn hạn chế, nhiều vấn đề thực tiễn đặt
ra chưa được làm rõ. Đội ngũ cán bộ lý luận đông, nhưng không mạnh, còn ít
chuyên gia lý luận đầu đàn trên các lĩnh vực. Hợp tác quốc tế về lý luận còn
hạn chế, hiệu quả thấp.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức và quản lý các hoạt động lý luận còn
nhiều bất cập. Thiếu gắn bó mật thiết giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết
thực tiễn, giữa cán bộ lý luận và cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, giữa công
7


tác nghiên cứu lý luận và công tác giảng dạy, đào tạo lý luận. Công tác
tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị còn hạn chế về chất
lượng, trùng lắp về nội dung, chương trình, giáo trình; chậm đổi mới về
phương pháp. Đấu tranh tư tưởng, lý luận chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới, đặc biệt là trong điều kiện bùng nổ thông tin và phát
triển mạng thông tin toàn cầu.
Những hạn chế, khuyết điểm nói trên có nguyên nhân khách quan là quá
trình đổi mới, phát triển đất nước nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, chưa
có tiền lệ. Về chủ quan, một số cấp ủy, chính quyền chưa thực sự coi trọng
công tác lý luận, công tác giáo dục lý luận chính trị. Phát huy dân chủ trong

nghiên cứu lý luận chính trị còn có mặt hạn chế, bất cập. Việc đổi mới, nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận còn
hạn chế.
3. Phương châm, nhiệm vụ công tác lý luận và các hướng nghiên cứu
chủ yếu từ nay đến năm 2030
3.1 - Phương châm công tác lý luận
Lý luận phải gắn chặt với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng và
phục vụ yêu cầu phát triển đất nước, bảo đảm hài hòa giữa trước mắt với lâu
dài, giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng.
Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với nêu cao trách
nhiệm chính trị của tổ chức và cá nhân hoạt động lý luận. Kết hợp chặt chẽ
nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn; nâng cao năng lực và chất lượng dự
báo, định hướng nghiên cứu trong từng thời kỳ.
Kiên trì thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của
dân tộc; đồng thời, tiếp thu các thành tựu mới, tinh hoa của nhân loại. Nâng
cao hiệu quả đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch; uốn nắn những
nhận thức lệch lạc.

8


3.2 - Nhiệm vụ
Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, trước mắt, tập trung nghiên cứu xây
dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định, phát triển các chủ
trương, đường lối lớn của Đảng giai đoạn 2016 - 2021; đồng thời, tạo tiền đề
thúc đẩy phát triển công tác lý luận đáp ứng yêu cầu khi Việt Nam cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Từ nay đến năm 2030, tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện
hệ thống các quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nâng cao năng lực khoa học phục vụ phát triển công tác lý luận, bảo đảm
cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc thời kỳ Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.3. Các hướng nghiên cứu chủ yếu
Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với
thực tiễn của Việt Nam; chỉ rõ vấn đề cần bổ sung, phát triển. Tiếp tục nghiên
cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ sự bổ sung, phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lê-nin của Hồ Chí Minh. Tập trung đi sâu nghiên cứu những
giá trị văn hóa truyền thống, những bài học kinh nghiệm lịch sử xây dựng và
bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam.
Tiếp tục đi sâu nghiên cứu về bản chất, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản
hiện đại, làm rõ tính chất, đặc điểm mới của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nghiên cứu tình hình thế
giới và khu vực, cục diện, quan hệ giữa các nước lớn, các nước láng giềng và
tương quan các lực lượng trên thế giới, những biến động về chính trị, kinh tế,
an ninh, quốc phòng trong khu vực và thế giới; an ninh hàng hải trên thế giới
và khu vực, vấn đề Biển Đông từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
các vấn đề về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu dự báo
tình hình.
9


Đối với những trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, tiếp tục mở
rộng và đi sâu nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu
những giá trị tiến bộ. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, chủ
nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội và các tư tưởng thù địch dưới mọi màu sắc.
Nghiên cứu, phát triển và hoàn chỉnh những luận cứ khoa học làm cơ sở
hoạch định đường lối, chính sách của Đảng.

Đi sâu nghiên cứu hệ thống quan điểm về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt
Nam; về các mối quan hệ lớn được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); về
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; về phát triển kinh tế tri thức; về hội nhập quốc tế; về phát
triển kinh tế nhanh và bền vững gắn với bảo vệ môi trường; giải quyết hài hòa
các vấn đề xã hội.
Xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực
để phát triển đất nước, văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị. Giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Phát triển văn hóa để xây dựng con người phát triển toàn diện; thực hiện đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, thực sự coi trọng giáo dục và đào
tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; làm rõ sự biến đổi
cơ cấu, giai tầng xã hội, xây dựng cộng đồng xã hội văn minh, bảo đảm quyền
con người.
Làm rõ mối quan hệ, kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kinh tế với quốc phòng, an ninh và
đối ngoại; xây dựng nền quốc phòng toàn dân với xây dựng nền an ninh nhân
dân; giữa độc lập dân tộc với hội nhập quốc tế; các vấn đề về an ninh truyền
thống, an ninh phi truyền thống. Dự báo những xu thế lớn của khu vực và thế
giới, thời cơ, thuận lợi cũng như thách thức tác động tới công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.

10


Vấn đề hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân; cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ nghiêm kỷ cương xã hội. Vấn đề
dân chủ, phát huy quyền làm chủ của người dân đi đôi với hoàn thiện hệ

thống chính trị, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội trong điều kiện mới; về xã hội dân sự trên thế giới.
Tiếp tục làm rõ nguyên tắc tổ chức và hoạt động, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và xã hội; tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với
Nhân dân; nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng; nâng cao năng lực
cầm quyền của Đảng và phát huy dân chủ xã hội; về phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; về tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, chống suy thoái tư tưởng chính trị trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên.
4. Các biện pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác lý luận từ nay đến
năm 2030
 Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, phát huy dân chủ, khuyến khích tìm
tòi, sáng tạo, mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác lý luận
 Xây dựng không khí dân chủ, cởi mở và có nguyên tắc trong thảo
luận, tranh luận khoa học. Thu hút đội ngũ cán bộ lý luận và các cơ quan
nghiên cứu tham gia vào quá trình hoạch định đường lối, chiến lược, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
 Coi trọng và không ngừng nâng cao trình độ tổng kết thực tiễn, phát
triển lý luận.
 Công tác nghiên cứu lý luận phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn và xuất
phát từ yêu cầu thực tiễn. Xây dựng hệ thống chương trình nghiên cứu có mục
tiêu, yêu cầu, nội dung cụ thể và thiết thực, được bảo đảm các điều kiện vật
chất cần thiết. Quản lý tốt hoạt động nghiên cứu lý luận, chú trọng khâu đánh
giá, nghiệm thu, bảo đảm chất lượng, hiệu quả nghiên cứu.
11


 Mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác lý luận theo hướng đa dạng
hóa các hình thức và nâng cao hiệu quả hợp tác.

 Tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, các chuyên gia đầu ngành;
nâng cao trình độ, năng lực nghiên cứu, nhất là năng lực phân tích, dự báo
 Đổi mới căn bản công tác đào tạo cán bộ lý luận, từ quy hoạch đến
chương trình, nội dung, phương pháp tuyển chọn, tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng và sử dụng cán bộ.
 Có chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng, bảo đảm đời sống vật
chất và tinh thần của các nhà khoa học.
 Đổi mới nội dung, chương trình giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo. Đổi mới hệ thống chương trình, giáo trình, đào tạo, bồi dưỡng
giảng viên. Gắn lý luận với thực tiễn, cập nhật kiến thức mới, khắc phục sự
trùng lắp, khép kín, thiếu liên thông giữa các chương trình, các cấp học, bậc
học. Tăng cường giáo dục, rèn luyện kỹ năng thực hành, khả năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn.
 Đấu tranh tư tưởng, lý luận phải nhằm khẳng định và bảo vệ chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đa dạng hóa
các hình thức đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc; mềm
dẻo, linh hoạt, nhân văn trong phương pháp, công khai, minh bạch, dân chủ,
góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận. Chủ động phê phán, bác
bỏ các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động
chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch.
 Đối thoại thẳng thắn với những người có quan điểm khác trên tinh
thần khoa học, dân chủ, xây dựng, thuyết phục lẫn nhau.
 Phát huy vai trò và trách nhiệm của các phương tiện truyền thông đại
chúng, các diễn đàn khoa học vì sự phát triển ổn định, bền vững của chế độ,
vì nhân dân và đất nước.
12



5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác lý luận
Đảng lãnh đạo công tác lý luận bằng việc xác định quan điểm, phương
hướng nghiên cứu; định hướng việc xây dựng các cơ quan nghiên cứu, phát
triển đội ngũ cán bộ lý luận, xây dựng chính sách khuyến khích tài năng và
lao động sáng tạo; giao thực hiện các chương trình, đề tài nghiên cứu; tạo điều
kiện cần thiết cho hoạt động nghiên cứu lý luận. Tổ chức, thu hút cán bộ khoa
học và các cơ quan khoa học tham gia tích cực vào quá trình hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải quan tâm đặc biệt đến công tác lý
luận, tổng kết thực tiễn. Ban Bí thư chỉ đạo, định hướng về công tác lý luận;
Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ trực tiếp triển khai nhiệm
vụ cụ thể tới các cơ quan, ban, bộ, ngành liên quan. Các cấp ủy đảng, chính
quyền tăng cường giáo dục để nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên
theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Các tỉnh ủy, thành ủy, ban đảng Trung ương và đảng ủy trực thuộc
Trung ương, các đồng chí phụ trách các ngành, các cơ quan lý luận có trách
nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết này.
Giao Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng
Bộ Khoa học và Công nghệ, Đảng ủy Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, Đảng ủy Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ quan liên
quan chỉ đạo, định hướng xây dựng hệ thống chương trình, nhiệm vụ nghiên
cứu lý luận giai đoạn 2016 - 2021 và tiếp theo.
Ban Tuyên giáo Trung ương có trách nhiệm giúp Bộ Chính trị, Ban Bí
thư theo dõi, chỉ đạo và định kỳ báo cáo kết quả triển khai thực hiện Nghị
quyết.
Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị trong thời kì này :
6. Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.
Trước Đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân,
13



nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đại hội X đã bổ sung một số nội dung
quan trọng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc”.
6.1 Về phương thức lãnh đạo
Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công
tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng
lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và
các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị”.
6.2 Về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị
Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng
thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân, hành động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật”.
Đảng ta luôn luôn coi trọng việc đổi mưói phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị. Nghị quyết trung ương 5 khoá X về “Tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính
trị” đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao
tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân
dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước
ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


14


Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng,
tiến hành đồng bộ đối với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng, với
đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích ứng với những đòi
hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
của đất nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng, thục hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện dân chủ rộng
rãi trong Đảng và trong xã hội, đẩy nhanh phân cấp, tăng cường chế độ trách
nhiệm cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm
chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa
tổng kết, vừa rút kinh nghiệm.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa
phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành.
7. Công tác lý luận của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay và trong những năm tới, công tác lý luận của Đảng tập trung
trước hết vào việc tổng kết lý luận và thực tiễn trong gần 30 năm đổi mới,
khẳng định những chân lý khoa học của Học thuyết cách mạng mácxít, giải
đáp những vấn đề đang đặt ra và làm luận cứ quan trọng đặc biệt cho việc
hoạch định đường lối đổi mới của Đảng những năm tiếp theo. Đảng ta xác

định nhiệm vụ của công tác lý luận là: “Làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng
cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát
15


triển lý luận, để ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý
luận.”
Để góp phần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận nói chung và lý luận
xây dựng Đảng, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số giải pháp
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, cần tạo được sự thống nhất nhận thức và quyết tâm cao trong
chỉ đạo của các cấp uỷ đảng về nghiên cứu lý luận giai đoạn hiện nay. Chúng
ta đều biết, tư tưởng, lý luận là “một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ hoạt động của Đảng…thể hiện vai trò đi trước, mở đường cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Do đó, muốn đất nước phát triển
toàn diện, bền vững thì Đảng phải tiếp tục đổi mới, bổ sung hoàn thiện hệ
thống lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Một trong những vấn đề cấp bách mà Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI
nêu ra là sự suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên về tư
tưởng, chính trị. Sự suy thoái đó do nhiều nguyên nhân, nhưng có nguyên
nhân là những yếu kém của lý luận dẫn tới sự thiếu nhất quán về quan điểm,
nhận thức khi những vấn đề thực tiễn đặt ra đối với con đường cách mạng
chưa được làm sáng tỏ, những giải pháp cụ thể cho đường lối, chủ trương phát
triển kinh tế - xã hội chưa đủ sức thuyết phục đối với họ. Đó cũng là nhân tố
tạo nên nguy cơ cực kỳ nguy hiểm cho sự nghiệp cách mạng - quá trình “tự
diễn biến”, ‘tự chuyển hoá” hiện nay.
Vì vậy, trong toàn Đảng phải có sự thống nhất cao về vai trò của công
tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, không thể coi đó là việc riêng của

các cơ quan Trung ương Đảng và của các nhà khoa học. Các cấp uỷ đảng phải
tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn bằng kế hoạch, chương trình công tác và phân công tổ chức, cá nhân thực
hiện, tránh hiện tượng “khoán trắng” cho cơ quan tham mưu về công tác tư
tưởng.
16


Việc tổng kết thực tiễn phải là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, phát
huy sức mạnh trí tuệ của cả xã hội. Trong điều kiện Đảng cầm quyền thì sự
phát triển của quốc gia dân tộc và sinh mệnh chính trị của đất nước trao cho
Đảng và phụ thuộc một cách quyết định ở đường lối chính trị đúng đắn của
Đảng. Mọi quyết sách của Đảng phải thể hiện được ý nguyện của nhân dân,
và do đó phải có sự tham góp tích cực và có trách nhiệm của toàn dân. Khi đã
nhận thức đúng vai trò của công tác lý luận thì việc xây dựng và thực hiện kế
hoạch, đầu tư thoả đáng về công sức, trí tuệ, vật chất cho công tác nghiên cứu
lý luận, tổng kết thực tiễn mới được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, tránh
được cách làm hình thức, đối phó của không ít tổ chức đảng trong những năm
qua. Phải thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của lý luận và phát triển lý luận một cách thường xuyên - nếu
không muốn nó trở nên lạc hậu với thực tiễn.
Thứ hai, tạo môi trường dân chủ trong thảo luận, tranh luận khoa học,
khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo của tập thể, cá nhân trong nghiên cứu lý luận
chính trị.
Bản thân lý luận rất cần sự sáng tạo, ý chí và năng lực tìm kiếm những
cái mới, tiến bộ, phù hợp, hiệu quả của những đề xuất cho việc hoàn thiện,
phát triển đường lối của Đảng cầm quyền. Có những lúc, do chưa thực sự phát
huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận đã dẫn đến sự lạc hậu về mặt lý luận.
Hướng nghiên cứu truyền thống, kinh viện, giáo điều kéo dài, không thể tạo
được bước đột phá lớn về mặt lý luận. Vì là cái mới, cái sáng tạo nên chắc

chắn sẽ có thể và phải khác với cái hiện tại nên đôi khi dễ bị quy chụp là “mất
lập trường”, là “chệch hướng”, là “viển vông”. Bài học lớn đã được thực tế
đúc kết là trong khi chưa đủ điều kiện cơ sở khoa học thực tiễn, cũng phải rất
thận trọng khi kết luận những vấn đề nghiên cứu lý luận cụ thể, tránh quy
chụp, vì như vậy, sẽ bóp nghẹt sự sáng tạo trong nghiên cứu khoa học.
Vẫn biết công tác lý luận của Đảng là lý luận chính trị, dựa trên nền tảng
lý luận của Học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với mục tiêu cao
17


nhất là giải phóng con người nhưng phải thường xuyên phát triển học thuyết
trong điều kiện mới. Phát triển lý luận là cách tốt nhất để bảo vệ Học thuyết
Mác-Lênin và bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Cộng sản cũng luôn
quan tâm hoàn thiện học thuyết của mình.
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng
những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương thời”. “Lịch
sử đã chứng minh rằng chúng tôi và tất cả những ai nghĩ giống như chúng tôi
đều sai lầm. Lịch sử đã ghi rõ rằng trạng thái phát triển kinh tế trên lục địa lúc
bấy giờ còn rất lâu mới chín muồi để xoá bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa”
VI.Lênin dù nhấn mạnh tính “chính xác” và “hoàn bị” của chủ nghĩa
Mác, nhưng vẫn nhắc nhở: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là
một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý
luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ
nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành
lạc hậu với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở
Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác”
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1924 trong Báo cáo về Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và Nam Kỳ đã viết: “Dù sao cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở
lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác

ở thời kỳ mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên
một triết lý nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà
châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Xem xét lại chủ nghĩa Mác
về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính
là nhiệm vụ mà các Xôviết đảm nhiệm”.
Ranh giới về sự trung thành, sáng tạo, bước đột phá, tiến bộ với chủ
nghĩa hình thức, tư duy thụt lùi, lạc hậu trong nhiều trường hợp là rất mong
manh nếu không có một “sân chơi” và “luật chơi” trong nghiên cứu lý luận.
Chính vì vậy, phải sớm ban hành Quy chế dân chủ trong hoạt động lý luận 18


vấn đề đã đặt ra hơn 20 năm qua từ Nghị quyết số 01-NQ/TW ngày 28-31992 của Bộ Chính trị "Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện naynhưng
vẫn chưa trở thành hiện thực.
Thứ ba, phải đổi mới nội dung, phương thức tổng kết thực tiễn. Những
vấn đề lý luận chính trị đều cực kỳ nhạy cảm, phải làm từng bước, vững chắc,
phải tạo được sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị và nhân dân. Do vậy,
phải tiến hành thực hiện thí điểm để tổng kết thực tiễn rồi mới có thể nhân
diện rộng. Đó là yêu cầu rất cao của công tác tổng kết, sự đòi hỏi khắt khe của
những kết luận qua thực tiễn để khái quát thành lý luận. Phải hết sức tránh hai
thái cực: nghiên cứu lý luận thông qua sách kinh điển, sao chép các văn kiện,
đề tài đã có là chính, áp dụng nguyên xi kinh nghiệm của nước ngoài trong
những điều kiện khác nhau và thái cực khác là thoát ly những vấn đề lý luận,
phủ nhận những kết quả nghiên cứu lý luận của các nhà kinh điển cũng như
những kinh nghiệm truyền thống đã đúc kết.
Đổi mới nội dung, phương thức tổng kết thực tiễn theo hướng đa dạng
hoá các tổ chức, cá nhân chủ trì, tham gia, phản biện các luận điểm phân tích,
đánh giá từ thực tiễn trên cơ sở tôn trọng sự thật, khách quan, vô tư, công
bằng, không sợ và không giấu diếm khuyết điểm. Đánh giá, kết luận một vấn
đề có thể có các trường phái khác nhau, lập luận, cọ sát, thuyết phục các nhà
chính trị bằng các con đường khác nhau để được so sánh, lựa chọn. Trong bối

cảnh con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta còn rất mới, chưa có tiền
lệ, thì cốt lõi nhất là phải bám sát thực tiễn, phát hiện từ trong thực tiễn những
nhân tố mới để từ đó mạnh dạn khái quát thành lý luận. Trên thực tế, việc đề
xuất thí điểm và theo dõi tổng kết thường chỉ là một chủ thể nên khó tránh
khỏi ý chí chủ quan, khi đánh giá thường nhấn mạnh thành công, bỏ qua
những khiếm khuyết. Các nhà khoa học có tham gia phản biện thì cũng ít
được có điều kiện theo dõi giám sát ngay từ đầu nên góp ý ưu khuyết điểm
chung chung. Trong những trường hợp như vậy, khi triển khai rộng sẽ gặp
không ít khó khăn, tốn kém, đối tượng thụ hưởng chính sách không đồng
thuận, thậm chí có chính sách bị phá sản.
19


Thứ tư, xây dựng, củng cố tổ chức, tập hợp đội ngũ cán bộ làm công tác
lý luận, có cơ chế, chính sách đầu tư cho nghiên cứu lý luận.
Tập trung xác định, xây dựng, củng cố tổ chức nghiên cứu khoa học lý
luận ổn định, có quy hoạch, lộ trình phát triển theo hướng chuyên nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Đội ngũ làm công tác lý luận hiện nay thiếu về số lượng, đặc
biệt thiếu những chuyên gia đầu đàn có khả năng tổng kết và phát hiện những
vấn đề về mặt lý luận. Cần coi trọng công tác đào tạo cán bộ lý luận, nhất là
đối với cán bộ trẻ có triển vọng ở các trường, trung tâm nghiên cứu trong và
ngoài nước. Đồng thời cần tiếp tục và quyết liệt triển khai chính sách biệt
phái, luân chuyển, chính sách cho nhà khoa học đầu đàn trong việc truyền
nghề, cơ chế đãi ngộ, tôn vinh và các điều kiện vật chất trang bị cho các cơ sở
nghiên cứu... Do vậy, cần sớm xây dựng đồng bộ một hệ thống các chính sách
theo hướng thu hút được những người có kiến thức, kinh nghiệm trong hoạt
động thực tiễn - những chuyên gia đầu đàn trên từng lĩnh vực để họ toàn tâm,
toàn ý, gắn bó trọn đời cho khoa học. Đặc thù của khoa học xã hội, khoa học
chính trị, những sản phẩm khoa học xây dựng Đảng không dễ đánh giá, đo
đếm được. Những phát minh, kiến nghị khoa học có giá trị cũng khó xác định

của ai, khó xác định giá trị cao hay thấp, kể cả việc xác định chủ thể định giá
những sản phẩm lý luận ấy. Vì vậy, các chính sách về bản quyền tác giả, quy
trình, thủ tục công bố các công trình nghiên cứu có giá trị được tiếp thu, vận
dụng nhằm đãi ngộ thoả đáng, công khai, vinh danh kịp thời đối với các nhà
khoa học, thúc đẩy tính cạnh tranh, chống cào bằng; chấm dứt tình trạng sao
chép, vô tác dụng của không ít công trình khoa học hiện nay.
Cần có những giải pháp đủ mạnh nhằm sớm khắc phục tình trạng hiện
nay là kinh phí đầu tư cho nghiên cứu lý luận đang chiếm một tỷ lệ rất thấp,
đầu tư manh mún và cơ chế quản lý lạc hậu, bất cập, thiếu tính khả thi dẫn
đến kém hiệu lực, hiệu quả, lãng phí lớn, gây bức xúc không chỉ cho xã hội và
ngay cả đối với những nhà khoa học chân chính

20


KẾT LUẬN
Tình hình mới đòi hỏi chúng ta vừa phải kiên định đường lối đổi mới,
chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ, hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên
tắc, vừa phải tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển đường lối xây dựng chủ nghĩa
xã hội; đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; đường lối xây dựng Ðảng; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Công tác lý luận phải hướng vào những vấn đề cuộc sống đặt ra, phục vụ
công cuộc đổi mới. Đối với vấn đề đảng cầm quyền, phải dự báo các xu
hướng phát triển, góp phần bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng, làm cho
ngày càng sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đặc biệt, trong giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, hội
nhập quốc tế, yêu cầu của công tác lý luận, nghiên cứu lý luận là tiếp tục bổ
sung, hoàn thiện hệ thống lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học, những
dự báo có cơ sở cho quá trình phát triển đất nước, trong đó có nghiên cứu lý

luận về văn hóa, về hệ giá trị văn hóa và định hướng phát triển văn hóa
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; khả năng tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại trên nền tảng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, cập
nhật nghiên cứu những vấn đề về con người, về tư tưởng, đạo đức, lối sống,
vấn đề phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, phát huy nguồn
lực con người trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế; Chú trọng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, phát hiện những nét
đặc sắc trong phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh - nhà mácxít sáng
tạo, vận dụng một cách linh hoạt lý luận Mác - Lênin vào hoàn cảnh lịch sử
cụ thể của Việt Nam.
Giải quyết vấn đề thực tiễn không chỉ giới hạn ở phạm vi trong nước mà
cần nghiên cứu, phát hiện sự vận động, phát triển của thế giới, qua đó đúc rút
thành lý thuyết ở tầm khái quát, bổ sung và làm giàu hệ thống lý luận. Bản
thân lý luận rất cần sự sáng tạo, ý chí và năng lực tìm kiếm những cái mới,
21


tiến bộ, phù hợp, hiệu quả từ những đề xuất cho việc hoàn thiện, phát triển
đường lối của Đảng cầm quyền.
Với nhận thức đó, những vấn đề lý luận về xây dựng Đảng hiện nay
đang rất cần phải gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn
và lý luận đó chỉ có thể tồn tại và phát triển một khi nó đáp ứng được yêu cầu
của cuộc sống thực tiễn.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.255-256.

(2) CácMác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2002,
t.4, tr.627-628
(3) Các Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,1995,
t.22, tr.761.
(4) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.232.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2002, t.1, tr.465.

23


MỤC LỤC

24



×