Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

Lợi Ích Của Công Nhân Trong Doanh Nghiệp Có Vốn Đấu Tư Nước Ngoài Ở Việt Nam Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 183 trang )

Header Page 1 of 126.

bộ quốc phòng

Học viện chính trị


Lê xuân thủy

LợI íCH CủA CÔNG NHÂN TRONG DOANH NGHIệP
Có VốN ĐầU TƯ NƯớC NGOàI ở VIệT NAM hiện nay

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 62 22 03 08

Luận áN TIếN sĩ triết học

NGI HNG DN KHOA HC
1. GS,TS Hong Chớ Bo
2. PGS, TS Nguyễn Đức Tiến

Hà Nội - 2013

Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận án


là trung thực có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Kết quả
nghiên cứu của luận án không trùng với bất kỳ công
trình nghiên cứu nào đã được công bố.

t¸c gi¶ luËn ¸n

Lê Xuân Thủy

Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

Danh mục các chữ viết tắt

STT

Footer Page 3 of 126.

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

2


Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

3

ầu t- n-ớc ngoài

ĐTNN

4

Giai cấp công nhân

GCCN

5

Kinh t th trng

KTTT

6

Nhà xuất bản

Nxb

7


Xã hội chủ nghĩa

XHCN


Header Page 4 of 126.

Mục lục
Trang

TRANG PH BèA
LI CAM OAN
MC LC
DANH MC CC CH VIT TT
M U
TNG QUAN V VN NGHIấN CU
Ch-ơng 1 những vấn đề lý luận về lợi ích của công
nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu tn-ớc ngoài ở việt nam hiện nay

1.1. Lợi ích v lợi ích ca cụng nhõn Vit Nam hin nay
1.2. Thực chất li ớch ca cụng nhõn trong doanh nghip cú
vn u t nc ngoi Vit Nam hin nay
Ch-ơng 2 THC TRNG LI CH CA CễNG NHN TRONG
DOANH NGHIP Cể VN U T NC NGOI
VIT NAM V NHNG VN T RA HIN NAY

2.1. Thc trng li ớch ca cụng nhõn trong doanh nghip cú
vn u t nc ngoi Vit Nam
2.2. Những vn t ra v li ớch và bảo đảm lợi ích ca cụng

nhõn trong doanh nghip cú vn u t nc ngoi Vit
Nam hin nay
Ch-ơng 3 NH HNG V GII PHP NHM BO M LI
CH CA CễNG NHN TRONG DOANH NGHIP Cể
VN U T NC NGOI VIT NAM HIN NAY

3.1. ịnh h-ớng c bn nhằm bảo đảm lợi ích của công nhân
trong doanh nghiệp có vốn đầu t- n-ớc ngoài ở Việt Nam
hiện nay
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm lợi ích của công
nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu t- n-ớc ngoài ở
Việt Nam hiện nay
Kết luận
DANH MC CC CễNG TRèNH CA TC GI CễNG B
Cể LIấN QUAN N TI LUN N
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

Footer Page 4 of 126.

1
2
3
4
5
9

24
24
42

74
74

98
108

108

120
156
159
160
170


Header Page 5 of 126.

5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Đề tài: Lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam hiện nay là công trình khoa học bàn đến một vấn đề bức xúc,
phức tạp, nhạy cảm mà toàn xã hội ta đang rất quan tâm hiện nay. Đó là vấn đề lợi
ích của công nhân lao động ở các loại hình doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
trong nền KTTT định hướng XHCN. Dưới góc độ triết học - chính trị - xã hội,
đề tài đã có những đóng góp mới cả phương diện lý luận, thực tiễn về lợi ích
của công nhân ở doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong mối quan hệ với lợi ích của
các chủ thể khác ở doanh nghiệp, thống nhất với lợi ích GCCN Việt Nam. Trên
cơ sở đó, đề tài đề xuất những định hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu
nhằm bảo đảm lợi ích vật chất, tinh thần, lợi ích thiết thân, trước mắt và lợi ích

cơ bản lâu dài của công nhân hài hòa với lợi ích của giới chủ, lợi ích của Nhà
nước và toàn xã hội ta hiện nay.
Kết cấu của luận án gồm phần mở đầu, 3 chương, 6 tiết, kết luận, danh
mục các công trình khoa học đã công bố của tác giả có liên quan đến đề tài,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Trong mọi thời đại lịch sử, lợi ích luôn đóng vai trò là động lực phát
triển của con người và xã hội. Lợi ích gắn liền với hoạt động của con người,
là động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân, cộng
đồng, giai cấp, dân tộc. Đồng thời, lợi ích là chất keo gắn kết giữa các thành
viên, bảo đảm sự đồng thuận của xã hội. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang
vận động theo hướng phát triển nền KTTT đẩy mạnh CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế, thì việc tạo ra động lực cho người lao động nói chung, công
nhân nói riêng là vấn đề mang tính sống còn của chế độ, phát triển kinh tế
gắn với giải quyết các vấn đề xã hội; phấn đấu cho mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.

6
Công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN là một bộ phận của
GCCN Việt Nam, là lực lượng lao động rất quan trọng góp phần sản xuất ra của
cải vật chất làm giàu cho đất nước và giải quyết những vấn đề xã hội. Đây là đội
ngũ công nhân có tính đặc thù về địa vị kinh tế, xã hội. Về mặt kinh tế, họ là
những lao động làm thuê cho những chủ ĐTNN; nhưng về xã hội, họ là những
người làm chủ đất nước, cùng với GCCN Việt Nam đi tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng CNXH. Chính vì vậy, lợi ích và quá trình thực hiện lợi ích của

công nhân trong loại hình doanh nghiệp này nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, cần
phải được chú ý, quan tâm giải quyết kịp thời, thỏa đáng.
Trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm đến lợi ích
của người lao động, lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN
thông qua chủ trương và hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật. Việc làm, thu
nhập và đời sống vật chất, tinh thần của công nhân đã được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, lợi ích của công nhân được hưởng trong doanh nghiệp này chưa
tương xứng với sự phát triển đất nước và những đóng góp của bản thân họ.
Trong nghị quyết Trung ương 6 khoá X, Đảng ta nhận định: “Lợi ích một bộ
phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công
cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất
và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ
phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” [34, tr.46]. Một số nội dung của chính sách,
pháp luật liên quan đến việc bảo đảm lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp
có vốn ĐTNN còn bất cập và chưa được thực hiện đầy đủ. Sự kết giữa lợi ích
của công nhân với lợi ích của giới chủ, lợi ích của Nhà nước và toàn xã hội
chưa hài hòa, thỏa đáng. Nhiều cuộc đình công của công nhân trong những
năm qua phần lớn nổ ra ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và có nguồn gốc
mâu thuẫn về quan hệ lợi ích. Vì thế, bảo đảm lợi ích của công nhân trong
doanh nghiệp có vốn ĐTNN không chỉ là quan tâm đáp ứng những nhu cầu

Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.

7
bức xúc, thiết thân của người công nhân mà còn nâng cao địa vị chính trị, xã
hội của họ với tư cách là người làm chủ đất nước trong điều kiện lao động có

yếu tố nước ngoài.
Hiện nay, trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước, với những chính sách thu hút đầu tư của Đảng, Nhà nước ta, các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN ngày càng phát triển cả về số lượng và quy mô. Vấn đề lợi
ích, quan hệ lợi ích giữa công nhân với người sử dụng lao động và chủ thể khác
trong xã hội sẽ tiếp tục nảy sinh những mâu thuẫn cục bộ phức tạp. Nếu không
được quan tâm và giải quyết hài hòa, thỏa đáng thì chẳng những lợi ích thiết thân
của người công nhân không được bảo đảm mà lợi ích chính đáng của nhà đầu tư
không được thực hiện, lợi ích của GCCN Việt Nam, lợi ích quốc gia dân tộc sẽ
bị tổn hại. Vì vậy, nhận thức, làm sáng tỏ và giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích
của công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Việt Nam có ý nghĩa rất
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, có tính thời sự bức xúc hiện nay. Từ những
điều nói trên, tác giả chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu và viết công trình
luận án tiến sĩ.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về lợi ích của công
nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Việt Nam; luận án đề xuất định
hướng và một số giải pháp nhằm bảo đảm lợi ích của công nhân trong doanh
nghiệp này, trong điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài: lợi ích của công nhân trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu lợi ích của công nhân Việt
Nam trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Việt Nam, chủ yếu ở các doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp, qua khảo sát một số khu công nghiệp trọng điểm

Footer Page 7 of 126.



Header Page 8 of 126.

8
trên địa bàn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác; các
số liệu từ năm 2005 đến nay.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Đóng góp mới của luận án:
- Luận án làm rõ thực chất lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có
vốn ĐTNN, trong điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN, đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn
ĐTNN ở Việt Nam theo hệ thống và phát hiện một số vấn đề cần phải giải
quyết hiện nay.
- Đề xuất định hướng và một số nhóm giải pháp nhằm bảo đảm lợi ích
của công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Việt Nam hài hòa với lợi
ích của giới chủ, lợi ích của Nhà nước và xã hội ta hiện nay.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án:
- Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn góp
phần vào quá trình hoàn thiện và thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước về
giải quyết vấn đề lợi ích đối với công nhân ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
nói riêng, GCCN Việt Nam nói chung trong điều kiện kinh tế - xã hội ở nước
ta hiện nay.
- Góp phần vào việc nâng cao nhận thức về lợi ích, lợi ích của công
nhân, tính đặc thù của lợi ích trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN; vai trò của
lợi ích và giải quyết đúng đắn vần đề lợi ích trong quá trình xây dựng, phát
triển GCCN Việt Nam giai đoạn mới.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy các nội dung liên quan thuộc khoa học xã hội nhân văn trong các học
viện, nhà trường ở nước ta hiện nay.


Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.

9
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước đây và hiện nay đã có nhiều tác giả nước ngoài, trong nước quan tâm
nghiên cứu về vấn đề lợi ích, về GCCN Việt Nam, về quyền và lợi ích của công
nhân, được thể hiện ở các nhóm công trình tiêu biểu sau:
1.1. Một số công trình nước ngoài liên quan đến vấn đề lợi ích và lợi ích
của giai cấp công nhân
Vào những năm 70 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, ở Liên Xô
(cũ) đã công bố hàng loạt các công trình quan trọng xung quanh vấn đề lợi ích.
Các công trình đã đưa ra quan niệm về lợi ích và đặt nó trong mối quan hệ với
nhu cầu của chủ thể, với những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan, được
biểu hiện ra tư tưởng của con người, phản ánh bản chất giai cấp, xã hội. Một
số quan niệm bàn đến vai trò của lợi ích, đưa ra cách phân loại lợi ích, bước
đầu thể hiện tính phong phú, đa dạng của lợi ích.
Trong cuốn sách “Những vấn đề lợi ích xã hội trong chủ nghĩa Lênin” của
V.N.Láprinenkô [111] đã chỉ ra rằng: chủ nghĩa Mác hiểu lợi ích như là nhu cầu
khách quan được định chế bởi vị trí trong xã hội của một cá nhân, một nhóm xã
hội, một dân tộc nào đó. Lợi ích là mối quan hệ lựa chọn đã được nhận thức của
nhu cầu, là hình ảnh chủ quan của các quan hệ kinh tế khách quan. Đồng thời,
tác giả cũng vạch ra tính giai cấp và tính lịch sử cụ thể sự tồn tại của nó, “lợi ích là
mối quan hệ xã hội khách quan của sự tự khẳng định xã hội của chủ thể” [111,
tr.30]. Theo tác giả, cả C. Mác và V. I. Lênin đều xem xét lợi ích như là một hiện
tượng của bản thân hiện thực, là sự biểu hiện của các quan hệ kinh tế khách

quan. Tính khách quan của lợi ích không phải là sự nhận thức của chủ thể, mà nó
xuất hiện ở bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức của họ và vì thế, nó thể
hiện đặc thù của những mối quan hệ xã hội khách quan. Trong tác phẩm:
“Về mối quan hệ giữa phạm trù “lợi ích” và phạm trù “nhu cầu” của
Z.M.Sôraép [116] đã nhấn mạnh vấn đề trên và chỉ rõ mối quan hệ giữa lợi

Footer Page 9 of 126.


Header Page 10 of 126.

10
ích với tư tưởng. Tính khách quan là bản chất siêu cá nhân của lợi ích được
xác định hoàn toàn không chỉ bởi nhân tố thời gian xuất hiện ý thức của con
người. Lợi ích tồn tại trong hiện thực không phụ thuộc vào ý thức, nhưng nó
tạo nên động lực bởi được phản ánh trong tư tưởng và được tiếp nhận dưới
hình thức nhân tố động cơ. Một số công trình khác như: “Biện chứng của
khách quan và cái chủ quan” của E.V.Ôxichniuk [43];“Nhu cầu - lợi ích giá trị” của A.G.Zđravômưxlốp [1]… cũng bàn về khái niệm, tính chất, cơ
cấu của lợi ích, chỉ ra nguyên tắc phân loại lợi ích.
Có thể nói, những đóng góp về lý luận lợi ích trên đây là cơ sở quan
trọng cho các nhà khoa học thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng kế thừa
và tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Cuốn sách: “Vị trí và vai trò của giai cấp công nhân đương đại”, của
nhóm tác giả: Liễu Khả Bạch - Vương Mai - Diêm Xuân Chi [70], do
Nguyễn Ngọc Lâm dịch là thành quả của công trình “Nghiên cứu vị trí và
vai trò giai cấp công nhân Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay” của Quỹ
Khoa học xã hội Nhà nước Trung Quốc. Dựa vào học thuyết “Công nhân
tổng thể” của các nhà kinh điển mác xít và thực tiễn sự biến đổi về cơ cấu
giai cấp - xã hội Trung Quốc, nhóm tác giả đưa ra khái niệm mới về GCCN
đương đại Trung Quốc với nghĩa rất rộng, “… nó bao gồm tất cả những

người lao động có thu nhập từ tiền lương là chính” [70, tr.31]. Giai cấp công
nhân Trung Quốc là giai cấp lãnh đạo, lực lượng sản xuất tiên tiến, lực
lượng trung kiên trong xây dựng xã hội sung túc, hài hòa. Phải “Toàn tâm
toàn ý dựa vào giai cấp công nhân là chìa khóa, khâu then chốt của cải cách
thành công” [70, tr.497]. Để phát huy vai trò của công nhân và GCCN, cần phải
quan tâm và giải quyết vấn đề quyền và lợi ích của họ. Quá trình lao động, công
nhân được tham gia chia sẻ lợi nhuận với cơ chế khích lệ quyền đối với tài sản.
Họ cần phải “làm giàu” bằng cách tham gia phân phối lợi nhuận; nếu chỉ dựa
vào tiền lương công nhân không thể giàu lên được, không khai thác được tiềm

Footer Page 10 of 126.


Header Page 11 of 126.

11
năng, phát huy động lực của họ đối với sự nghiệp cải cách, mở cửa Trung
Quốc. Vì thế, phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân như:
quyền bình đẳng việc làm, lựa chọn nghề nghiệp; quyền nhận thù lao, quyền
được bảo đảm các điều kiện về an toàn vệ sinh lao động, được hưởng bảo
hiểm và phúc lợi xã hội… Công đoàn phải thực sự trở thành người bảo vệ lợi
ích tập thể của người lao động và “kiên trì màu sắc Trung Quốc” là sự lựa chọn
con đường phát triển của mình. Bảo đảm quyền và lợi ích của GCCN và công
nhân là nguyên tắc hàng đầu, “chìa khóa” thành công của sự nghiệp cải cách, mở
cửa Trung Quốc.
Cuốn sách là tư liệu tham khảo rất quý đối với những nhà khoa học, nhà
nghiên cứu lý luận về GCCN trong thời đại hiện nay; đồng thời, là những kinh
nghiệm quý giá để chúng ta tham khảo, vận dụng trong việc xây dựng và thực
hiện chiến lược về GCCN Việt Nam thời kỳ mới.
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu ở Việt Nam liên quan đến vấn

đề lợi ích, lợi ích của người lao động
Từ góc độ triết học - chính trị - xã hội, các công trình đã có sự phát triển
các quan niệm về lợi ích, quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, giữa lợi ích cá nhân với
lợi ích tập thể và lợi ích xã hội; chỉ rõ vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã
hội. Trên cơ sở đánh giá thực trạng lợi ích, các công trình đã đưa ra một số nguyên
tắc, giải pháp nhằm điều chỉnh các quan hệ lợi ích, tích cực hóa nhân tố con người
vì sự phát triển xã hội bền vững, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cuốn sách: “Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”,
[101] Giáo sư Lê Hữu Tầng đã khẳng định: động lực của sự phát triển kinh
tế - xã hội chính là nhu cầu và lợi ích của con người. Nhu cầu sau khi nảy
sinh trở thành động lực hết sức quan trọng thúc đẩy con người hành động
nhằm tìm phương tiện thỏa mãn nhu cầu và cái thỏa mãn nhu cầu ấy, đối với
chủ thể hành động, là lợi ích. Lợi ích không phải là động lực cuối cùng,
nhưng là động lực mạnh mẽ nhất của sự phát triển xã hội, là khâu trung gian

Footer Page 11 of 126.


Header Page 12 of 126.

12
chuyển những cái bên ngoài thành động cơ bên trong thúc đẩy con người
hành động, trong đó lợi ích cá nhân bao giờ cũng là động lực trực tiếp và
mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên, thực hiện lợi ích cá nhân phải phù hợp với lợi ích
tập thể, lợi ích xã hội và cao hơn nữa là lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích quốc
tế. Một số lợi ích chính trị - tinh thần được coi là quan trọng nhất như: công
bằng xã hội, dân chủ, môi trường tâm lý xã hội, niềm tin, khoa học và văn
hóa với tính cách là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Những luận điểm có giá trị được đề cập trong cuốn sách không chỉ góp
phần phát triển lý luận về lợi ích, mà còn góp phần xây dựng luận cứ cho việc

hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng đối với công cuộc đổi mới, xây
dựng CNXH ở nước ta.
Trong cuốn sách: “Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích”, [57] phó
giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Linh Khiếu đã bàn về quan hệ giữa các loại lợi ích
và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội. Tác giả cho rằng: bản chất của
lợi ích là phản ánh quan hệ xã hội khách quan, các quan hệ xã hội là cơ sở
của lợi ích. Lợi ích gắn với hoạt động của con người với những nhu cầu khác
nhau và tương ứng với những nhu cầu ấy thì xuất hiện từng loại lợi ích như:
lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích riêng, lợi ích chung… Các loại lợi
ích đó luôn quan hệ biện chứng với nhau, song vai trò của nó không ngang
bằng nhau. Nhận thức đúng đắn về lợi ích và quan hệ lợi ích là cơ sở để giải
quyết vấn đề lợi ích của người lao động. Lợi ích của người lao động được
thể hiện rõ nhất trong khâu phân phối sản phẩm lao động, mà cái gốc của nó
là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất. Do đó, cơ sở để giải quyết vấn đề lợi ích
của người lao động là phải đa dạng hóa các hình thức sở hữu; đồng thời,
từng bước xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách bảo đảm công bằng
trong phân phối lợi ích. Cuốn sách góp phần làm rõ thêm quan điểm, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền KTTT định hướng xã hội
chủ nghĩa thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Footer Page 12 of 126.


Header Page 13 of 126.

13
Trong bài viết: “Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, [42] Phó giáo sư, tiến sĩ
Phạm Văn Đức cho rằng: lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội là hai yếu tố không
phải là hoàn toàn đối nghịch nhau; càng không phải chỉ có khuyến khích lợi ích

cá nhân mới có thể tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân phát triển toàn diện trên
mọi phương diện. Để cho lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội, cần phải có
sự điều tiết hành vi hoạt động của từng người và đạo đức xã hội là một trong
những phương thức như vậy. Lợi ích cá nhân có vai trò tích cực đối với sự hình
thành các quan hệ đạo đức, cũng như làm thay đổi một số quan niệm về chuẩn
mực đạo đức. Nhưng chỉ chú trọng theo đuổi lợi ích cá nhân thì sẽ tác động tiêu
cực đến đạo đức truyền thống, bất chấp luân thường đạo lý, chạy theo lối sống xa
hoa, trụy lạc, xuất hiện đạo đức giả… Trong bài viết: “Phân phối lợi ích kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, [98] tiến sĩ Vũ
Thanh Sơn đã chỉ rõ: trong hệ thống lợi ích, thì lợi ích kinh tế là lợi ích tiên
quyết và chi phối các lợi ích khác còn lại trong xã hội. Việc bảo đảm và thực
hành lợi ích kinh tế là động lực kích thích hoạt động của con người mạnh mẽ
nhất, chúng “lay động đời sống của nhân dân”. Để khắc phục những bất cập
trong phân phối lợi ích kinh tế ở nước ta hiện nay, cần hoàn thiện các công cụ
điều tiết quan hệ lợi ích tương thích với cơ chế thị trường.
Lợi ích kinh tế của người lao động trước hết là vấn đề tiền lương, song
việc phân phối tiền lương sao cho công bằng, hợp lý là bài toán không hề đơn
giản của các nhà quản lý. Trong bài viết: “Về bảo đảm công bằng xã hội trong
phân phối tiền lương khu vực doanh nghiệp”, [24] tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng
khẳng định: việc phân phối tiền lương trong khu vực doanh nghiệp nước ta
chưa phản ánh đúng thực chất quan hệ phân phối công bằng trong KTTT,
thiên về ưu đãi lao động quản lý, chưa có sự thống nhất và tạo sân chơi bình
đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp theo hình thức sở hữu và thành phần
kinh tế. Do vậy, cần phải hoàn thiện thể chế, xác định lộ trình thống nhất tiền
lương tối thiểu trong các loại hình doanh nghiệp, cùng với những cơ chế thỏa

Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.


14
thuận, chính sách điều tiết thu nhập, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của
Nhà nước về thực hiện chính sách tiền lương của doanh nghiệp.
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt
Nam, có nội dung liên quan đến lợi ích của công nhân, quan hệ giữa lợi
ích của công nhân với lợi ích các chủ thể khác
Từ góc độ chính trị - xã hội, các công trình đã phân tích, làm rõ
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về GCCN,
GCCN Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, phát triển nền KTTT định
hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Những nội
dung liên quan đến lợi ích của công nhân, quan hệ giữa lợi ích của công
nhân với lợi ích các chủ thể khác đã đề cập ở từng công trình với những
mức độ khác nhau.
Đề tài: “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020”,
[6] do tiến sĩ Đặng Ngọc Tùng làm chủ nhiệm, là công trình khoa học cấp Nhà
nước bàn về những vấn đề lý luận, thực tiễn về GCCN Việt Nam. Trong đó,
những nội dung liên quan đến lợi ích của công nhân được đề tài đề cập đến
như: bảo đảm việc làm, tiền lương, thu nhập, nhà ở, điều kiện làm việc, các chế
độ bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội, địa vị chính trị, xã hội và giá trị văn hóa,
tinh thần của công nhân không chỉ là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề chính trị
- xã hội trong quá trình đổi mới ở nước ta. Giải quyết mối quan hệ giữa mục
tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị, xã hội… là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và GCCN.
Trong cuốn sách: “Về xu hướng công nhân hóa ở nước ta hiện nay”, [87]
phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn An Ninh đã phân tích xu hướng công nhân hóa trong
quá trình đổi mới như là một quy luật của sự phát triển. Tác giả đã phân tích khá
chi tiết cả “lượng hóa” và “định tính” về đời sống của công nhân, chỉ ra những
nghịch lý, sự tác động của nó đã làm cho hệ giá trị của GCCN có sự biến đổi
theo hai chiều thuận - nghịch, kể cả bản thân chủ thể hệ giá trị này cũng đang có


Footer Page 14 of 126.


Header Page 15 of 126.

15
sự biến đổi. Để giải quyết vấn đề đó, cần phải tổ chức giáo dục, định hướng cho
công nhân trong cuộc đấu tranh vì lợi ích trước mắt cũng như lợi ích cơ bản lâu
dài, làm cho nghề công nhân thực sự là một nghề không chỉ đáng trân trọng vì lý
tưởng, lối sống, mà còn trở thành nguyện vọng của nhiều thế hệ lao động. Trong
cuốn sách: “Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và công
nhân tri thức”, [100] giáo sư Văn Tạo đã đi sâu tìm hiểu những nét mới trong sự
phát triển của GCCN Việt Nam trước tác động mạnh mẽ của tiến bộ khoa học,
công nghệ, đặc biệt là của công nghệ thông tin dẫn đến sự ra đời một thuật ngữ
khoa học mới: “công nhân tri thức”. Theo tác giả: cùng với sự phát triển của kinh
tế tri thức, công nhân tri thức đang xuất hiện ngày càng đông đảo và là nhân tố
quyết định hướng đi của xã hội Việt Nam. Đảng, Nhà nước cần phải có những
chủ trương, chính sách đặc biệt nhằm phát triển đội ngũ công nhân này theo
hướng trí thức hóa công nhân. Hơn nữa, phải bồi dưỡng tư duy khoa học về giai
cấp và đấu tranh giai cấp cho công nhân phù hợp với thời đại mới, cùng với giải
quyết vấn đề quan hệ lợi ích “chủ - thợ” hợp lý, hài hòa trong khuôn khổ pháp
luật. Với thành công của cuốn sách, cố giáo sư, tiến sĩ Đỗ Nguyên Phương đã
nhận xét: “Giáo sư Văn Tạo không dừng lại ở “kinh viện chủ nghĩa” mà vượt lên
đổi mới tư duy, tìm cái mới trong khoa học làm sống động thêm những tư duy và
phép biện chứng của triết học Mác xít” [100, tr.13].
Trong cuốn sách: “Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XXI”- (sách chuyên khảo) [114], phó giáo sư, tiến sĩ
khoa học Phạm Viết Vượng đã chỉ rõ: trước tác động của những điều kiện mới,
GCCN Việt Nam phải không ngừng vươn lên làm chủ tri thức khoa học - công

nghệ hiện đại, từng bước phát triển công nhân trí thức. Hơn nữa, họ phải nhận rõ
vai trò sứ mệnh lịch sử của mình, thực hiện lợi ích giai cấp gắn với lợi ích dân
tộc: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tổ chức công đoàn phải phát triển rộng
khắp và vững mạnh toàn diện, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Sự
lớn mạnh của công đoàn giữ vai trò quan trọng nâng cao địa vị kinh tế, chính trị,

Footer Page 15 of 126.


Header Page 16 of 126.

16
xã hội của GCCN; ngược lại, sự phát triển của GCCN là cơ sở, điều kiện để xây
dựng, củng cố công đoàn vững mạnh. Trong cuốn sách “Quan hệ lợi ích kinh tế
giữa công nhân, nông dân và trí thức ở Việt Nam hiện nay”, [40] tiến sĩ Đặng
Quang Định đã chỉ ra rằng: trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới, công
nhân, nông dân và trí thức ở nước ta ngày càng liên kết, hợp tác chặt chẽ với
nhau trong sản xuất kinh tế, sự thống nhất về lợi ích kinh tế là quan hệ chủ yếu
của họ. Đó là sự thống nhất trong định hướng chính trị của nền kinh tế là xây
dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu - điều kiện, tiền đề để thực
hiện các lợi ích kinh tế cơ bản. Tuy nhiên, trước tác động của cơ chế thị trường,
một số biểu hiện thiếu thống nhất trong quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân,
nông dân và trí thức ở nước ta, xuất hiện những mâu thuẫn cục bộ, không cơ
bản. Vì thế, phải từng bước củng cố hoàn thiện chế độ công hữu, thực hiện tốt
các hình thức phân phối và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội. Cuốn sách:
“Một số vấn đề phát triển lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam trong điều
kiện kinh tế thị trường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế”, sách chuyên khảo do giáo sư, tiến sĩ Hoàng Chí Bảo - phó giáo sư, tiến
sĩ Nguyễn Viết Thông - phó giáo sư, tiến sĩ Bùi Đình Bôn đồng chủ biên, [8] đề
cập một số vấn đề xung quanh lợi ích của công nhân. Các tác giả cho rằng: lợi

ích của công nhân là vấn đề đang thực sự bức xúc, nhất là lợi ích công nhân
trong khu vực kinh tế có vốn ĐTNN như: việc làm, điều kiện làm việc, đời
sống... Luật pháp, chính sách, cơ chế để bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng
cho công nhân không rõ ràng, không ổn định. Quan hệ lao động trong doanh
nghiệp này là quan hệ vừa hợp tác, vừa đấu tranh giữa người lao động và giới
chủ. Trong chừng mực nhất định, quan hệ đó còn là biểu hiện của quan hệ giai
cấp đan xen với quan hệ dân tộc. Quan hệ này vừa vận hành theo cơ chế thị
trường, vừa có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước. Vì thế, chính sách, pháp luật
phải được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thì quan hệ lao động mới ổn định, hài
hòa, tiến bộ, lợi ích của công nhân mới được bảo đảm chính đáng.

Footer Page 16 of 126.


Header Page 17 of 126.

17
Trong luận án “Chính sách xã hội nhằm phát huy nguồn lực giai cấp công
nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nước ta”, [109] tác giả
Trương Tư cho rằng: phương thức chủ yếu để phát huy nguồn lực GCCN là thông
qua chính sách xã hội, nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề giữa cống hiến và
hưởng thụ, quyền lợi và trách nhiệm của họ, góp phần đảm bảo công bằng xã hội và
ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường xã hội thuận lợi cho công nhân lao động,
học tập và phấn đấu không ngừng, trở thành giai cấp trung tâm của xã hội.
Một số bài viết tiêu biểu liên quan đến GCCN, lợi ích và bảo đảm lợi ích
của công nhân đã được công bố trong các cuốn sách, tạp chí Trung ương. Trong
bài viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân và vai trò của giai cấp
công nhân đối với cách mạng Việt Nam”, [7] giáo sư, tiến sĩ Hoàng Chí Bảo đã
khẳng định: cống hiến nổi bật và đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về GCCN là
Người đã chỉ ra vai trò lãnh đạo của GCCN thông qua đội tiền phong của nó là

Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt tiến trình cách mạng. Giai cấp công nhân và
Đảng của nó không chỉ đấu tranh cho quyền lợi trước mắt mà còn hướng tới
tương lai, triển vọng lâu dài; là giai cấp “thống nhất được lợi ích giai cấp với lợi
ích dân tộc và xã hội”. Có thể nói, tác giả không chỉ dừng lại ở việc hệ thống hóa
các luận điểm của các nhà kinh điển, mà còn phân tích một cách lô gích, thực
chất của các luận điểm ấy, làm nổi bật tính cách mạng và tính khoa học của nó.
Các bài viết: “Chăm lo xây dựng giai cấp công nhân - nguồn lực cơ bản của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá” của Phùng Ngọc Bảo [9];“Giải pháp
giải quyết những vấn đề bức xúc của giai cấp công nhân Việt Nam” của phó
giáo sư, tiến sĩ Dương Văn Sao [96], đã bàn về những lợi ích thiết thân, bức xúc
nhất của công nhân, chỉ ra những bất cập về việc làm, tiền lương và thu nhập,
điều kiện làm việc và việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội đối với họ. Từ đó, các tác giả bài viết đề xuất một số giải pháp trước mắt và
lâu dài nhằm giải quyết những bất cập ấy.

Footer Page 17 of 126.


Header Page 18 of 126.

18
1.4. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến lợi ích của công
nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
Trong nhóm các công trình này đã nghiên cứu về tính đặc thù của các
loại hình doanh nghiệp có vốn ĐTNN và những tác động của nó đối với ý thức
chính trị của công nhân, đến quan hệ lao động giữa công nhân với giới chủ và
Nhà nước. Đánh giá thực trạng về lao động, thu nhập và đời sống của công
nhân; từ đó đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo lợi ích hợp
pháp, chính đáng của công nhân.
Trong cuốn sách: “Nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn trong các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” [94] do tiến sĩ Dương Văn Sao làm
chủ biên đã khẳng định: sự phát triển của doanh nghiệp có vốn ĐTNN bên
cạnh những mặt tích cực còn nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, quan hệ lao động
phức tạp, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân bị vi phạm.
Trong khi đó, tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp này vừa thiếu, vừa yếu,
chưa có nhiều kinh nghiệm nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Để khắc phục
những hạn chế đó, cần phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của công
đoàn; xây dựng mối quan hệ giữa công đoàn và giới chủ; phát triển đoàn viên
và nâng cao chất lượng tổ chức công đoàn và đảm bảo nguồn tài chính cho
công đoàn hoạt động.
Luận án: “Một số vấn đề về quan hệ lao động tại các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế” của Vũ Việt Hằng [49] đã đề cập một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ lao động trong hai loại doanh nghiệp
có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Bản chất của quan hệ lao động là quá
trình tương tác giữa các chủ thể tham gia như: người lao động và tổ chức đại
diện của họ; người sử dụng lao động và Nhà nước. Quá trình đó vừa thống
nhất, vừa mâu thuẫn với nhau thông qua sự giàng buộc, chi phối bởi lợi ích.
Thực tế, các cuộc đình công của công nhân ngày càng tăng lên cả về số

Footer Page 18 of 126.


Header Page 19 of 126.

19
lượng và quy mô là hệ quả tất yếu của những mâu thuẫn trong quan hệ lao
động (chủ - thợ) kéo dài, không được giải quyết dứt điểm. Để khắc phục tình
trạng trên, tác giả đề xuất và nhấn mạnh vai trò việc hoàn thiện pháp luật
quản lý nhà nước; xây dựng và phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong

doanh nghiệp.
Luận án:“Ý thức chính trị của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay” của Dương Thị Thanh Xuân [115] đã
khẳng định: ý thức chính trị XHCN của công nhân trong doanh nghiệp có vốn
ĐTNN thể hiện ở các cấp độ: thấp, thông thường và cấp độ cao. Người công
nhân có ý thức chính trị sẽ hành động theo những chuẩn mực nhân văn XHCN.
Do tác động của mặt trái nền KTTT và yếu tố nước ngoài làm cho một bộ phận
không nhỏ công nhân xao nhãng ý thức chính trị, lập trường giai cấp, tình cảm
dân tộc. Nếu không khắc phục tình trạng đó, công nhân dễ bị tha hóa về phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống… Kiến giải cho vấn đề này, luận án nêu ra một
số giải pháp, trong đó xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công nhân có tính chất đột phá nhằm nâng cao
ý thức chính trị của công nhân.
Một số bài viết tiêu biểu có nội dung liên quan đến lợi ích của công nhân
trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN như: Bài viết“Một số vấn đề về hoàn thiện
chính sách tiền lương trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” của
phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Tiệp [105] đã phân tích thực trạng tiền lương, thu
nhập của công nhân doanh nghiệp có vốn ĐTNN, chỉ rõ những yếu tố quan hệ
đến tiền lương thực tế của họ, mức độ chênh lệch tiền lương của các bộ phận
công nhân, các ngành nghề; mối quan hệ giữa tốc độ tăng tiền lương và tốc độ
tăng năng suất lao động và những bất cập về chính sách tiền lương đối với công
nhân. Trong bài viết: “Tình trạng vi phạm pháp luật lao động tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - giải pháp ngăn ngừa và khắc phục”, [72]
tiến sĩ Bùi Sĩ Lợi đã chỉ rõ tình trạng vi phạm pháp luật lao động diễn ra chủ

Footer Page 19 of 126.


Header Page 20 of 126.


20
yếu từ hai chủ thể: người sử dụng lao động muốn nâng cao năng lực cạnh tranh,
tối đa hoá lợi nhuận; người lao động muốn có việc làm, thu nhập bằng mọi giá
để duy trì cuộc sống. Trong khi đó, trình độ nhận thức pháp luật, tay nghề, tác
phong, kỷ luật của người lao động còn hạn chế. Do đó, phải tăng cường công
tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật lao động cho người lao động và người sử
dụng lao động trước khi được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Trong bài viết“Công nhân nữ ngoại tỉnh trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội”, [50] thạc sĩ Phạm Thu
Hiền đã khẳng định: công nhân nữ ngoại tỉnh trong các doanh nghiệp này đang
có nhiều nguy cơ bị mất các quyền lợi chính đáng. Việc làm của công nhân
thường không ổn định, thời gian làm việc kéo dài, thu nhập thấp làm cho đời
sống vật chất khó khăn, đời sống tinh thần thiếu thốn. Hơn thế, hiện tượng “vô
cảm” về chính trị khá phổ biến, tạo ra “khoảng trống” chính trị trong đời sống
tinh thần của công nhân. Càng khó khăn hơn đối với công nhân nữ ngoại tỉnh
có gia đình, cuộc sống tiềm ẩn nhiều bất trắc, hạnh phúc thực sự mong manh...
Cần phải có các giải pháp đồng bộ từ phía Nhà nước, công đoàn, doanh nghiệp
và bản thân công nhân, nhằm đảm bảo, thực hiện những lợi ích chính đáng cho
họ, góp phần phát triển lực lượng lao động này.
Tóm lại, các nhóm công trình liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề
tài đã thể hiện ở nhiều góc độ, phương diện khác nhau. Các công trình
nghiên cứu về lợi ích đã đề cập đến những nội dung lý luận về lợi ích như:
khái niệm, cấu trúc, tính chất, vai trò của lợi ích. Các công trình nghiên cứu
về GCCN và GCCN Việt Nam đã bàn khá kỹ vấn đề địa vị kinh tế - xã hội,
chính trị - xã hội, xu hướng biến đổi trong điều kiện phát triển nền KTTT
định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Nhóm các
công trình liên quan đến lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn
ĐTNN mới chỉ bàn đến vấn đề quan hệ lao động, ý thức chính trị và đời
sống của một nhóm công nhân. Chưa có công trình nào làm rõ những cơ sở


Footer Page 20 of 126.


Header Page 21 of 126.

21
kinh tế, chính trị, xã hội bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích của công nhân
với lợi ích GCCN và lợi ích của dân tộc.
2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Trong điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức; đặc biệt, chúng ta đang
khuyến khích kinh tế có vốn ĐTNN phát triển thì nhiều vấn đề còn tồn tại chưa
được nghiên cứu, làm rõ trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
- Vấn đề sự thống nhất và khác biệt về lợi ích của công nhân giữa các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Đây là một trong những vấn đề
rất phức tạp trong KTTT định hướng XHCN, cần phải làm rõ tính toàn thể và
cục bộ, phổ biến và đặc thù về lợi ích của GCCN và công nhân.
- Vấn đề làm thuê và làm chủ của công nhân trong doanh nghiệp có vốn
ĐTNN trên hai phương diện kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội với những mâu
thuẫn và nghịch lý giữa địa vị chính trị và lợi ích kinh tế của công nhân. Do vậy,
phải nghiên cứu, làm rõ để tìm ra cách giải quyết bảo đảm cho sự thống nhất giữa
lợi ích kinh tế - vật chất và lợi ích chính trị - tinh thần của công nhân và GCCN.
- Vấn đề vai trò của lợi ích và bảo đảm lợi ích của công nhân với việc
phát triển nguồn nhân lực, phát huy nhân tố con người trong GCCN và toàn
xã hội. Cần làm rõ vai trò động lực trực tiếp, gián tiếp, động lực vật chất và
động lực tinh thần trên cơ sở giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa cống
hiến và hưởng thụ, quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm, lao động và trả công
của công nhân trong điều kiện lao động có yếu tố nước ngoài.
- Vấn đề phát triển và phát huy vai trò các tổ chức chính trị - xã hội
của công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong mối liên hệ với đổi

mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong
điều kiện hiện nay. Đó là nhân tố chính trị cần phải được phát triển về tổ
chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức ấy nhằm
phát huy dân chủ của công nhân trong một xã hội dân chủ và pháp quyền.

Footer Page 21 of 126.


Header Page 22 of 126.

22
Những mô hình và thiết chế cần tạo dựng để nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân ở doanh nghiệp
này trong tình hình mới.
- Vấn đề vai trò của công nhân và các tổ chức đại diện của họ trong đấu
tranh chống các nguy cơ và âm mưu “diễn biến hòa bình” để bảo vệ Đảng, chế
độ. Các thế lực phản động, thù địch lợi dụng yếu tố nước ngoài tác động đến đời
sống của công nhân và tổ chức công đoàn để xuyên tạc bản chất của GCCN, bôi
nhọ Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ mà chúng ta đang xây dựng. Nghiên
cứu, làm rõ vấn đề này nhằm khẳng định tính tiên phong của công nhân và
GCCN Việt Nam trong giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nước ta.
Những vấn đề trên đây là những vấn đề mới, chưa được nghiên cứu với tư
cách là một công trình độc lập, cơ bản, hệ thống, chuyên sâu. Vì thế, vấn đề lợi
ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
hiện nay mà tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu và viết luận án tiến sĩ không
trùng với bất cứ một công trình nào đã công bố.
3. Mục tiêu của đề tài
Luận giải một cách hệ thống, lô gic những vấn đề lý luận, thực tiễn về lợi
ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Việt Nam; chỉ ra những
vấn đề cần phải tập trung giải quyết liên quan đến lợi ích và quá trình bảo đảm

lợi ích của công nhân; trên cơ sở đó, đề xuất định hướng và một số giải pháp có
tính khả thi nhằm bảo đảm lợi ích của công nhân hài hòa với lợi ích của giới
chủ, lợi ích của Nhà nước và toàn xã hội ta hiện nay.
4. Nội dung nghiên cứu của đề tài
- Xây dựng hệ thống các quan niệm về lợi ích, lợi ích của công nhân
Việt Nam hiện nay; từ đó, làm rõ nội hàm quan niệm và đặc điểm lợi ích
của công nhân trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN gắn với lợi ích GCCN
Việt Nam hiện nay.

Footer Page 22 of 126.


Header Page 23 of 126.

23
- Làm rõ vai trò bảo đảm lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn
ĐTNN góp phần vào sự phát triển GCCN Việt Nam, thực hiện công bằng xã hội,
giữ vững ổn định chính trị - xã hội và phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
- Nghiên cứu, khảo sát đánh giá những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân căn
bản, chủ yếu, khách quan, chủ quan; từ đó, phát hiện những vấn đề cần tập trung
giải quyết, nhằm phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
- Nghiên cứu đề xuất những định hướng và một số giải pháp, phát huy
nhân tố chủ quan, vai trò của các chủ thể trong bảo đảm, thực hiện lợi ích của
công nhân ở doanh nghiệp có vốn ĐTNN, thống nhất với lợi ích GCCN Việt
Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, kết
hợp lôgíc - lịch sử; phương pháp so sánh, thống kê, các phương pháp xã hội
học, phương pháp chuyên gia…vv.


Footer Page 23 of 126.


Header Page 24 of 126.

24

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH CỦA CÔNG NHÂN
TRONG DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Lợi ích và lợi ích của công nhân Việt Nam hiện nay
1.1.1. Quan niệm về lợi ích
Từ lâu, vấn đề lợi ích luôn là một đề tài hấp dẫn được các nhà triết học,
chính trị học, xã hội học quan tâm nghiên cứu. Bởi lẽ, lợi ích luôn gắn với hoạt
động của con người và sự tác động qua lại giữa người với người tạo nên sự
biến đổi xã hội chính là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn trong quan hệ lợi
ích. Lợi ích là cái cơ bản quy định mục đích hoạt động của con người, của chủ
thể và vì thế, nó là vấn đề cốt yếu của đời sống xã hội.
Trước Mác đã xuất hiện nhiều trường phái, quan điểm bàn về vấn đề lợi
ích. Tuy nhiên, do những hạn chế bởi tư tưởng, lập trường giai cấp mà vấn đề
lợi ích chưa được xem xét đúng đắn về vị trí, vai trò của nó trong đời sống con
người và xã hội. Vượt lên những hạn chế duy tâm và siêu hình trong quan niệm
về lợi ích của các trường phái, quan điểm trước Mác, các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin đưa ra những quan niệm đúng đắn về lợi ích, chỉ rõ vai trò
của lợi ích trong đời sống con người và sự vận động khách quan của lịch sử xã
hội. Đó là những nguyên lý nền tảng để các nhà khoa học xã hội sau này tiếp
tục nghiên cứu, làm rõ và phát triển lý luận về lợi ích.
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên

cứu xung quanh vấn đề lợi ích, quan hệ lợi ích với những phương pháp tiếp cận
khác nhau. Kết quả nghiên cứu đã công bố của nhiều tác giả không những làm
sáng tỏ, phát triển lý luận về lợi ích mà còn góp phần làm sống động trong thực
tiễn đổi mới ở nước ta. Xung quanh vấn đề lợi ích, cần phải nhấn mạnh những
điểm rất căn bản dưới đây:

Footer Page 24 of 126.


Header Page 25 of 126.

25
Lợi ích gắn kết chặt chẽ với nhu cầu, phản ánh quan hệ xã hội khách
quan trong nhận thức và hoạt động của chủ thể. Nhu cầu là những đòi hỏi của
con người, của một chủ thể nào đó muốn có những điều kiện nhất định để tồn
tại và phát triển. Nhu cầu xuất hiện từ khi con người, xã hội loài người xuất
hiện, “Không có nhu cầu thì không có sản xuất” [19, tr.865] và “Không ai có thể
làm một cái gì, nếu không đồng thời làm cái đó vì một nhu cầu nào đó của mình”
[17, tr.361]. Theo C. Mác, sự nảy sinh nhu cầu chính là “hành vi lịch sử đầu
tiên” để duy trì sự sống và hoạt động của con người. Đó là tiền đề đầu tiên của
lịch sử nhân loại cũng như sự tồn tại của những cá nhân hiện thực, “Muốn sống
được thì trước hết con người cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và
một số thứ khác nữa” [17, tr.40]. Khi những nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn, thì
lại xuất hiện những nhu cầu mới ở con người, ở chủ thể và con người, chủ thể đó
tìm phương tiện để thỏa mãn thông qua hoạt động thực tiễn của mình.
Nhu cầu sau khi nảy sinh trở thành động lực hết sức quan trọng thúc đẩy
con người, chủ thể hành động nhằm tìm kiếm đối tượng thỏa mãn. Phương tiện
để thỏa mãn nhu cầu ấy đối với chủ thể hành động chính là lợi ích. Vì thế, “Lợi
ích là cái đáp ứng lại nhu cầu, được đặt trong mối quan hệ với nhu cầu. Ngoài
mối quan hệ đó cái được coi là lợi ích sẽ không còn là lợi ích nữa” [101, tr.34].

Xét về bản chất, lợi ích chính là mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của
thế giới bên ngoài chủ thể với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích
là cái thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu. Lợi ích chỉ xuất hiện trong quan hệ
trao đổi giữa các chủ thể nhu cầu, khi xuất hiện nhu cầu và đối tượng thỏa mãn
nhu cầu. Trong mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, thì nhu cầu là cơ sở của lợi
ích, quyết định lợi ích, còn lợi ích xuất phát từ nhu cầu, dựa trên nhu cầu và là
tính hiện thực của nhu cầu.
Nhu cầu và lợi ích luôn có sự thống nhất bởi tính mục đích, thông qua
hành động của con người, chủ thể trước tác động từ hoàn cảnh bên ngoài. Cả nhu
cầu và lợi ích đều là sản phẩm hoạt động của con người; nếu con người không
hoạt động thì không có nhu cầu và lợi ích nào xuất hiện trong thế giới hiện
thực. Nhu cầu và lợi ích vừa mang sắc thái chủ quan, vừa có nội dung thực tiễn

Footer Page 25 of 126.


×