Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy từ thực tiễn trung tâm chữa bệnh giáo dục lao động xã hội số v, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.7 KB, 106 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN LẬP

QUẢN LÝ TRƯỜNG HỢP ĐỐI VỚI NGƯỜI CAI NGHIỆN MA TUÝ TỪ THỰC
TIỄN TRUNG TÂM CHỮA BỆNH - GIÁO DỤC - LAO ĐỘNG XÃ HỘI SỐ V,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, 2017


NGUYỄN DOÃN HOÀNG

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN LẬP



QUẢN LÝ TRƯỜNG HỢP ĐỐI VỚI NGƯỜI CAI NGHIỆN MA TUÝ TỪ THỰC
TIỄN TRUNG TÂM CHỮA BỆNH - GIÁO DỤC- LAO ĐỘNG XÃ HỘI SỐ V,

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HOÁ HỌC

THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Công Tác Xã Hội


Mã số: 60.90.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HÀ THỊ THƯ



HÀ NỘI, 2017

KHÓA V – ĐỢT 1 (2014-2016)


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Công tác xã hội về “Quản lý
trường hợp đối với người cai nghiện ma túy từ thực tiễn Trung tâm Chữa bệnh –
Giáo dục – Lao động Xã hội số V, Thành phố Hà Nội” là hoàn toàn trung thực và
không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Lập


MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Tệ nạn ma túy, nghiện ma túy và hậu quả của nghiện ma túy đã và đang gây ra
những tác hại to lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh, trật tự của mỗi quốc gia, đặc biệt là vấn đề an sinh xã hội. Việt Nam cũng như
các nước trong khu vực đang phải gánh chịu những ảnh hưởng nặng nề từ vấn đề này.
Nhận thức được mối hiểm họa từ ma túy kèm theo những diễn biến phức tạp về
tình hình buôn bán, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy, sử dụng ma túy tổng
hợp, ma túy đá đang gia tăng tại Việt Nam, trong nhiều năm qua Đảng và Chính phủ
Việt Nam đã nỗ lực, quyết tâm chỉ đạo triển khai, thực hiện nhiều giải pháp quan trọng
nhằm đấu tranh với tội phạm về ma túy, ngăn ngừa sự gia tăng của người nghiện mới,
giảm hại ma túy và tập trung công tác chữa trị cai nghiện, trợ giúp người sau cai
nghiện ma túy.
Vấn đề can thiệp, điều trị cai nghiện cho người nghiện ma túy là một yêu cầu
cấp bách, một nội dung quan trọng nhằm đảm bảo an sinh xã hội, phát triển kinh tế
luôn được Chính phủ quan tâm chỉ đạo. Công tác điều trị, cai nghiện phục hồi cho
người nghiện ma túy là một công việc khó khăn và phức tạp, lâu dài, đòi hỏi thực hiện
nhiều giải pháp y tế, tâm lý, xã hội. Hiện nay công tác này còn gặp phải nhiều khó
khăn, việc tổ chức cai nghiện cho người nghiện ma túy còn nhiều khác biệt ở một số
địa phương. Nhận thức đầy đủ về bản chất nghiện ma túy, cơ chế gây nghiện và quy
trình điều trị, cai nghiện một cách toàn diện cho người nghiện ma túy là yêu cầu trong
đổi mới đối với người tham gia công tác cai nghiện. Nhiều nội dung chuyên sâu về
quy trình can thiệp, trợ giúp người cai nghiện ma túy đã được áp dụng vào thực tế tại
các địa phương, tuy nhiên việc đánh giá hiệu quả xã hội vẫn đang tiếp tục được xem
xét và hướng về chuyên ngành công tác xã hội để giải quyết tận gốc vấn đề này.
Thành phố Hà Nội trong nhiều năm qua đã có nhiều quyết tâm, tổ chức thực
hiện cai nghiện ma túy cho người nghiện ma túy trên địa bàn, tập trung cho mô hình
cai nghiện ma túy bắt buộc tại các Cơ sở cai nghiện (gọi là Trung tâm), với quy mô 10
4



Trung tâm cai nghiện, từ năm 2011 đến năm 2015 đã đưa 8.992 người vào cai nghiện
bắt buộc, với thời gian cai nghiện 24 tháng, tiếp tục quản lý sau cai tại Trung tâm kéo
dài 24 tháng đối với 7.298 người, các Trung tâm chủ yếu thực hiện chức năng cắt cơn,
quản lý giáo dục, tổ chức lao động rèn luyện, phòng chống tái nghiện, chưa có các
dịch vụ kết nối với cộng đồng, việc đáp ứng nhu cầu người cai nghiện còn thiếu đồng
bộ. Theo đánh giá, nhận xét mô hình bắt buộc tập trung hiện nay làm hạn chế nhiều cơ
hội phát triển, thực hiện các chức năng xã hội của người nghiện ma túy và chưa phù
hợp với cách tiếp cận mới về người nghiện ma túy, cai nghiện ma túy của Quốc tế.
Ngày 27/12/2013 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2596/QĐTTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt nam đến năm
2020[10], Quyết định số 1640/QĐ -TTg ngày 18 tháng 8 năm 2016 của Thủ tướng
chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở cai nghiện đến năm 2020 và
định hướng đến năm 2030[15]. Với quan điểm đổi mới coi nghiện ma túy là một bệnh
mãn tính do rối loạn của não bộ; điều trị nghiện ma túy là một công việc lâu dài, can
thiệp kết hợp nhiều mặt cả y tế, tâm lý, xã hội. Phải thực hiện điều trị một cách toàn
diện với các can thiệp tổng thể về nhiều mặt, giúp người cai nghiện (khách hàng)
ngừng hoặc giảm sử dụng ma túy trái phép đồng thời hướng tới mục tiêu giảm tác hại
về sức khỏe, xã hội liên quan đến việc sử dụng ma túy và giúp người nghiện thực hiện
tốt các vai trò, chức năng của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Một chương trình
cai nghiện hiệu quả cung cấp không chỉ các dịch vụ điều trị trực tiếp về y tế, về tâm lý
mà còn cần có các dịch vụ hỗ trợ khác để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người nghiện.
Việc thiết lập một mạng lưới liên kết, chuyển gửi giữa các cơ sở cai nghiện, các cơ sở,
chương trình có thể cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho người nghiện là rất quan trọng và
cần thiết.
Ngày 25/03/2010 Thủ Tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
32/2010/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 20102020 [7], đây là chỉ đạo quan trọng của Chính phủ nhằm khẳng định và thúc đẩy phát
triển, nâng cao vai trò, hiệu quả nghề công tác xã hội, đồng thời nhằm thực hiện được
mục tiêu về kiểm soát và tổ chức điều trị cai nghiện cho người nghiện ma túy.
Quản lý trường hợp là một hoạt động trợ giúp đặc thù chuyên ngành trong công
tác xã hội. Đối với người cai nghiện ma túy (đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt), quản lý
5



trường hợp được vận dụng và đòi hỏi một cách toàn diện, liên tục, công bằng và chất
lượng, thông qua nhân viên QLTH với vai trò sắp xếp, phối hợp, kết nối các dịch vụ
chăm sóc người cai nghiện ma túy và gia đình họ xác định được những vấn đề khó
khăn cần giải quyết, xây dựng kế hoạch can thiệp, kết nối các dịch vụ và giúp họ thực
hiện thành công mục tiêu mong muốn [37].
Qua theo dõi, đánh giá thực tế công tác cai nghiện, phục hồi cho người nghiện
ma túy tại các Trung tâm trên địa bàn Thành phố Hà Nội thì việc áp dụng tiến trình
Quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy còn rất hạn chế và chưa hiệu quả,
chưa đáp ứng được nhu cầu của chính người cai nghiện và gia đình họ, cũng như yêu
cầu đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế - xã hội của Thủ đô và cả nước.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn nội dung “Quản lý trường hợp đối với
Người cai nghiện ma túy từ thực tiễn Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội
số V, Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ma túy, nghiện ma túy và điều trị nghiện ma túy là những nội dung được quan
tâm, tập trung nghiên cứu, biên soạn và công bố của các nhà khoa học, các chuyên gia,
các soạn giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên đề cập đến khía cạnh công tác xã hội đối
với người nghiện ma túy, đặc biệt về nội dung quản lý trường hợp đối với người
nghiện ma túy thì số lượng còn hạn chế.
Với khuôn khổ luận văn này, tác giả xin lựa chọn giới thiệu và phân tích ý
nghĩa một số công trình nghiên cứu các bài viết, tài liệu liên quan đến vấn đề về người
nghiện ma túy và quản lý trường hợp đối với người nghiện ma túy được công bố tại
Việt Nam:
* Nhóm công trình nghiên cứu chung về ma túy, về cơ chế gây nghiện, tác hại
của nghiện ma túy và các hoạt động liên quan
- Công trình nghiên cứu “Cơ chế nghiện ma túy nhóm OPIATS” của tác giả
Nguyễn Mạnh Hùng (2012) Bệnh Viện Tâm thần TW phân tích tác động của các chất

dạng thuốc phiện, cơ sở sinh học của trạng thái nghiện Opiats và cơ sở sinh học của
trạng thái cai; cơ sở sinh học và tâm lý trạng thái lệ thuộc về mặt tâm thần và xác định
cơ chế tâm lý gây nghiện ma túy. Thông qua nghiên cứu này giúp người làm công tác
cai nghiện, người làm công tác xã hội với nhóm người nghiện ma túy hiểu được cơ chế
6


nghiện và tác động tâm lý của nghiện ma túy để có cách hiểu và tiếp cận hiệu quả đối
với nhóm đối tượng này [27].
- Nhóm tác giả Hà Trọng Liên và Hoàng trọng Lực, Học viện Cảnh sát Nhân dân với
nghiên cứu “Hậu quả, tác hại và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em nghiện ma
túy ở Thành phố Hà Nội” (2009) tài liệu đã phân tích những hậu quả của tệ nạn ma túy đối
với trẻ em; phân tích nguyên nhân từ môi trường xã hội; đặc điểm tâm lý trẻ em; nguyên
nhân từ góc độ quản lý nhà nước đối với trẻ em; từ quản lý xã hội; phân tích sâu về yếu tố
nhận thức, điều kiện kinh tế và nguyên nhân từ phía gia đình, nhà trường. Thông qua nội
dung phân tích, tác giả giúp người đọc hiểu rõ hơn về các yếu tố tác động ảnh hưởng đến
nghiện ma túy của trẻ, trên địa bàn Thành phố Hà Nội [22].
- Nghiên cứu về nhóm thanh thiếu niên nghiện ma túy, tác giả Nguyễn Minh
Đức, Trung tâm nghiên cứu Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm – Học viện Cảnh
sát nhân dân có công trình nghiên cứu “Tìm hiểu một số hình thức mới của việc lạm
dụng chất gây nghiện trong thanh, thiếu niên hiện nay và các giải pháp phòng ngừa,
ngăn chặn” (2015). Bài viết đề cập đến một số loại ma túy mới được giới trẻ Hà Nội
cũng như một số thành phố lớn khác tìm kiếm và sử dụng, như hít “keo” (còn gọi là
dung môi hữu cơ), hút “pin” (thuốc lào Canada), hút “Shisha” (thuốc lào Ả rập). Phân
tích nguyên nhân sử dụng và lạm dụng chất gây nghiện trong thanh, thiếu niên, đồng
thời đưa ra một số giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng này trong thanh thiếu
niên hiện nay[28].
- Đề tài nghiên cứu “Hành vi nghiện dưới góc độ tâm lý học” của Huỳnh Văn Sơn
đưa ra khái quát chung về hành vi trong tâm lý học; Lý luận về hành vi nghiện dưới góc
độ tâm lý học; Một vài hành vi nghiện của vị thành niên và người trưởng thành hiện nay;

Biện pháp định hướng và điều chỉnh hành vi nghiện. Công trình này mang tính chia sẻ
dựa trên một số kết quả nghiên cứu bước đầu cũng như việc cập nhật các kiến thức và các
biện pháp cơ bản. Thông qua nghiên cứu này tác giả muốn giúp các phụ huynh chủ động
trong việc giáo dục trẻ em tránh xa các hành vi nghiện [23].
- Tác giả Nguyễn Song Chí Chung biên soạn và đưa ra nội dung “Tổng quan về
nghiện chất” (2010). Qua nghiên cứu này tác giả đã đưa ra kết luận như sau: Nghiện
chất là bệnh lý của não bộ, đa yếu tố phát sinh; Nghiện chất là bệnh mãn tính và dễ tái
phát; Đặc điểm lâm sàng cốt yếu là hành vi sử dụng mất kiểm soát (lệ thuộc tâm lý);
7


Điều trị nghiện chất phải là điều trị mãn tính và phải phối hợp nhiều yếu tố (thuốc, tâm
lý, môi trường). Kết luận này rất quan trọng để giúp các nhà chuyên môn cũng như các
nhà quản lý gặp nhau và thống nhất việc tiếp cận, điều trị cho người nghiện ma túy
hiện nay [29].
- Đề tài: “Nguyên nhân tái sử dụng ma túy và phương pháp mới dự phòng tái
nghiện” năm 2015 của tác giả Lê Trung Tuấn – Viện Nghiên cứu Tâm lý người nghiện
ma túy (PSD). Nội dung đề tài đã phân tích và cho rằng có 3 nhóm nguyên nhân dẫn
đến hành vi tái sử dụng ma túy ở người nghiện ma túy, đó là: Nguyên nhân từ hình ảnh
trực quan; nhóm cảm xúc, nhóm tình huống và hành vi nguy cơ. Thông qua đề tài này
giúp cho các nhà quản lý, người làm công tác xã hội và bản thân người nghiện ma túy
có được biện pháp cụ thể nhằm hạn chế thấp nhất khả năng nguy cơ tái sử dụng ma túy
ở người nghiện ma túy, nâng cao các yếu tố phòng ngừa cho mỗi thân chủ trong quá
trình xây dựng kế hoạch can thiệp trợ giúp [24].
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai” mã số 02-X07 của Nguyễn Thành Công, Hà
Nội, năm 2003, tập trung nghiên cứu vấn đề dạy nghề, lao động sản xuất cho người cai
nghiện ma túy và tạo việc làm có thu nhập cho người nghiện giai đoạn sau cai nghiện
ma túy. Nghiên cứu đã phân tích và chỉ ra việc tổ chức hỗ trợ việc làm, lao động sản
xuất cho người sau cai nghiện có ảnh hưởng và quyết định đến chất lượng, hiệu quả

của công tác cai nghiện phục hồi, góp phần giảm tỷ lệ tái nghiện ma túy. Qua đây tác
giả cũng nêu lên những tồn tại, hạn chế trong công tác dạy nghề, hướng nghiệp, tạo
việc làm cho người nghiện ma túy sau khi hết giai đoạn điều trị phục hồi, nêu lên nguyên
nhân tồn tại và đề xuất kiến nghị cụ thể cho hoạt động này tại các Trung tâm [30].
- Một tài liệu, một giáo trình được tác giả quan tâm và đánh giá cao là Giáo
trình “Chất gây nghiện và xã hội” (2013). Công trình được biên soạn với sự hợp tác
của các cơ quan: Tổ chức FHI 360, Trung tâm dự phòng và kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ
CDC, Cục phòng chống tệ nạn xã hội – Bộ Lao động Thương binh và xã hội, Trường
Đại học lao động - xã hội, nhóm tác giả do Bùi Thị Xuân Mai chủ biên. Nội dung tài
liệu đã nêu: Tổng quan về chất gây nghiện; Các Lý thuyết về nghiện ma túy; Nghiện
ma túy; Mối quan hệ giữa ma túy và HIV, kỳ thị phân biệt đối xử với người nghiện ma
túy; Chính sách và các can thiệp với vấn đề sử dụng chất gây nghiện. Đây là một tài
8


liệu, một công trình soạn thảo công phu, chọn lọc và thiết thực phục vụ cho việc đào
tạo nguồn nhân lực chuyên môn về Công tác xã hội tại Việt nam [20].
* Một số công trình nghiên cứu và bài viết về nội dung quản lý trường hợp và
Quản lý trường hợp đối với người nghiện ma túy tại Việt Nam
- Tác giả Trần văn Kham (2016) đã có công trình nghiên cứu “Tổng quan các
quan điểm về quản lý trường hợp trong công tác xã hội và khả năng ứng dụng ở Việt
nam”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 3/2016 ( 399, tr 23 – 29). Nghiên cứu này
nêu Quản lý trường hợp là một trong các phương pháp can thiệp của công tác xã hội,
có thể được hiểu như là một tiến trình của công tác xã hội, một cách thức giúp thân
chủ được tiếp xúc các dịch vụ trợ giúp xã hội. Đây là một chủ đề nghiên cứu rộng
khắp ở nhiều quốc gia trên thế giới về lĩnh vực công tác xã hội. Bài viết đi vào tổng
quan các quan điểm gần đây về quản lý trường hợp qua hệ thống các cơ quan và chức năng,
từ đó đề xuất một vài hàm ý về ứng dụng quản lý trường hợp trong bối cảnh Việt nam [38].
- Đề tài “Nghiên cứu phân tích tình hình người sử dụng ma túy ở Việt nam dựa
trên cách tiếp cận Quyền và nhu cầu” của tác giả Vũ Thị Thanh Nhàn, NXB Lao động

– Xã Hội, 12/2012. Nghiên cứu đã chỉ ra yếu tố giới thể hiện khá rõ trong quan điểm
so sánh về nam và nữ khi sử dụng ma túy. Thông qua phân tích dựa trên cách tiếp cận
về quyền và nhu cầu ở phụ nữ, tác giả cho thấy những định kiến về giới được thể hiện
khá rõ trong thái độ và hành vi của người dân cộng đồng đối với người sử dụng ma túy
và người có HIV/AIDS, cụ thể hơn là phụ nữ sử dụng ma túy bị kỳ thị nặng nề hơn so
với nam giới tại Việt Nam. Thông qua nghiên cứu này giúp nhân viên công tác xã hội
có chia sẻ, đồng cảm và vận động cộng đồng hiểu đúng, nhằm bảo về quyền và nhu
cầu của nữ giới, đảm bảo bình đẳng trong can thiệp và hỗ trợ nguồn lực, cung cấp dịch
vụ cho đối tượng [43].
- Công trình nghiên cứu “Chăm sóc liên tục và vai trò của nhân viên công tác xã
hội đối với người nghiện ma tuý đang phục hồi” của hai tác giả biên soạn Nguyễn thị
Khánh Vân (Bộ lao động TB&XH) và Kevin Mulvey (Tổ chức SAMHSA), thông qua
nội dung đề tài đã biên soạn và trình bày định nghĩa công tác xã hội, các yếu tố phổ
biến, phân tích các cấp độ thực hành công tác xã hội vĩ mô, trung mô và vi mô, nhóm
tác giả đã đi sâu giới thiệu về công tác xã hội cá nhân [32].
9


- Nội dung quản lý trường hợp đối với người nghiện ma túy của hai tác giả
Nguyễn Hồi Loan và Nguyễn Trung Hải – Trường Đại học Lao động Xã hội với giáo
trình quản lý trường hợp với người sử dụng ma túy đã biên soạn và trình bày khá đầy
đủ về vấn đề quản lý trường hợp đối với người sử dụng ma túy [25;33].
Qua tìm hiểu các đề tài, luận văn, tài liệu, công trình nghiên cứu nội dung về
quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy, tác giả nhận thấy số lượng công
trình còn chưa nhiều, nội dung chưa có nhiều đề tài chuyên sâu đặc biệt là về nội dung
phân tích, đánh giá hiệu quả từ thực tiễn áp dụng tiến trình quản lý trường hợp đối với
người cai nghiện ma túy tại trung tâm.
Thông qua tài liệu và hướng dẫn của Học viện, cùng với thực tế nghiên cứu tại
cộng đồng và các trung tâm cai nghiện của Hà Nội, tôi nghĩ rằng đề tài này sẽ góp
phần bổ sung và gợi mở rõ nét hơn về quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma

túy tại trung tâm nói riêng và với công tác điều trị cai nghiện cho người nghiện ma túy
tại Thành phố Hà Nội nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng quản lý trường hợp đối với
người cai nghiện ma túy; các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý trường hợp; ứng dụng tiến
trình quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy tự nguyện tại Trung tâm
Chữa bệnh Giáo dục Lao động Xã hội số V, thành phố Hà Nội; qua đó đề xuất, kiến
nghị các giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả công tác điều trị cho người
nghiện ma túy tại Trung tâm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý trường hợp trong việc hỗ trợ đối với người
cai nghiện ma túy.
- Phân tích thực trạng thực hiện nhiệm vụ quản lý trường hợp trong việc hỗ trợ
người cai nghiện ma túy tại Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục Lao động Xã hội số V,
Thành phố Hà Nội.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý trường hợp đối với người cai
nghiện ma túy tại Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục Lao động Xã hội số V, Thành phố
Hà Nội.
- Ứng dụng tiến trình QLTH vào trợ giúp một cá nhân người cai nghiện ma túy.
Đề xuất một số giải pháp thực hiện áp dụng hiệu quả tiến trình quản lý trường hợp đối
với người cai nghiện ma túy tại Trung tâm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
10


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy từ thực tiễn Trung tâm
Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động Xã hội số V, Thành phố Hà Nội.
4.2 Khách thể nghiên cứu

* Phạm vi về khách thể:
- Cán bộ quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy tại trung tâm bao
gồm: Nhân viên Công tác xã hội, Nhân viên Tư vấn - Giáo dục (tổng số 32 người).
- Cán bộ lãnh đạo trung tâm.
- Người đang cai nghiện ma túy tại trung tâm.
* Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các nhiệm vụ
QLTH đối với người cai nghiện ma túy, ứng dụng tiến trình quản lý trường hợp đối
với người đang cai nghiện tại trung tâm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Tác giả nghiên cứu, trình bày đề tài luận văn dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa
duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng hệ thống quan điểm của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về công tác phòng chống ma túy, các quy định của pháp luật,
chương trình, chính sách của địa phương về công tác điều trị, cai nghiện cho người
nghiện ma túy. Quan điểm ứng dụng phát triển nghề công tác xã hội và trợ giúp cho
người nghiện ma túy với những mối quan hệ biện chứng của đối tượng nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả luôn đặt quản lý trường hợp đối với người
cai nghiện ma túy trong mối quan hệ tương tác khách quan, tất yếu với các yếu tố khác
như cơ chế chính sách, môi trường xã hội,… Những đề xuất của nghiên cứu này ngoài
giải pháp tác động đến các yếu tố nội tại như nhân viên quản lý trường hợp, bản thân
người cai nghiện ma túy còn đề cập đến việc xây dựng cơ chế, chính sách trong tổ
chức thực hiện quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy sao cho phù hợp
và hiệu quả. Đồng thời khi phân tích hoạt động quản lý trường hợp đối với người cai
nghiện ma túy tại Trung tâm, tác giả luôn bám sát hoàn cảnh cụ thể của Trung tâm trên
quan điểm đổi mới công tác cai nghiện ma túy và áp dụng nghề công tác xã hội ứng
dụng hiệu quả đối với người cai nghiện ma túy.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Tác giả thu thập, phân tích thông tin, số liệu, tài liệu từ các công trình nghiên
cứu, đề tài đã được công bố về nội dung công tác xã hội, quản lý trường hợp đối với

11


người sử dụng ma túy, các tài liệu về nghiện chất, cai nghiện, phục hồi cho người
nghiện ma túy để xây dựng hệ thống lý thuyết.
Tập hợp, phân tích các tài liệu, báo cáo của các ngành, các cấp trên địa bàn Thành
phố Hà Nội, kết quả công tác cai nghiện phục hồi của Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục
Lao động Xã hội số V trong quá trình thực hiện nhiệm vụ hàng năm và số liệu tổng
hợp của Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Nội.
5.2.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi
Đây là phương pháp được tác giả áp dụng cơ bản trong đề tài để cho ra các số
liệu, định lượng dựa trên các khái niệm đã được thao tác hóa. Bảng hỏi là công cụ thu
thập thông tin với những nội dung câu hỏi liên quan đến thông tin cán bộ QLTH đánh
giá nhu cầu của người cai nghiện ma túy, thực trạng các nhiệm vụ quản lý trường hợp
của cán bộ QLTH đối với người cai nghiện ma túy, các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý
trường hợp người cai nghiện tại Trung tâm, thông qua việc tổng hợp, phân tích, nhận
xét số liệu khảo sát và đây là nội dung cơ bản được quan tâm.
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Tác giả sử dụng các câu hỏi phỏng vấn sâu đối với cán bộ lãnh đạo, cán bộ
quản lý, nhân viên trực tiếp tư vấn – giáo dục và học viên đang cai nghiện tại trung
tâm, đó là những câu hỏi định tính nhưng sẽ làm rõ cách tiếp cận, quan điểm, giải pháp
cụ thể mà ở bảng hỏi không thể hiện được. Qua đây khẳng định rõ nét hơn nội dung
mà đề tài nghiên cứu muốn đưa ra, đồng thời cũng đánh giá được nhận thức, kỹ năng,
kinh nghiệm của đối tượng.
5.2.4. Phương pháp quan sát
Thông qua phương pháp này tác giả sẽ đánh giá, đưa ra các câu hỏi cho phần
bảng hỏi, phỏng vấn, cũng như đối chiếu khẳng định các thông tin, số liệu, nhận định
thu thập được, đồng thời quan sát được tâm lý thái độ, tình cảm, hành động, mối quan
tâm của môi trường xã hội xung quanh người cai nghiện tại trung tâm qua đó giúp cho
việc ứng dụng tiến trình quản lý trường hợp đối với người đang cai nghiện tại trung

tâm phù hợp, hiệu quả và chính xác hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Đề tài luận văn mà tác giả nghiên cứu, trình bày sẽ góp phần nâng cao lý luận
và phong phú thêm về cơ sở dữ liệu cho việc phân tích lý luận về quản lý trường hợp
đối với người cai nghiện ma túy, sẽ tập trung để đưa ra nội dung sâu hơn về ứng dụng

12


tiến trình quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy tự nguyện tại Trung tâm
Chữa bệnh Giáo dục - Lao động xã hội số V, Hà Nội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn này sẽ góp phần nâng cao nhận thức của
cộng đồng, các nhà quản lý về vai trò nghề công tác xã hội, vai trò nhân viên CTXH,
nhân viên QLTH, sự ảnh hưởng tác động từ các yếu tố đối với người cai nghiện ma túy
tại trung tâm. Đặc biệt qua phân tích thực trạng hoạt động quản lý trường hợp đối với
người cai nghiện ma túy tại trung tâm sẽ đưa ra những nhận xét đầy đủ, xác đáng
những mặt được, mặt tồn tại của áp dụng tiến trình tại Trung tâm. Thông qua việc áp
dụng tiến trình quản lý trường hợp vào một trường hợp cụ thể đang cai nghiện tại trung
tâm sẽ là căn cứ kiến nghị, đề xuất được giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
cai nghiện phục hồi tại Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục Lao động Xã hội số V, Thành
phố Hà Nội và các trung tâm cai nghiện trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Bên cạnh đó đề tài nghiên cứu này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho những nghiên cứu sau này về lĩnh vực quản lý trường hợp đối với người cai
nghiện ma túy hoặc những ai quan tâm đến công tác xã hội, công tác xã hội đối với
người cai nghiện ma túy.
7. Kết cấu của đề tài luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, các phụ
lục, đề tài gồm 3 chương sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý trường hợp đối với người cai
nghiện ma túy.
Chương 2: Thực trạng quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy tại
Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục Lao động Xã hội số V, Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Ứng dụng tiến trình quản lý trường hợp và đề xuất các bện pháp nâng
cao hiệu quả công tác quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy từ thực tiễn
Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục Lao động Xã hội số V, Thành phố Hà Nội.

13


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TRƯỜNG HỢP
ĐỐI VỚI NGƯỜI CAI NGHIỆN MA TÚY
1.1. Khái niệm và đặc điểm của người cai nghiện ma túy
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm ma túy
Ma túy có nguồn gốc từ hàng ngàn năm trước công nguyên, và đến thế kỷ thứ III
trước công nguyên đã có những tài liệu ghi nhận việc sử dụng thuốc phiện. Năm 1860 tác
giả Syndenham đã viết “trong số những bài thuốc mà thượng đế đã ban phát cho con
người, không có gì có thể chữa bệnh hiệu quả như thuốc phiện”. Đây chính là quan điểm
mà từ đó dẫn đến lạm dụng thuốc phiện trong lịch sử loài người. Với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, ngoài những sản phẩm có sẵn trong tự nhiện như thuốc phiện, cần sa,
cô ca người ta dựa vào cấu trúc hóa học trong những chất này để tạo ra chất bán tổng hợp
có khung cơ bản giống các chất có sẵn trong tự nhiên và có tác dụng tương tự như thuốc
phiện (như Heroin). Ngoài ra, với khoa học hiện đại như hiện nay một loạt các chất ma
túy tổng hợp, từ các nguồn tiền chất hóa học thông dụng khác trong các ngành y dược,
hóa dược để tạo thành ma túy mới, dễ sử dụng và tác dụng kích thích thần kinh cũng như
tác hại gấp hàng trăm, hàng nghìn lần so với ma túy truyền thống (như Methamaphetamine,
Amphetamine, Etasy...)

Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về ma túy. Mỗi quốc gia, mỗi tổ chức
quốc tế có liên quan đều đưa ra khái niệm ma túy của mình.
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì: “Ma túy là bất kỳ chất nào khi đưa vào cơ thể
sống có thể làm thay đổi một số chức năng của cơ thể và làm cơ thể phụ thuộc vào nó” [36].
Theo định nghĩa của Văn phòng Liên Hợp quốc về phòng, chống ma túy và tội
phạm thì “Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi đưa vào cơ thể
người nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái, ý thức và sinh lý. Nếu lạm dụng ma túy con
người sẽ phụ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương, nguy hại cho người sử dụng và cộng
đồng”.
14


Luật phòng chống ma túy được Quốc Hội thông qua ngày 09/10/2000 quy định:
“Chất ma túy là chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do
chính phủ ban hành” (khoản 1, Điều 2) [34].
Vậy có thể đưa ra khái niệm ma túy như sau: “Ma túy là tên gọi chung chỉ những
chất kích thích khi dùng một lần có thể gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo.
Những chất này khi đưa vào cơ thể sống sẽ làm thay đổi trạng thái nhận thức và sinh lý”.
* Khái niệm nghiện ma túy
Theo Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (APA): “Nghiện ma túy là các hội chứng gồm
tăng liều ma túy để có tác dụng mong muốn, sử dụng ma túy để giảm hội chứng thiếu
thuốc, không có khả năng giảm liều hoặc dừng ngừng sử dụng ma túy mặc dù biết nó có
hại cho bản thân và những người khác” (APA Science Policy News, July 2008) [47].
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) định nghĩa: “Nghiện ma túy là trạng thái nhiễm
độc chu kỳ hay mãn tính do sử dụng lặp lại nhiều lần một chất tự nhiên hay tổng hợp nào
đó. Sự nhiễm độc này thể hiện ở sự gia tăng liều dùng và sự lệ thuộc tâm sinh lý của
người dùng vào tác dụng của chất đó” [36].
Theo Quyết định 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ Tướng Chính Phủ phê
duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ở Việt nam đến năm 2020, đưa ra khái niệm:
“Nghiện ma túy là bệnh mãn tĩnh do rối loạn của não bộ, điều trị nghiện ma túy là một

quá trình lâu dài bao gồm tổng thể các can thiệp, hỗ trợ về y tế, tâm lý, xã hội làm thay
đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng
ma túy trái phép” [10].
Như vậy, nghiện ma túy là hiện tượng phụ thuộc cả thể xác lẫn tinh thần vào ma
túy do việc sử dụng thường xuyên và tăng dần liều lượng sử dụng dẫn đến mất kiểm soát
nhận thức và hành vi của người sử dụng, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, nhân cách bản
thân và an toàn xã hội.
* Khái niệm người nghiện ma túy
Theo quy định của pháp luật Việt Nam “Người nghiện ma túy là người sử dụng
chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này” (Điều 2,
Luật phòng, chống ma túy – Quốc hội Việt Nam thông qua năm 2000 và sửa đổi bổ sung
năm 2008) [34].
15


Như vậy có thể hiểu người nghiện ma túy là người sử dụng ma túy lặp đi lặp lại
nhiều lần chất ma túy với liều dùng ngày càng tăng, dẫn đến tình trạng nhiễm độc chu kỳ,
mãn tính, bị lệ thuộc về thể chất và tinh thần vào chất đó.
* Khái niệm người cai nghiện ma túy
Qua tìm hiểu hiện nay chưa có tài liệu nào đưa ra về khái niệm cụ thể về người cai
nghiện ma túy. Qua tham khảo một số văn bản khác nhau về công tác cai nghiện ma túy,
tác giả đưa ra khái niệm người cai nghiện ma túy như sau: Người cai nghiện ma túy là
người đang được áp dụng các biện pháp để chấm dứt việc sử dụng ma túy, không còn lệ
thuộc vào các chất ma túy, chất gây nghiện.
1.1.2. Đặc điểm và nhu cầu của người nghiện ma túy
1.1.2.1. Đặc điểm người nghiện ma túy
* Đặc điểm tâm, sinh lý của người nghiện ma túy
Đối với người nghiện ma túy, biểu hiện sinh lý và tâm lý thường đi kèm với nhau
khá dễ nhận biết, đặc biệt đối với người sử dụng và nghiện ma túy lâu năm. Tuy nhiên,
tùy thuộc vào loại ma túy sử dụng mà có những biểu hiện đặc điểm khác nhau [33, tr.24],

cụ thể:
- Về mặt thể chất người nghiện ma túy thường suy sụp sau một thời gian dùng ma
túy. Họ thường không quan tâm đến chăm sóc bản thân, răng, miệng và dễ mắc phải một
số bệnh liên quan đến hô hấp, gan, thận, bệnh lây lan qua đường tình dục và phần lớn
nhận thấy khả năng tình dục giảm rõ rệt.
- Về đặc điểm tâm sinh lý của người nghiện ma túy theo hai nhóm ma túy bất hợp
pháp được thể hiện phổ biến như sau:
+ Đối với người sử dụng nhóm ma túy truyền thống như thuốc phiện, Mooc phin,
Hêroin: Khi đói ma túy thì xuất hiện hội chứng cai (vật vã, đau đớn, cảm giác dòi bò
trong xương, v.v); khi no thuốc “phê thuốc” thì khoan khoái, lâng lâng, nói nhiều, hoạt
bát.
+ Đối với người sử dụng nhóm ma túy tổng hợp như Amphetamine/Methamphein/
Ketamin/Cần sa,... biểu hiện thể chất sau dùng thuốc thường phấn khích, bừng tỉnh, dễ bị
ảo thị, ảo giác, ảo thanh, bay bổng, suy nghĩ hoang tưởng dễ dàng tấn công người xung
16


quanh theo suy nghĩ trong đầu mình về một ai đó; khi không có thuốc thường rơi vào
trạng thái trầm cảm, một số có biểu hiện tự sát, tâm thần.
- Về biểu hiện đặc trưng của người nghiện ma tuý: Mãnh liệt tìm kiếm, sử dụng ma
túy, bất chấp hoàn cảnh; Không kiểm soát được việc sử dụng ma túy; Xuất hiện hội chứng
cai nếu giảm hoặc ngừng sử dụng ma túy; Có khuynh hướng tăng liều; Sao nhãng các thú
vui khác (chăm sóc con, chơi thể thao, xem phim, ca nhạc, quan tâm bạn bè); Tiếp tục sử
dụng ma túy bằng mọi cách dù biết rất rõ tác hại của ma túy đang sử dụng.
Như vậy, về mặt thể trạng, hành vi về sinh lý của người nghiện ma túy không khó
nhận ra với người xung quanh, đồng thời dễ nhận thấy ở họ thường dễ bức xúc, nổi cáu và
luôn lý giải việc muốn sử dụng lại chất gây nghiện; dễ gây những tổn thương cho người
khác hoặc gây ra những hành động nguy hiểm cho chính mình, ảnh hưởng xấu đến gia
đình, xã hội.
* Đặc điểm xã hội của người nghiện ma túy

Một đặc điểm thể hiện rõ nhất đối với người nghiện ma túy đó là vấn đề kỳ thị xã
hội của người nghiện.
Kỳ thị đối với người nghiện ma túy là thái độ không tôn trọng người sử dụng ma
túy, người nghiện ma túy, cho rằng sử dụng ma túy, nghiện ma túy là tệ nạn xã hội, là tội
phạm, họ là người nguy hiểm, người lây bệnh, người HIV,… nên xa lánh, đề phòng, e sợ
họ ngay cả khi họ đã điều trị [33, tr.25].
Bên cạnh kỳ thị của xã hội thì người nghiện ma túy còn tự kỳ thị. Tự kỳ thị là tự
bản thân người nghiện ma túy luôn có suy nghĩ khó chấp nhận chính mình, tự căm ghét,
xấu hổ, phê phán bản thân, cảm thấy bị mọi người để ý, xét đoán ghét bỏ, không tin tưởng
mình, nên tự cô lập, tự tách mình ra khỏi gia đình, cộng đồng [33, tr.25]. Sự mặc cảm tự
kỳ thị ở người cai nghiện ma túy nếu không có sự chủ động tiếp cận của cán bộ quản lý
thì họ luôn thiếu lòng tin, luôn cho rằng mọi người không còn tin tưởng mình. Đồng thời
luôn có tâm lý sợ bị tái nghiện, sợ bị vợ/chồng, người yêu, người thân trong gia đình
ruồng bỏ; bất mãn trước sự kỳ thị của cộng đồng, sợ đối mặt với tình trạng nhiễm HIV,
thường lo lắng và mất phương hướng cho tương lai, lo sợ công an hoặc chính quyền địa
phương gọi, hỏi, quan tâm đến mình.
1.1.2.2. Nhu cầu của người nghiện ma túy
17


Trong hoạt động công tác xã hội đối với người nghiện ma túy nói chung và quản lý
trường hợp đối với người cai nghiện ma túy nói riêng thì đánh giá nhu cầu của đối tượng
trợ giúp là đặc biệt quan trọng. Thông qua mô hình bậc thang của Maslow giúp cho nhân
viên quản lý trường hợp xác định được nhu cầu của thân chủ trong từng bối cảnh cụ thể,
từ đó lập kế hoạch can thiệp, trợ giúp phù hợp cho thân chủ.
Đối với người cai nghiện ma túy, thông qua mô hình bậc thang của Abraham
Maslow, tác giả mô tả như sau:
- Nhu cầu cơ bản của con người, cũng như của người nghiện ma túy đó là nhu cầu
thể lý về oxy, thực phẩm, nước uống, nơi trú ngụ,... Đây là nhu cầu cơ bản (basic needs)
mạnh mẽ nhất vì sự sống của một con người cần có, phụ thuộc phải có. Đối với người

nghiện ma túy cũng luôn có nhu cầu cơ bản này, đồng thời lo sợ khi sức khỏe giảm sút
hay sự hạn chế về vật chất trong môi trường cai nghiện tại Trung tâm thì vấn đề ăn, uống,
sinh hoạt vật chất tại nơi cai nghiện luôn là đòi hỏi cần thiết, đây được coi là nhu cầu hàng
đầu mà mỗi người cai nghiện tại Trung tâm quan tâm, đòi hỏi.
- Nhu cầu an toàn: Khi các nhu cầu cơ bản đã được đáp ứng như nơi ở, bữa ăn, nước
uống, sinh hoạt,... và các yếu tố về thể lý khác không còn chi phối đến suy nghĩ cũng như
hành vi của người nghiện thì họ có thể tập trung vào nhu cầu được an toàn, an toàn ở đây
có thể hiểu như an toàn về cuộc sống, về cơ thể của họ và gia đình họ, an toàn về công
việc, về tài sản. Trong Trung tâm cai nghiện vấn đề an toàn được người cai nghiện quan
tâm đó là an toàn về sức khỏe, không bạo lực, chèn ép, bắt nạt từ những học viên khác
trong quá trình tham gia điều trị, cai nghiện. Cán bộ QLTH cần lưu ý nhu cầu này để xây
dựng môi trường cai nghiện An toàn - Thân thiện trong Cơ sở cai nghiện ma túy.
- Nhu cầu được quan tâm: Khi người nghiện ma túy cảm thấy tương đối an toàn và
yên tâm, họ sẽ hướng tới nhu cầu được được quan tâm. Sự đòi hỏi yêu thương này họ
muốn đón nhận sự quan tâm của mọi người (trong gia đình, hàng xóm, người thân quen,
cộng đồng,… và của cán bộ y tế, cán bộ trung tâm đang điều trị cho họ). Thực tế người
nghiện ma túy khi tham gia cai nghiện ma túy tại Trung tâm luôn chú ý đến tình cảm của
người khác dành cho mình, đặc biệt là tình cảm đón nhận từ bạn bè, người thân trong gia
đình và của cán bộ trực tiếp quản lý, trợ giúp. Cán bộ QLTH phải luôn lưu ý đến nhu cầu
18


thứ ba này của người cai nghiện ma túy để kết nối tình cảm cho họ từ phía gia đình, người
thân, cộng đồng xã hội và của chính bản thân cán bộ trong Trung tâm cai nghiện.
- Nhu cầu được quý trọng: Khi ba nhu cầu trên đã được đáp ứng thì nhu cầu được
quý trọng sẽ là đòi hỏi đối với người cai nghiện ma túy. Ở đây người nghiện ma túy muốn
quý trọng người khác, muốn hàn gắn tình cảm yêu thương vợ, con, gia đình, bạn bè và
ngược lại họ mong muốn nhận được sự quý trọng của mọi người. Khi nhu cầu này được
thỏa mãn, họ sẽ cảm thấy tự tin hơn vào những giá trị mà họ đã xác định. Cán bộ Quản lý
trường hợp lưu ý và tạo điều kiện cho họ được thể hiện cũng như đón nhận ở cả hai góc

độ, điều này sẽ làm thân chủ thấy tự tin và mạnh dạn khi trở về cộng đồng, tham gia các
hoạt động xã hội.
- Nhu cầu được khẳng định mình: Khi tất các nhu cầu trên được thỏa mãn thì mới là
lúc nhu cầu cao nhất của bậc thang Maslow được bày tỏ - đó là nhu cầu được tự khẳng
định của người cai nghiện ma túy. Nhu cầu tự khẳng định chính là việc người cai nghiện
ma túy khẳng định chính mình, mong muốn và khẳng định làm được những việc họ cần
phải làm. Họ muốn sáng tạo, thể hiện bản thân, thể hiện sức mạnh nội lực và muốn được
ghi nhận thành công. Trong quá trình điều trị cai nghiện ma túy, việc xác định nhu cầu
cao nhất trong con người này sẽ giúp người cai nghiện thấy rõ bản thân của họ hơn, xác
định tâm lý và bản lĩnh vững vàng hơn, từ đó quyết định đúng đắn hơn, quyết tâm hơn.
Dựa trên phân tích nhu cầu con người nói chung, người cai nghiện ma túy nói
riêng theo Mô hình bậc thang Nhu cầu của Maslow, đối với cán bộ quản lý trường hợp có
thể tóm tắt nhu cầu của người nghiện ma túy theo ba nhóm sau:
Về mặt tâm lý: Người nghiện ma túy muốn được yêu thương, tin tưởng, họ muốn
xây dựng lại mối quan hệ, muốn lập gia đình, tình dục, muốn hòa cùng gia đình, họ hàng,
xóm, phố và cộng đồng nơi họ sinh sống.
Về mặt xã hội: Người nghiện ma túy muốn được tìm kiếm công việc, nghề nghiệp,
muốn có thu nhập, muốn được vay vốn làm ăn, được công bằng tham gia và cung cấp các
dịch vụ công, các hoạt động kinh doanh, họ muốn có các quan hệ xã hội bình thường với
các cơ quan, doanh nghiệp và mọi người trong xã hội.

19


Về mặt y tế: Trong họ luôn muốn biết được tình trạng sức khỏe bản thân, muốn
biết được các nơi điều trị bệnh đang mắc phải, muốn biết rõ quy trình điều trị họ đang
tham gia và các vấn đề tiếp theo mục đích phục hồi sức khỏe sau khi trở về cộng đồng.
Hệ thống bậc thang của Maslow dành cho đánh giá nhu cầu người nghiện ma túy là
nền tảng trong điều trị cai nghiện cho người nghiện ma túy. Đáp ứng từng bậc nhu cầu
của họ, giúp họ nâng cao về thể chất, tâm lý, xã hội, họ tự quyết định và có đủ quyết tâm

để thực hiện được kế hoạch mà nhân viên quản lý trường hợp giúp họ hoạch định, triển
khai một cách hiệu quả.
1.2. Lý luận về quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm quản lý trường hợp
Quản lý trường hợp (tiếng anh là Case management) còn gọi là quản lý ca, trong
trình bày luận văn này xin gọi chung là quản lý trường hợp. Ở một số quốc gia, QLTH
được sử dụng trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ an sinh cho con người (QLTH trong
lĩnh vực y tế nhằm chăm sóc sức khỏe cho người bệnh, QLTH với người nghiện ma túy,
người có HIV/AIDS,...) và cả trong lĩnh vực pháp luật (luật sư tư vấn cho khách hàng)
[33, tr.10].
Hiện nay còn nhiều định nghĩa khác nhau về QLTH của các nhà khoa học xã hội
trên thế giới:
Theo Luise Johnson (1995), quản lý trường hợp là sự điều phối các dịch vụ và trong
quá trình này nhân viên công tác xã hội làm việc với thân chủ để xác định dịch vụ cần
thiết, tổ chức và theo dõi sự chuyển giao các dịch vụ đó tới thân chủ có hiệu quả [38].
Hiệp hội công tác xã hội thế giới định nghĩa: “Quản lý trường hợp là sự điều phối mang
tính chuyên nghiệp các dịch vụ xã hội và dịch vụ khác nhằm giúp cá nhân, gia đình đáp ứng
nhu cầu được bảo vệ hay chăm sóc lâu dài”.
Hiệp hội các nhà quản lý trường hợp của Mỹ (năm 2007), điều chỉnh khái niệm về quản
lý trường hợp như sau: “Quản lý trường hợp là quá trình tương tác, điều phối bao gồm các hoạt
động đánh giá, lên kế hoạch, tổ chức điều động và biện hộ về chính sách, quan điểm và dịch
vụ, nguồn lực nhằm đáp ứng nhu cầu của thân chủ, sao cho sự cung cấp dịch vụ tới cá nhân có
hiệu quả với chi phí giảm và có chất lượng”.
20


Theo tác giả Trần Văn Kham (2016) cho rằng quản lý trường hợp là một trong các
phương pháp can thiệp của công tác xã hội, có thể được hiểu như là một tiến trình của công tác
xã hội, một cách thức giúp các thân chủ được tiếp cận các dịch vụ trợ giúp xã hội [38].

Như vậy, có thể đưa ra khái niệm quản lý trường hợp như sau: Quản lý trường hợp
là một quá trình trợ giúp mang tính chuyên môn, bao gồm các hoạt động đánh giá nhu cầu
thân chủ (cá nhân, gia đình), xác định, kết nối và điều phối các nguồn lực, dịch vụ nhằm
giúp họ tiếp cận nguồn lực để giải quyết vấn đề một cách hiệu quả.
1.2.1.2. Quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy
Từ khái niệm người cai nghiện ma túy và khái niệm quản lý trường hợp, có thể đưa
ra cách hiểu về QLTH đối với NCNMT như sau: “QLTH đối với người cai nghiện ma túy
là quy trình xác định nhu cầu cần trợ giúp xã hội và xây dựng, thực hiện kế hoạch trợ giúp
người cai nghiện ma túy, điều phối các hoạt động cung cấp dịch vụ xã hội để trợ giúp
người cai nghiện ma túy vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống và phát triển bản thân”.
Quy trình QLTH đối với người cai nghiện ma túy bao gồm 5 bước: (1) Tiếp nhận
thông tin và đánh giá sơ bộ; (2) Thu thập thông tin và đánh giá toàn diện; (3) Xây dựng kế
hoạch trợ giúp; (4) Triển khai kế hoạch trợ giúp; (5) Lượng giá.
Hoạt động quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy có một số điểm cơ
bản sau: [33, tr.16]
Thứ nhất: Việc cung cấp các dịch vụ khác nhau đối với người cai nghiện ma túy là
hoạt động hết sức quan trọng trong quá trình trợ giúp người cai nghiện ma túy.
Thứ hai: Nêu cao vai trò của nhân viên quản lý trường hợp trong phương pháp tiếp
cận với người cai nghiện ma túy, với những khả năng, năng lực cần có để có kế hoạch trợ
giúp tốt nhất (bao gồm đánh giá chi tiết nhu cầu, hỗ trợ, xây dựng kế hoạch nhằm đạt được
mục tiêu và xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá kết quả), giúp người cai nghiện ma túy thực hiện
các yêu cầu từng quy trình cai nghiện hoặc sử dụng các biện pháp thay thế.
Thứ ba: Nhân viên quản lý trường hợp cần có những phương pháp bảo đảm cho khách
hàng được hưởng các dịch vụ hỗ trợ về chuyên môn một cách toàn diện nhất.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy
Trong tiến trình quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy, toàn bộ các
hoạt động tiếp xúc, hỗ trợ đều có ảnh hưởng trực tiếp đến thân chủ, đặc biệt tác động đến
21



việc đáp ứng nhu cầu và giải quyết vấn đề của thân chủ. Do vậy những nguyên tắc trong
quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy phải được tuân thủ nghiêm túc. Nếu
không đáp ứng được các nguyên tắc này mà chỉ làm việc theo trách nhiệm, nhiệm vụ hay
theo cảm tính cá nhân thì mục tiêu trợ giúp thân chủ sẽ không đạt được kết quả mong
muốn, cụ thể quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy có những nguyên tắc
sau: [33, tr.36].
* Chấp nhận thân chủ
Thân chủ ở đây là người nghiện ma túy, là một đối tượng trong nhóm có hoàn cảnh
đặc biệt, một đối tượng mà trước đây trong suy nghĩ của người dân là tệ nạn xã hội, nguy
hiểm trong xã hội, họ có những đặc thù riêng mà trong quan điểm tiếp cận, ứng xử với họ
nay đã thay đổi. Họ là những người có hoàn cảnh đặc biệt, có nhân phẩm, có giá trị riêng
và có quyền được tôn trọng. Chấp nhận thân chủ ở đây không có nghĩa là đồng tình, “cổ
súy” cho những hành vi, quan điểm, suy nghĩ của họ mà ám chỉ sự ghi nhận không phán
xét hành vi, suy nghĩ của họ. Làm được như vậy giúp cho nhân viên quản lý trường hợp
tạo được niềm tin từ người cai nghiện ma túy, từ đó thúc đẩy sự hợp tác, quan hệ tương
tác trong quá trình hỗ trợ.
* Bảo mật thông tin cho thân chủ
Bảo mật thông tin là một nguyên tắc cơ bản của ngành công tác xã hội nói chung
và trong QLTH nói riêng. Điều này thể hiện sự tôn trọng những vấn đề riêng tư của thân
chủ - đặc biệt đối với người nghiện ma túy vấn đề kỳ thị xã hội và tự kỳ thị ở họ còn rất
lớn. Tuy nhiên, với những thông tin có liên quan và ảnh hưởng đến những hành vi nguy
hiểm cho thân chủ hoặc mất an toàn, an ninh trật tự - xã hội thì nhân viên quản lý trường
hợp phải có trách nhiệm thông báo cho cơ quan chức năng mà không chờ sự đồng ý của
thân chủ.
* Nguyên tắc cá thể hóa
Những người cai nghiện ma túy có thể có những nhu cầu giống nhau song mỗi
người lại có hoàn cảnh sống khác nhau, người ở đô thị, người ở nông thôn, gia đình giàu,
nghèo, v.v. Việc cá thể hóa giúp nhân viên quản lý trường hợp đưa ra những giải pháp trợ
giúp thích hợp với từng người cai nghiện ma túy cụ thể, nhằm đáp ứng đúng nhu cầu của
thân chủ và linh hoạt trong quá trình trợ giúp.

22


* Nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ
Mỗi cá nhân đều có quyền quyết định các vấn đề thuộc về cuộc đời, những quyết
định của người khác hướng dẫn họ nhưng không nên áp đặt họ. Đối với nhân viên quản lý
trường hợp trợ giúp người cai nghiện ma túy cũng phải tôn trọng và chấp hành nguyên tắc
này.
Tuy nhiên đối với những trường hợp đặc biệt do thân chủ rối loạn tâm thần, thì
nhân viên QLTH cần lấy ý kiến từ ngươi bảo hộ họ, đồng thời những quyết định của thân
chủ có nguy cơ tổn hại đến thân chủ hay người khác thì không cần phải chấp thuận quyết
định của thân chủ mà cần thông báo cho thân chủ về quy định của pháp luật về vấn đề đó.
* Thu hút sự tham gia của thân chủ, gia đình, cộng đồng và các nhà cung cấp dịch
vụ vào tiến trình quản lý trường hợp
Đây có lẽ là nguyên tắc xuyên suốt và kết hợp kết quả của các nguyên tắc nêu trên
nhân sự tin tưởng của thân chủ, gia đình và các nhà cung cấp dịch vụ, kết nối và can thiệp
cho thân chủ để đáp ứng nhu cầu và giải quyết vấn đề thân chủ gặp phải. Đảm bảo được
nguyên tắc này sẽ đảm bảo được thành công của tiến trình trợ giúp đối với người cai
nghiện ma túy.
1.2.3. Nhiệm vụ quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy
Quản lý trường hợp là một trong các phương pháp can thiệp của công tác xã hội,
có thể hiểu như là một tiến trình của công tác xã hội, một cách thức giúp thân chủ tiếp cận
các dịch vụ trợ giúp xã hội. Đây là một quá trình quản lý từ đầu cho đến khi kết thúc,
chuyển giao đối tượng trợ giúp.
Trong phạm vi đề tài này tác giả đi sâu phân tích một số nhiệm vụ của nhân viên
quản lý trường hợp trong vấn đề cai nghiện cho người nghiện ma túy, bao gồm những
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
1.2.3.1. Thu thập thông tin về người cai nghiện ma túy
Thu thập thông tin là việc nhân viên quản lý trường hợp phối hợp với chính quyền,
các đơn vị, cá nhân có liên quan và thông qua hồ sơ học viên đang quản lý tại trung tâm

để có được những thông tin ban đầu, tiếp tục bổ sung những thông tin cá nhân khác để
đưa ra được nhu cầu thực tế của thân chủ, cụ thể hoạt động thu thập thông tin vê người cai
23


nghiện bao gồm xác định nguồn thông tin, nội dung thông tin và tình hình thu thập thông
tin.
- Nguồn thông tin gồm bản thân người cai nghiện cung cấp, bố mẹ vợ con họ,
thông qua hồ sơ lưu trữ và các nguồn khác tại cộng đồng thân chủ sinh sống.
- Nội dung thông tin: Thông tin cụ thể về đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, về
môi trường xã hội liên quan trực tiếp đến người cai nghiện (thân chủ).
- Hình thức thu thập thông tin: Khảo sát, phỏng vấn trực tiếp người cai nghiện, gia
đình thân chủ, chính quyền cơ sở, cở sở cai nghiện.
1.2.3.2. Đánh giá nhu cầu trợ giúp người cai nghiện ma túy
Đây là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết, nội dung này nhân viên QLTH phải xem
xét, xác định, đánh giá nhu cầu của người cai nghiện tại trung tâm dựa trên yếu tố nào?
Trong quá trình đánh giá sẽ gặp trở ngại gì và giải quyết ra sao, với một số yêu cầu đánh
giá nhu cầu tập trung vào nội dung sau:
- Đánh giá yếu tố cá nhân của người cai nghiện (sau đây gọi là học viên) gồm sức khỏe,
thể chất, tâm thần, mối quan hệ xã hội, khả năng kiểm soát và chăm sóc bản thân, khả năng tìm
kiếm nguồn lực, dịch vụ chính của học viên.
- Đánh giá các yếu tố liên quan đến hoàn cảnh sử dụng và nghiện ma túy của học viên
như loại ma túy sử dụng, cách dùng, liều dùng, nguyên nhân nghiện, những tổn thương, tác hại
do nghiện ma túy gây ra cho học viên, vấn đề tài chính khi sử dụng ma túy,… từ đây xác định
nhu cầu để ngăn ngừa bảo vệ người cai nghiện trong tiến trình cai nghiện của học viên.
- Đánh giá các yếu tố tác động như nguồn lực bản thân, gia đình, dòng họ, người thân,
họ hàng, khả năng kinh tế; sự quan tâm của chính quyền địa phương, đoàn thể, các tổ chức xã
hội, các hiệp hội, doanh nghiệp có thể trợ giúp người cai nghiện.
Để đánh giá xác định lựa chọn nhu cầu ưu tiên đối với người cai nghiện, nhân viên
QLTH cần lưu ý tính lâu dài và an toàn cho người cai nghiện ma túy và đòi hỏi tính xác

thực cao, kết hợp nhiều phía, nhiều chuyên môn khác nhau như y tế, quản lý nhà nước,
đoàn thể tại địa phương, công an cơ sở, đặc biệt quá trình tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ, gần
gũi sẽ giúp cho được thông tin đầy đủ, chính xác từ đó nhu cầu của người cai nghiện mới
bộc lộ rõ (sự e ngại và tự kỳ thị của người cai nghiện là một đặc điểm xã hội, hết sức lưu
ý trong quá trình xác định nhu cầu).
24


1.2.3.3. Xây dựng kế hoạch can thiệp
Xây dựng kế hoạch can thiệp trong trợ giúp người cai nghiện ma túy tại trung tâm
nhân viên QLTH sẽ cùng với bản thân người cai nghiện, gia đình họ và các bộ phận liên
quan trong trung tâm và ngoài cộng đồng cùng thảo luận đưa ra những mục tiêu, nội dung
cần can thiệp để đáp ứng nhu cầu giải quyết vấn đề cai nghiện phục hồi cho thân chủ.
Trong xây dựng kế hoạch cần lưu ý đến yếu tố những khó khăn gặp phải trong huy động
nguồn lực, vấn đề phối hợp của gia đình, của địa phương và các dịch vụ bên ngoài có thể
đáp ứng đến đâu, đáp ứng thế nào để đạt hiệu quả mong muốn ở thân chủ và nhân viên
QLTH.
Trong quản lý trường hợp đối với người cai nghiện ma túy thì lưu ý các hoạt động
đáp ứng nhu cầu về vật chất, về y tế, về hỗ trợ tâm lý và vấn đề việc làm sau cai nghiện.
Nguồn lực trong thực tế phải tính đến chính từ gia đình, họ hàng người cai nghiện và một
số cơ chế, chính sách hiện có của thành phố cho công tác cai nghiện ma túy hiện nay.
1.2.3.4. Triển khai các hoạt động trợ giúp
Trong nội dung này nhân viên QLTH sẽ cùng các thành viên liên quan thực hiện
nội dung kế hoạch trợ giúp người cai nghiện ma túy theo kế hoạch đã thống nhất. Vai trò
của nhân viên quản lý trường hợp ở đây là điều phối và thực hiện các hoạt động hỗ trợ.
Các nhiệm vụ cụ thể ở đây sẽ là các hoạt động cụ thể như hỗ trợ cắt cơn nghiện, tư
vấn, tham vấn, giáo dục sửa đổi hành vi, giáo dục giá trị sống, giáo dục kiến thức pháp
luật, giáo dục phòng chống tái nghiện, hướng nghiệp nghề, dạy nghề, tạo việc làm, kết nối
chuyển gửi về cộng đồng cho địa phương, các doanh nghiệp, các tổ chức, dịch vụ hỗ trợ
sau cai (bao gồm từ can thiệp dự phòng, can thiệp chuyên sâu, can thiệp giảm tác hại, tư

vấn điều trị nghiện cho người nghiện ma túy).
Trong nội dung này nhân viên quản lý trường hợp cần linh hoạt và sử dụng các kỹ
năng làm việc của mình để bám sát kịp thời điều phối, vận động các nguồn lực kịp thời,
liên tục, đề xuất điều chỉnh, bổ sung kế hoạch can thiệp cho phù hợp với nhu cầu của
người cai nghiện. Trong quá trình triển khai cần tạo sự vào cuộc, thay đổi tích cực từ thân
chủ, môi trường xã hội và các bên liên quan, luôn lấy thân chủ là trung tâm để đáp ứng
các nhu cầu, giải quyết vấn đề.
1.2.3.5. Lượng giá
25


×