Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

thực trạng khai thác lâm sản rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.63 KB, 33 trang )


ĐẶT VẤN ĐỀ
Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) là một bộ phận quan trọng của hệ sinh thái rừng.
Hệ sinh thái rừng nhiệt đới là một đơn vị của tự nhiên, một thể thống nhất, biện
chứng của các loài cây gỗ lớn, cây bụi thảm tươi, thực vật ký sinh, phụ sinh, dây
leo, các động vật, vi sinh vật, các chất hữu cơ, vô cơ… Tập hợp các cây cho LSNG
là một bộ phận hợp thành của đơn vị tự nhiên đó, rất phong phú cả về số loài, tuổi,
dạng sống, ứng dụng và giá trị của nó.Lâm sản ngoài gỗ hình thành bởi hai nguồn:
nguồn phát triển tự nhiên và nguồn do con người nuôi trồng.
Lâm sản ngoài gỗ phần lớn có giá trị kinh tế cao, cung cấp những sản phẩm
có tác dụng nhiều mặt đối với đời sống con người, như: nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến, sản xuất đồ gia dụng, thuốc chữa bệnh... Đặc biệt, phát triển lâm
sản ngoài gỗ sẽ góp phần tăng cường đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn gien, đảm
bảo khả năng phòng hộ của rừng, giải quyết việc làm cho nông dân.
Tuy nhiên, tiềm năng kinh tế của LSNG chưa được phát huy, chưa đóng
góp xứng đáng cho nền kinh tế quốc dân, mặt khác trong một thời gian dài, việc sử
dụng rừng chủ yếu là khai thác gỗ, ít quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển LSNG
nên nguồn tài nguyên này có xu hướng bị suy giảm, ảnh hưởng đến cuộc sống của
các cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng.
Khu bảo tồn thiên nhiên Phia Oắc - Phia Đén nơi lưu giữ đa dạng sinh học
cao và là nơi phục hồi, lưu giữ các nguồn gen động thực vật phục vụ nghiên cứu
khoa học, phát triển dịch vụ, du lịch sinh thái, điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất đai
chống xói mòn, rửa trôi, xạt lở đất, góp phần bảo tồn và phát triển bền vững trong
khu vực. Tuy nhiên, trong suốt thời gian dài chưa được quy hoạch nên chưa điều
tra, đánh giá tổng hợp tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội của vùng, các chương
trình, dự án về bảo tồn và phát triển bền vững chưa được thực hiện, những tác động
bất lợi tới rừng, chặt phá rừng diễn ra ngày một mạnh hơn, đa dạng sinh học đã và
đang bị suy giảm đáng kể cả về số và chất lượng, nhiều loài động, thực vật quý
hiếm, đặc hữu đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Rừng trở nên nghèo về trữ



lượng và tổ thành thực vật, khu hệ động vật đã bị xâm hại một cách nghiêm trọng
trong thời gian dài từ năm 1986 đến nay. Các loài thú lớn, các loài động vật đặc
hữu không còn thấy xuất hiện.
Trước thực trạng đó, nhằm góp phần sử dụng hợp lý lâm sản ngoài gỗ và nâng
cao hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học tại Khu Bảo tồn thiên nhiên, việc thực hiện
đề tài: “Đánh giá thực trạng khai thác lâm sản ngoài gỗ làm dược liệu và thực
phẩm tại xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng” là cần thiết, có ý
nghĩa cả khoa học và thực tiễn sản xuất, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu
toàn cầu như hiện nay.


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Khái quát về lâm sản ngoài gỗ
1.1.1 Một số định nghĩa về lâm sản ngoài gỗ.
Tử xưa đến nay đã có nhiều tên gọi khác nhau về lâm sản ngoài gỗ được sử
dụng rộng rãi như: lâm sản phụ, lâm sản phi gỗ, sản phẩm không phải là gỗ.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở Việt nam lâm sản được phân
chia thành hai loại:
- Lâm sản chính (principale richesse forestière) là những sản phẩm gỗ;
- Sản phẩm phụ của rừng hay lâm sản phụ (produit secondaire de la forêt),
bao gồm động vật và thực vật cho những sản phẩm ngoài gỗ. Từ 1961, lâm sản phụ
được coi trọng và được mang tên đặc sản rừng. “Đặc sản rừng bao gồm cả thực vật
và động vật rừng là nguồn tài nguyên giầu có của đất nước. Nó có vị trí quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, trong đời sống nhân dân, quốc
phòng và xuất khẩu…” ( Bộ Lâm nghiệp – Kế hoạch phát triển Đặc sản rừng,
1981-1990).
Theo định nghĩa đó Đặc sản rừng là một bộ phận của tài nguyên rừng
nhưng chỉ tính đến những sản phẩm có công dụng hoặc giá trị đặc biệt và ngoài các
loài thực vật dưới tán rừng còn bao gồm các loài cây cho gỗ đặc hữu hoặc được coi
là đặc hữu của Việt Nam, như Pơ mu, Hoàng đàn, Kim giao… , như vậy thuật ngữ

đặc sản cũng mang ý nghĩa kinh tế, vì không tính đến những sản phẩm không có
hoặc chưa biết giá trị. Vì thế, danh mục những đặc sản rừng trong từng thời điểm
cũng tập trung sự chú ý vào một số sản phẩm nhất định.
Ngày nay, trong Lâm nghiệp thuật ngữ lâm sản ngoài gỗ được dùng phổ
biến, chính thức thay cho thuật ngữ lâm sản phụ (minor forest product/ secondary
forest product). Định nghĩa của thuật ngữ này được thông qua trong hội nghị tư vấn
lâm nghiệp Châu Á-Thái Bình Dương tại Băng Cốc, 5-8-1991: “Lâm sản ngoài gỗ
(Non-wood forest product) bao gồm những sản phẩm tái tạo được ngoài gỗ, củi và
than gỗ. Lâm sản ngoài gỗ được lấy từ rừng, đất rừng hoặc từ những cây thân gỗ”.


Do đó, không được coi là LSNG những sản phẩm như cát, đá, nước, dịch vụ du lịch
sinh thái.
- Lâm sản ngoài gỗ bao gồm “tất cả các sản phảm sinh vật (trừ gỗ tròn công
nghiệp, gỗ làm dăm, gỗ làm bột giấy) có thể lấy ra từ hệ sinh thái tự nhiên, rừng
trồng được dùng trong gia đình, mua bán hoặc có ý nghĩa tôn giáo, văn hóa hoặc xã
hội”. Việc sử dụng hệ sinh thái cho mục đích giải trí, bảo tồn thiên nhiên, quản lý
vùng đệm… thuộc về lĩnh vực dịch vụ của rừng” (Wichens, 1991).
- Trong hội nghị các chuyên gia LSNG của các nước vùng Châu Á, Thái
Bình Dương họp tại Bangkok, Thái Lan từ ngày 5-8/11/1991 đã thông qua định
nghĩa về LSNG như sau: “Lâm sản ngoài gỗ (Non-wood forest products) bao gồm
tất cả các sản phẩm cụ thể, có thể tái tạo, ngoài gỗ, củi và than. Lâm sản ngoài gỗ
được khai thác từ rừng, đất rừng hoặc từ các cây thân gỗ”
- Thực vật rừng gồm tất cả các loài cây, loài cỏ dây leo bậc cao và bậc thấp
phân bố trong rừng. Những loài cây không cho gỗ hoặc ngoài gỗ còn cho các sản
phẩm quý khác như nhựa Thông, quả Hồi, vỏ Quế hoặc sợi Song mây là thực vật
đặc sản rừng” (Lê Mộng Chân, Vũ Dũng, 1992).
- LSNG là tất cả những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật không kể gỗ cũng
như những dịch vụ có được từ rừng và đất rừng. Dịch vụ trong định nghĩa này như
là những hoạt động từ du lịch sinh thái, làm dây leo, thu gom nhựa và các hoạt

động liên quan đến thu hái và chế biến những sản phẩm này (FAO, 1995).
- LSNG bao gồm các nguyên liệu có nguồn gốc sinh vật, không phải là gỗ,
được khai thác từ rừng để phục vụ con người. Chúng bao gồm thực phẩm , thuốc,
gai vị, tinh dầu, nhựa, nhựa mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã
(còn sống hay sản phẩm của chúng), củi và các nguyên liệu thô như tre, nứa, song,
mây, gỗ nhỏ và sợi (J.H.De Beer, 1996).
- LSNG là các sản phẩm nguồn gốc sinh vật, loại trừ gỗ lớn, có ở rừng, ở
đất rừng và các cây bên ngoài rừng (FAO, 1999).


- Theo Trần Ngọc Hải (2000): Lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các vật liệu
sinh học khác gỗ được khai thác từ rừng (hiểu theo nghĩa rộng gồm rừng tự nhiên và
rừng trồng) phục vụ mục đích của con người. Bao gồm các loài thực vật, động vật
dùng làm thực phẩm, làm dược liệu, tinh dầu, nhựa sáp, nhựa dính, nhựa mủ, cao
su, tanin, màu nhuộm, chất béo, cây cảnh, nguyên liệu giấy, sợi…
- Theo Vũ Tiến Hinh và Phạm Văn Điển (2003): Lâm sản ngoài gỗ bao
gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh học và các dịch vụ thu được từ rừng
hoặc từ bất kỳ vùng đất nào có kiểu sử dụng đất tương tự, loại trừ gỗ lớn ở tất cả
các hình thái của nó.
Theo các định nghĩa như đã nêu ở trên, LSNG là một phần tài nguyên rừng.
Như vậy, đi tìm chỉ một định nghĩa cho LSNG là không thể. Định nghĩa này có thể thay
đổi phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, vào quan điểm sử dụng, phát triển tài
nguyên và nhu cầu khác. Các loại sản phẩm ngoài gỗ sẽ ngày càng được tăng lên do sự
tìm tòi, phát hiện giá trị của chúng để phục vụ cuộc sống cho con người, chúng gồm các
sản phẩm qua chế biến hoặc không cần qua chế biến.
1.1.2. Phân loại lâm sản ngoài gỗ
- Phân loại LSNG theo hệ thống sinh giới: Theo phân loại kinh điển, sinh giới
được chia là hai giới chính: Động vật và thực vật. Giới động vật và giới thực vật, tuy
rất phong phú và đa dạng nhưng đều có thể sắp xếp một cách khách quan vào hệ
thống các bậc phân loại từ lớn đến nhỏ: Giới\Ngành\Lớp\Bộ\Họ\Chi\Loài. Ưu điểm

của cách phân loại này là thấy được mối quan hệ thân thuộc giữa các loài và nhóm
loài cùng sự tiến hóa của chúng. Phương pháp phân loại này chú ý nhiều đến đặc
điểm sinh học của loài. Nhược điểm là đòi hỏi người sử dụng phải có những hiểu
biết nhất định về phân loại động, thực vật (Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên, 2000).
- Phân loại LSNG theo nhóm giá trị sử dụng: Là cách phân loại mà các LSNG
khác nhau không kể nguồn gốc trong hệ thống sinh giới, nơi phân bố… có cùng giá
trị sử dụng thì được xếp trong cùng một nhóm. Ví dụ: Một hệ thống phân loại LSNG
thực vật theo nhóm công dụng như sau:


- Nhóm cây cho lương thực, thực phẩm;
- Nhóm cây cho sợi
- Nhóm cây cho ta-nanh
- Nhóm cây cho màu nhuộm
- Nhóm cây làm dược liệu
- Nhóm cây cho nhựa, sáp, sơn
- Nhóm cây dùng làm vật liệu nhẹ và thủ công mỹ nghệ
- Nhóm cây làm cảnh, cho bóng mát.
Ưu điểm của phương pháp phân loại này là đơn giản, dễ áp dụng và sử dụng
nhiều kiến thức bản địa của người dân, nên người dân dễ nhớ, đồng thời khuyến
khích được họ tham gia trong quá trình quản lý tài nguyên. Ngoài ra phương pháp
này cũng được các nhà kinh doanh, nhà nghiên cứu LSNG quan tâm.
Nhược điểm của phương pháp phân loại này là chỉ mới nhấn mạnh tới giá trị
sử dụng, mà chưa đề cập đến đặc điểm sinh vật học (đặc điểm hình thái, sinh thái,
phân bố…) của các loài, nên khả năng nhận biết các loài gặp nhiều khó khăn hơn
nữa một số loài có nhiều công dụng khi phân loại dễ bị trùng vào nhiều nhóm khác
nhau.
Hệ thống phân loại khác lại dựa vào các sản phẩm LSNG, như hệ thống phân
loại đã thông qua trong Hội nghị LSNG Thái Lan, tháng 11/1991 (Bài giảng Lâm
sản ngoài gỗ, 2002. Dự án LSNG, Hà Nội). Trong hệ thống này lâm sản ngoài gỗ

được chia làm 6 nhóm:
- Nhóm 1: Các sản phẩm có sợi: tre nứa, song mây, lá và thân có sợi và các loại cỏ.
- Nhóm 2: Sản phẩn làm thực phẩm: các sản phẩm nguồn gốc thực vật: thân,
chồi, rễ, củ, lá, hoa, quả, quả hạch, gia vị, hạt có dầu và có nấm. Các sản phẩm
nguồn gốc động vật: mật ong, thịt động vật rừng, cá, trai ốc, tổ chim ăn được, trứng
và côn trùng.
- Nhóm 3: Thuốc và mỹ phẩm có nguồn gốc thực vật


- Nhóm 4: Các sản phẩm chiết xuất: gôm, nhựa dầu, nhựa mủ, ta-nanh và
thuốc nhuộm, dầu béo và tinh dầu.
- Nhóm 5:: Động vật và các sản phẩm từ động vật không làm thực phẩm: tơ,
động vật sống, chim, côn trùng, lông mao, lông vũ, da, sừng, ngà, xương và nhựa
cánh kiến đỏ.
- Nhóm 6: Các sản phẩm khác: như lá Bidi (lá thị rừng dùng gói thuốc lá ở Ấn Độ).
Bốn năm sau, chuyên gia về lâm sản ngoài gỗ của FAO, C.Chandrasekharan
(FAO, 1995) đã đề xuất hệ thống phân loại lâm sản ngoài gỗ gồm 4 nhóm chính như
sau:
- Cây sống và các bộ phận của cây
- Động vật và các sản phẩm của động vật
- Các sản phẩm được chế biến (các gia vị, dầu thực vật…)
- Các dịch vụ rừng.
Ở Việt Nam, khung phân loại lâm sản ngoài gỗ đầu tiên được chính thức
thừa nhận bằng văn bản đó là: “Danh mục các loài đặc sản rừng được quản lý thống
nhất theo ngành”. Đây là văn bản kèm theo Nghị định 160 - HĐBT ngày
10/12/1984 của Hội đồng bộ trưởng về việc thống nhất quản lý các đặc sản rừng
(nay gọi là lâm sản ngoài gỗ).
Theo danh mục này đặc sản rừng được chia làm 2 nhóm lớn: Hệ cây rừng và
Hệ động vật rừng. Mỗi nhóm lớn lại chia nhiều nhóm phụ sau:
* Hệ cây rừng:

+ Nhóm cây rừng cho nhựa, ta-nanh, dầu và tinh dầu như: thông, quế, hồi,
tràm, đước, vẹt, trám, bạch đàn, bồ đề…
+ Nhóm cây rừng cho dược liệu như: ba kích, sa nhân, thiên niên kiện, thảo
quả, hà thủ ô, đẳng sâm, kỳ nam, hoằng đằng…
+ Nhóm cây rừng cho nguyên liệu làm các loại hàng tiểu thủ công và mỹ
nghệ như: song, mây, tre, trúc, lá buông…


+ Các sản phẩm công nghiệp được chế biến từ nguyên liệu có nguồn gốc từ các
loài cây rừng như: cách kiến Shellac, dầu thông, tùng hương, dầu trong, chai cục…
* Hệ động vật rừng:
Bao gồm các nhóm động vật rừng cho da, lông, sừng, xương, ngà, thịt, xạ,
mật; cho dược liệu như: voi, hổ, báo, trâu rừng, bò rừng, hươu, nai, rắn, trăn, kỳ đà,
tắc kè, khỉ, nhím, vượn, ong rừng, các loài chim quý, các nhóm động vật rừng có
đặc dụng khác.
Mặc dù còn vài điểm chưa hợp lý, tuy nhiên có hệ thống phân loại lâm sản
ngoài gỗ trên là một mốc quan trọng, đánh giá sự tiến bộ về nhận thức, sự hiểu biết
về lâm sản ngoài gỗ của Việt Nam.
1.2 Tình hình nghiên cứu LSNG
1.2.1 Tình hình nghiên cứu LSNG trên thế giới
Ngay từ những năm 1950 các nhà khoa học nghiên cứu về cây thuốc của
Liên Xô đã có các nghiên cứu về cây thuốc trên quy mô rộng lớn. Năm 1952 các tác
giả A.l. Ermakov, V.V. Arasimovich,... đã nghiên cứu thành công công trình
“Phương pháp nghiên cứu hoá sinh – sinh lý cây thuốc”. Công trình này là cơ sở cho
việc sử dụng và chế biến cây thuốc đạt hiệu quả tối ưu nhất, tận dụng tối đa công
dụng của các loài cây thuốc. Các tác giả A.F.Hammermen, M.D. Choupinxkaia và
A.A. Yatsenko đã đưa ra được giá trị của từng loài cây thuốc (cả về giá trị dược liệu
và giá trị kinh tế) trong tập sách “Giá trị cây thuốc”. Năm 1972 tác giả N. G.
Kovalena đã công bố rộng rãi trên cả nước Liên Xô (cũ) việc sử dụng cây thuốc vừa
mang lại lợi ích cao vừa không gây hại cho sức khoẻ của con người. Qua cuốn sách

“Chữa bệnh bằng cây thuốc” tác giả Kovalena đã giúp người đọc tìm được loại cây
thuốc và chữa đúng bệnh với liều lượng đã được định sẵn (Trần Thị Lan, 2005).[19]
Năm 1954 tác giả Từ Quốc Hân đã nghiên cứu thành công công trình
“Dược dụng thực vật cấp sinh lý học”. Cuốn sách này giới thiệu tới người đọc cách
sử dụng từng loại cây thuốc, tác dụng sinh lý, sinh hoá của chúng, công dụng, cách
phối hợp các loài cây thuốc treo từng địa phương như “Giang Tô tỉnh thực vật dược


tài chí”, “Giang Tô trung dược danh thực đồ khảo”, “Quảng Tây trung dược trí”...
(Trần Hồng Hạnh, 1996). [17]
Năm 1968, một số nhà nghiên cứu cây thuốc tại Vân Nam, Trung Quốc đã
xuất bản cuốn sách “Kỹ thuật gây trồng cây thuốc ở Trung Quốc”. (Phan Văn
Thắng, 2002). [25]
Mendelsohn, 1989 đã căn cứ vào giá trị sử dụng của lâm sản ngoài gỗ để
phân thành 5 nhóm: Các sản phẩm thực vật ăn được, keo dán và nhựa, thuốc
nhuộm và ta nanh, cây cho sợi, cây làm thuốc. Ông cũng căn cứ vào thị trường tiêu
thụ để phân lâm sản ngoài gỗ thành 3 nhóm: Nhóm bán trên thị trường, nhóm bán ở
địa phương và nhóm sử dụng trực tiếp bởi người thu hoạch. Nhóm thứ ba thường
chiếm tỷ trọng rất cao nhưng lại chưa tính được giá trị. Theo Mendelsohn chính
điều này đã làm cho lâm sản ngoài gỗ trước đây bị lu mờ và ít được chú ý đến
Phan Văn Thắng, 2002). [25]
Năm 1992, J.H. de Beer - một chuyên gia lâm sản ngoài gỗ của tổ chức Nông
lương thế giới - khi nghiên cứu về vai trò và thị trường của lâm sản ngoài gỗ đã nhận
thấy giá trị to lớn của thảo quả đối với việc tăng thu nhập cho người dân sống trong
khu vực vùng núi nơi có phân bố thảo quả nhằm xoá đói giảm nghèo, đồng thời là yếu
tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội vùng núi và bảo tồn phát triển tài nguyên rừng.
Về nhu cầu thị trường của thảo quả là rất lớn, chỉ tính riêng ở Lào, hàng năm xuất
khẩu khoảng 400 tấn sang Trung Quốc và Thái Lan. Đây là công trình nghiên cứu
tổng kết về vai trò thảo quả đối với con người, xã hội cũng như tình hình sản xuất
buôn bán và dự báo thị trường, tiềm năng phát triển của thảo quả (Phan Văn Thắng,

2002). [25]
Theo Falconer, 1993, hầu hết mọi người đều thừa nhận lâm sản ngoài gỗ
như một yếu tố quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội miền núi. Ở Ghana, lâm sản
ngoài gỗ có vai trò cung cấp thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng,...
đồng thời cũng chiếm gần 90% nguồn thu nhập của các hộ gia đình (Phan Văn
Thắng, 2002). [25]


Năm 1996, Tiền Tín Trung, một nhà nghiên cứu về cây thuốc dân tộc tại
Viện Vệ sinh dịch tễ công cộng Trung Quốc biên soạn cuốn sách “Bản thảo bức
tranh màu Trung Quốc”. Cuốn sách đã mô tả tới hơn 1000 loài cây thuốc ở Trung
Quốc, một trong số đó là thảo quả. Nội dung đề cập là: Tên khoa học, một số đặc
điểm sinh vật học và sinh thái học cơ bản, công dụng và thành phần hoá học của
thảo quả (Phan Văn Thắng, 2002). [25]
Năm 1999, trong cuốn “Tài nguyên thực vật của Đông Nam Á” L.S. de
Padua, N. Bunyapraphatsara và R.H.M.J. Lemmens đã tổng kết các nghiên cứu về
các cây thuộc chi Amomum trong đó có thảo quả. Ở đây tác giả đề cập đến đặc
điểm phân loại của thảo quả, công dụng, phân bố, một số đặc điểm sinh vật học và
sinh thái học của thảo quả. Tác giả cũng trình bày kỹ thuật nhân giống, trồng, chăm
sóc bảo vệ, thu hái, chế biến, tình hình sản xuất và buôn bán thảo quả trên thế giới
(Phan Văn Thắng, 2002). [25]
- Nhiều nước trên thế giới như Brazil, Colombia, Equado, Bolivia, Thái Lan,
Inđonesia, Malaysia, Ấn Độ, Trung Quốc đã và đang nghiên cứu các sản phẩm lâm
sản ngoài gỗ, trong đó có các loại rau, quả rừng mang lại nhiều dinh dưỡng, nhằm
nâng cao đời sống của người dân bản địa và bảo vệ đa dạng sinh học của các hệ sinh
thái rừng địa phương (Everlyn Mathias, 2001). [32]
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu C. Chandrasekhanran (1995) - một
chuyên gia lâm sản ngoài gỗ của FAO, đã chia lâm sản ngoài gỗ thành 4 nhóm
chính như sau:
A. Cây sống và các bộ phận của cây.

B. Động vật và các sản phẩm của động vật.
C. Các sản phẩm được chế biến (các gia vị, dầu, nhựa thực vật...).
D. Các dịch vụ từ rừng..
Các nghiên cứu chỉ ra rằng rừng nhiệt đới không chỉ phong phú về tài
nguyên gỗ mà còn đa dạng về các loại thực vật cho sản phẩm ngoài gỗ. Khi nghiên
cứu đa dạng lâm sản ngoài gỗ trong phạm vi một bản ở Thakek, Khammouan, Lào


người ta đã thống kê được 306 loài lâm sản ngoài gỗ trong đó có 223 loài làm thức
ăn ( Phan Văn Thắng, 2002). [25]
Theo ước tính của Quỹ thiên nhiên thế giới (WWF) có khoảng 35.00070.000 loài trong số 250.000 loài cây được sử dụng vào mục đích chữa bệnh trên
toàn thế giới. Nguồn tài nguyên cây thuốc này là kho tàng vô cùng quý giá của các
dân tộc hiện đang khai thác và sử dụng để chăm sóc sức khoẻ, phát triển kinh tế,
giữ gìn bản sắc của các nền văn hoá. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) ngày nay có khoảng 80% dân số các nước đang phát triển có nhu cầu chăm
sóc sức khoẻ ban đầu phụ thuộc vào nguồn dược liệu hoặc qua các chất chiết xuất
từ dược liệu (Nguyễn Văn Tập, 2006). [23]
1.2.2 Tình hình nghiên cứu LSNG ở Việt Nam
Vào những năm 1960 đến những năm 1980, một số nhà khoa học khi nghiên
cứu về cây thuốc ở nước ta đề cập đến thảo quả. Do thảo quả là cây “truyền thống”,
có đặc thù riêng khác với một số loài lâm sản ngoài gỗ là có phạm vi phân bố hẹp,
chúng được trồng chủ yếu dưới tán rừng ở các tỉnh phía Bắc như Lào Cai, Yên Bái,
Hà Giang nên các nhà khoa học ít quan tâm. Các công trình nghiên cứu liên quan
còn tản mạn ( Phan Văn Thắng, 2002). [25]
Sau năm 1975, Vàng đắng (Coscinium fenestrum) nguồn nguyên liệu cho
berberin coi là có vùng phân bố rộng, có trữ lượng lớn. Song chỉ sau hơn chục
năm khai thác loài Vàng Đắng đã trở nên rất hiếm và ở tình trạng sẽ nguy cấp
(V) trong sách đỏ Việt Nam. Ba Kích (Morinda offcinalis) là một cây thốc có tác
dụng tăng cường khả năng sinh dục ở nam giới, chữa thấp khớp và một số bệnh
khác đã bị khai thác mỗi năm vài chục tấn liên tục nên đã cạn kiệt (Viện Dược

Liệu, 2002).[31]
Nghiên cứu của Giáo sư Đỗ Tất Lợi (1975) đã cho rằng: thảo quả là loài
cây thuốc được trồng ở nước ta vào khoảng năm 1990. Trong thảo quả có khoảng
1-1,5% tinh dầu màu vàng nhạt, mùi thơm, ngọt, vị nóng cay dễ chịu có tác dụng


chữa các bệnh đường ruột. Đây là một công trình nghiên cứu khẳng định công dụng
của thảo quả ở nước ta. Tuy nội dung nghiên cứu về thảo quả của công trình còn ít,
nhưng nó đã phần nào mở ra một triển vọng cho việc sản xuất và sử dụng thảo quả
trong y học ở nước ta.
Năm 1982, Giáo sư Đoàn Thị Nhu công bố kết quả nghiên cứu của mình về
“Bảo vệ, khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc thiên nhiên và phát triển trồng cây
thuốc trên rừng ở Việt Nam”. Trong đó tác giả kết luận: thảo quả là cây dược liệu
quý và thích nghi tốt ở điều kiện dưới tán rừng, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có
nghiên cứu nào về kỹ thuật gây trồng thảo quả dưới tán rừng. (Phan Văn Thắng,
2002) [25]
Theo kết quả điều tra của Viện Dược liệu Bộ Y tế năm 1985, nước ta có
1863 loài cây thuốc thuộc 236 họ thực vật. Theo giáo sư Võ Văn Chi trong cuốn
“Từ điển cây thuốc” số loài cây thuốc ở Việt Nam là trên 3000 loài. Trên 3/4 cây
trong số này là những cây mọc tự nhiên, phần lớn sinh sống ở rừng. Kết quả điều
tra sơ bộ ban đầu ở rừng một số tỉnh miền bắc cho thấy tỷ lệ cây làm thuốc thường
chiếm tỷ lệ rất cao (Viện Dược Liệu, 2002). [31]
Nguyễn Tiến Bân và cs (1994). Các nhà nghiên cứu đã thống kê được 113
loài thực vật rừng làm thực phẩm, gia vị có ở Việt Nam và tìm hiểu giá trị dinh
dưỡng, phân biệt rau ăn được và rau độc, đặc điểm nơi sống, cách thu hái, chế biến,
thành phần dinh dưỡng... Đây là một đề tài khoa học của nhiều thế hệ các nhà
nghiên cứu đã điều tra, khảo sát, tìm hiểu, trong một thời gian dài đầy công phu và
tỉ mỉ trên nhiều vùng sinh thái khác nhau.(Nguyễn Tiến Bân, 1994) [1].
Theo Lê Trần Đức, 1997, Sa nhân là cây thuốc quý trong y học cổ truyền
phương đông, thuộc chi Sa Nhân (Amomum Roxb), họ Gừng (Zingiberaceae). Trên

thế giới chi Amomum roxb có khoảng 250 loài phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới
núi cao ở Ấn Độ có 48 loài, Malaysia có 18 loài, Trung Quốc có 24 loài. Ở nước ta,


Sa nhân phân bố ở hầu hết các tỉnh vùng núi Bắc và Trung Bộ có khoảng 30 loài
trong đó có gần 30 loài mang tên Sa nhân, trong đó 23 loài đã được xác định chắc
chắn. Ở Viện dược liệu và trường Đại Học Dược hiện có 12 mẫu vật chưa đủ tài
liệu định tên loài đều mang tên Sa Nhân (theo Nguyễn Tập). Ở Việt Nam, Sa nhân
đã được biết đến từ rất lâu đời là vị thuốc cổ truyền trong y học dân tộc. Bước đầu
đã thống kê được trên 60 đơn thuốc có vị Sa Nhân dùng trong các trường hợp ăn
không tiêu, kiết lỵ, đau dạ dày, phong tê thấp, sốt rét, đau răng, phù thũng,…Ngoài
ra Sa nhân còn dùng trong sản xuất hương liệu để sản xuất xà phòng, nước gội đầu.
Các tác giả đã nghiên cứu đặc điểm sinh thái học, vòng đời tái sinh, cấu tạo, nơi
phân bố, kỹ thuật, thời gian gây trồng, thu hoạch của sa nhân (Lê Trần Đức, 1997).
Năm 1999, khi nghiên cứu ở Vườn quốc gia Ba Vì, Nguyễn Văn Sản và cs,
đưa ra kết luận: LSNG là nguồn thu nhập quan trọng đối với cuộc sống của người
dân nông thôn. Tác giả cho rằng một trong những nguyên nhân mất rừng, làm suy
thoái đa dạng sinh học có nguồn gốc từ đời sống khó khăn của người dân, lâm sản
ngoài gỗ bị sử dụng không hợp lý, cạn kiệt. Một trong những giải pháp có hiệu quả
để giải quyết vấn đề đời sống khó khăn của người dân mà vẫn bảo tồn và phát triển
rừng bền vững ở nước ta là phát triển tài nguyên LSNG.
Nguyễn Ngọc Bình và cs (2000), với cuốn sách “Trồng cây nông nghiệp,
dược liệu và đặc sản dưói tán rừng”. Tác giả đã giới thiệu giá trị kinh tế, đặc điểm
hình thái, sinh thái, phân bố, kỹ thuật gây trồng 28 loài lâm sản ngoài gỗ như: Ba
kích, sa nhân, thảo quả, trám trắng, mây nếp,…
Trước yêu cầu bảo tồn và trồng thêm Ba kích để làm thuốc, từ năm 1994
đến 2002, Viện Dược liệu đã phối hợp với một số hộ nông dân ở huyện Đoan
Hùng, tỉnh Phú Thọ xây dựng thành công một số mô hình trồng cây Ba kích. Trong
đó có mô hình Ba kích trồng xen ở vườn gia đình và vườn trang trại, mô hình trồng
Ba kích ở đồi và đất nương rấy cũ. Bước đầu các mô hình này đã đem lại những

hiệu quả đáng kể (Nguyễn Chiều, Nguyễn Tập, 2006) [10]


Năm 2001, Vũ Văn Dũng và cs đã đề xuất cách phân loại mới, theo các tác giả,
lâm sản ngoài gỗ được chia ra làm 6 nhóm chính bao gồm: Sản phẩm có sợi, sản phẩm
dùng làm thực phẩm, các sản phẩm thuốc và mỹ phẩm, các sản phẩm chiết xuất, động
vật và các sản phẩm động vật khác làm thực phẩm, làm thuốc, các sản phẩm khác gồm
cây cảnh, lá để gói thức ăn và hàng hoá, nhìn chung, mỗi cách phân loại đều có những
tồn tại nhất định, nhưng chúng đều có ý nghĩa trong nghiên cứu về sự đa dạng, phong
phú của LSNG, về tiềm năng phát triển ngành LSNG ở Việt Nam.
Năm 2001, trong quá trình thực hiện dự án “Sử dụng bền vững lâm sản
ngoài gỗ” tại vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ và vùng đệm Vườn quốc
gia Ba Bể các nhà nghiên cứu kết luận rằng: phát triển lâm sản ngoài gỗ là một
trong những hướng đi đem lại hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng mục tiêu nâng cao chất
lượng sống cho người dân, từ đó xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế xã hội
trong khu vực (Phan Văn Thắng, 2002). [25]
Trong công trình nghiên cứu “Giá trị và sử dụng lâm sản ngoài gỗ ở 2 tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kạn” của Phan Văn Thắng và cs (2001) cho thấy giá trị sử dụng của lâm sản
ngoài gỗ đối với người dân rất lớn, 90% số hộ dân sống dựa vào rừng. Sản phẩm khai
thác chủ yếu hiện nay là gỗ và lâm sản ngoài gỗ như măng, tre, trúc, hồi, giẻ,... và cây
dược liệu. Thu nhập từ lâm sản ngoài gỗ trong mỗi hộ gia đình đứng thứ 2 trong cơ cấu
thu nhập của hộ gia đình và chiếm trung bình khoảng 22% tổng thu nhập kinh tế.
Tìm hiểu việc sử dụng thực vật rừng làm thuốc, rau của nhân dân các xóm
Bản Cám, Nà Nặm thuộc Vườn quốc gia Ba Bể - tỉnh Bắc Kạn, La Quang Độ (2001).
Tác giả đã xác định được tên, giá trị sử dụng, đặc điểm sinh thái, nơi phân bố của 15
loài thực vật rừng làm rau ăn và kinh nghiệm của người dân tộc trong khai thác, sử
dụng, chế biến các loài này. Đề tài là một sự đóng góp quan trọng cho tỉnh Bắc Kạn
trong việc đánh giá hiện trạng nguồn tài nguyên lâm sản ngoài gỗ. ( La Quang Độ)
[25]



Trồng và chế biến Thạch đen - một nghề cổ truyền của dân tộc Tày Nùng,
Phùng Tửu Bôi (2005). Cây Thạch đen có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng được
nhập vào ta từ rất lâu đời. Ở Việt Nam cây đã được trồng ở một số nơi, hiện đang
trồng nhiều ở Lạng Sơn và Cao Bằng, nhiều nhất là ở ba xã Chi Lăng, Kim Đồng và
Tân Tiến thuộc huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Theo tác giả Thạch đen là một
loài lâm sản ngoài gỗ có nhiều giá trị và triển vọng, cần có chính sách và kỹ thuật hỗ
trợ để người dân có thể phát triển lâu dài loại hàng hoá này. (Phùng Tửu Bôi, 2005)
[7]
Kiến thức bản địa về kinh doanh tre lấy măng ở vùng Đông Bắc Việt Nam,
Nguyễn Danh Minh và cs (2005). Để khai thác tiềm năng sẵn có về tre, kết hợp kinh
nghiệm địa phương về kinh doanh tre lấy măng với khoa học hiện địa, góp phần thúc
đẩy kinh doanh măng tre ở Việt Nam, đề tài nghiên cứu kiến thức bản địa kinh doanh
tre lấy măng ở vùng Đông Bắc Việt Nam được thực hiện từ năm 2004. Mục tiêu của
đề tài nhằm xác định những loài tre có thể kinh doanh lấy măng; tổng kết kinh nghiệm
địa phương và đề xuất mô hình kỹ thuật để kinh doanh tre lấy măng hiệu quả và bền
vững. (Nguyễn Thị Thoa) [27].
Khi nghiên cứu các biện pháp phát triển bền vững nguồn tài nguyên thực
vật phi gỗ tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, Ninh Khắc Bản (2003) đã thống kê được
29 loài cây dùng làm thuốc và cây cho tinh dầu. Trong đó tác giả đã lựa chọn được
một số loài cây triển vọng để đưa vào phát triển: Thảo quả, Thiên niên kiện, Xuyên
khung,...
Theo Ninh Khắc Bản (2003), khi điều tra về nguồn thực vật phi gỗ tại
Hương Sơn – Hà Tĩnh bước đầu đã xác định được khoảng 300 loài cây có thể sử
dụng để làm thuốc. Tuy nhiên trong quá trình điều tra thấy có khoảng 25 loài cây
được sử dụng làm thuốc chữa bệnh như: Hà thủ ô, Thiên niên kiện, Thạch xương
bồ, Ngũ gia bì, Sa nhân...


Nghiên cứu một số bài thuốc, cây thuốc dân gian của cộng đồng dân tộc thiểu

số tại buôn Đrăng Phốk - Vùng lõi VQG Yok Đôn - Huyện Buôn Đôn –Tỉnh Dak
Lak, Nguyễn Văn Thành và cs, 2004. Nghiên cứu đã chỉ ra từ cộng đồng các bài
thuốc, cây thuốc dân gian dùng để trị các loại bệnh thường gặp trong cuộc sống từ đó
lựa chọn các bài thuốc, cây thuốc hay, quan trọng để bảo tồn và phát triển nhân rộng
dựa trên cơ sở sự lựa chọn có sự tham gia của người dân. Đề tài đã ghi nhận được 46
bài thuốc với tổng cộng 69 loài cây làm thuốc mà người dân tại cộng đồng đã sử dụng
để điều trị từ các bệnh thông thường đến các bệnh có thể gọi là nan y và đã sắp xếp
thành 9 nhóm các bài thuốc theo nhóm bệnh.
Đề xuất về bảo tồn và phát triển nguồn cây thuốc tại Vườn quốc gia Tam Đảo,
Ngô Quý Công và cs trong 2 năm 2004-2005 nhóm nghiên cứu đã tiến hành điều tra
việc khai thác, sử dụng cây thuốc nam tại vùng đệm của Vườn quốc gia, nghiên cứu kỹ
thuật nhân giống, gây trồng một số loài cây thuốc quý nhằm bảo tồn và phát triển cho
mục đích gây trồng thương mại.
Cũng trong thời gian này tác giả Nguyễn Tập và cộng sự (2005) đã điều tra
đánh giá hiện trạng và tiềm năng về y học cổ truyền trong cộng đồng các dân tộc tỉnh
Bắc Kạn, kết quả đã thu thập được nhiều cây thuốc, bài thuốc các thầy lang trong cộng
đồng thường sử dụng, nhằm kế thừa và quảng bá rộng rãi những trí thức bản địa này
của địa phương. Những vấn đề đặt ra là làm thế nào để duy trì, bảo tồn và khai thác
được vốn kinh nghiệm quý báu này.
Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự (2006) đã nghiên cứu 6 loài tre quả thịt
(tre Quả thịt Lộc Bắc, Trường Sơn, Pà Cồ, Cúc Phương, Dẹ Yên Bái, Kon Hà
Nừng). Tác giả đã tiến hành điều tra, khảo sát, nghiên cứu đặc điểm sinh thái, cấu
tạo, giải phẫu hoa, quả. Kết quả của nghiên cứu sẽ làm cơ sở cho giám định loài và
ghép chi để tạo ra các giống tre cho măng có năng suất, chất lượng cao.
Kiến thức bản địa của người dân trong việc khai thác sử dụng các loài lâm sản
ngoài gỗ làm thực phẩm, gia vị tại xã Thần Sa -Võ Nhai, Nguyễn Thị Thoa và cộng sự


(2006). Tác giả đã xác định được 16 loài lâm sản ngoài gỗ thường xuyên được sử
dụng làm rau ăn, gia vị, tìm hiểu kinh nghiệm của người dân xã trong việc sử dụng các

loài làm thực phẩm, gia vị và đề xuất giải pháp bảo vệ, phát triển các loài này
Năm 2006 nhóm tác giả thuộc Trung tâm nghiên cứu Lâm đặc sản - Viện
Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam phối hợp với Viện Dược liệu đã tổ chức điều tra
nguồn tài nguyên cây thuốc tại xã Đồng Lâm, huyện Hoàng Bồ, tỉnh Quảng Ninh
và đã ghi nhận được 288 loài thuộc 233 chi, 107 họ và 6 ngành thực vật. Tất cả đều
là những cây thuốc mọc hoang dại trong các quần xã rừng thứ sinh và đồi cây bụi.
Trong đó có 8 loài được coi là mới (chưa có tên trong danh lục cây thuốc Việt
Nam) (Nguyễn Văn Tập, 2006).
Lê Thị Diên và cộng sự (2006) đã thử nghiệm gây trồng một số loài cây
thuốc nam dưới tán rừng tự nhiên tại thôn Hà An. Các cây thuốc nam được gây
trồng có tỷ lệ sống cao, sức sinh trưởng tốt, hứa hẹn sẽ đóng góp đáng kể vào
nguồn thu nhập cho các hộ gia đình tham gia gây trồng.
Trần Ngọc Hải và cộng sự (2002), đã đánh giá vai trò kinh tế của LSNG ở
2 thôn người Dao tại xã Ba Vì. Tác giả cho rằng LSNG, đặc biệt là nhóm tre bương
và cây dược liệu đóng vai trò quan trọng trong kinh tế hộ gia đình.
Thực trạng khai thác sử dụng và tiềm năng gây trồng cây thuốc tại Vườn quốc
gia Tam Đảo và vùng đệm, 2008, Đỗ Hoàng Sơn và cộng sự. Qua điều tra họ thống kê
được tại Vườn quốc Gia Tam Đảo và vùng đệm có 459 loài cây thuốc thuộc 346 chi và
119 họ trong 4 ngành thực vật là: Equisetophyta, Polypodiophyta, Pinophyta và
Magnoliophyta. Người dân thuộc vùng đệm ở đây chủ yếu là người Dao và Sán Dìu sử
dụng cây thuốc để chữa 16 nhóm bệnh khác nhau. Trong đó trên 90% số loài được sử
dụng thu hái trong rừng tự nhiên. Mỗi năm có khoảng hơn 700 tấn thuốc tươi từ Vườn
quốc gia Tam đảo được thu hái để buôn bán. Nguồn tài nguyên cây thuốc ở đây đang bị
suy giảm khoảng 40% so với 5 năm trước đây. Trên cơ sở các nghiên cứu tác giả đã đề
xuất 26 loài cây thuốc cần được ưu tiên và đưa vào bảo tồn.


Từ nhiều năm qua, Viện Dược liệu đã thu thập hơn 500 loài cây thuốc đem
về trồng, nhân giống ở các vườn cây thuốc. 65 loài có nguy cơ cao đã được trồng ở
Trạm nghiên cứu trồng cây thuốc Sa Pa (Lào Cai), Vườn trạm nghiên cứu trồng cây

thuốc Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Vườn Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến thuốc
Hà Nội (Thanh Trì), Vườn trung tâm nghiên cứu dược liệu Bắc Trung Bộ (Thanh
Hóa) và vườn bảo tồn cây thuốc vùng cao Phó Bảng (Đồng Văn - Hà Giang). Các
vườn thuốc này có đủ điều kiện giống như điều kiện sống tự nhiên của chúng và lý
lịch thu thập, ngày trồng, tình hình sinh trưởng phát triển, ra hoa - quả... được ghi
lại để đánh giá khả năng bảo tồn (Lê Văn Giỏi, 2006).
Vừa qua Viện Dược liệu và Bộ môn Dược liệu - Trường Đại học Dược Hà Nội
đã tiến hành nghiên cứu định tính và định lượng một số nhóm chất trong cây Chè đắng
mọc tại Cao Bằng. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong lá Chè đắng có 5 nhóm chất:
Saponin tổng, flavonoid tổng, polysaccharid tổng, carotenoid và các a-xít hữu cơ. Đây
là những nhóm chất có nhiều tác dụng sinh học quan trọng và từ lâu đã thu hút sự chú ý
của các nhà nghiên cứu ( Dẫn theo Nguyễn Thị Thoa, 2006).
Dược thảo trong rừng mưa nhiệt đới, Phạm Minh Toại và cs, 2005, tác giả
chỉ ra: với mức độ mất rừng như hiện nay thì hệ thực vật và động vật giàu có ở vùng
nhiệt đới, bao gồm cả các loài dược thảo đã biết hoặc đang ở dạng tiềm năng sẽ bị
huỷ diệt và các kiến thức bản địa liên quan cũng ít có cơ hội tồn tại. Việc mất rừng
nhiệt đới rõ ràng đang đe doạ sự an toàn của loài người thông qua các tác động cùng
tăng lẫn nhau như: trượt lở đất, lũ lụt và hoang mạc hoá, xói mòn đất và sự lây nhiễm
một số bệnh tật. Tuy nhiên, sự tuyệt chủng của những loài dược thảo và sự mất đi
của những thầy thuốc nam giỏi ở địa phương (thầy lang) còn là một nguy cơ lớn hơn
nhiều đối với sức khoẻ con người ở cả các nước đang phát triển và các nước phát
triển.


Một số vấn đề bảo tồn cây thuốc mọc tự nhiên ở rừng, Nguyễn Văn Tập,
2005. Trong nguồn lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam, cây thuốc chiếm một vị trí quan
trọng về thành phần loài cũng như về giá trị sử dụng và kinh tế. Theo kết quả điều
tra cơ bản của Viện Dược liệu (Bộ Y tế) đến năm 2004 đã phát hiện được ở nước ta
có 3.948 loài thuộc 1.572 chi và 307 họ thực vật (kể cả rêu và nấm) có công dụng
làm thuốc. Trong số đó, trên 90% tổng số loài là cây thuốc mọc tự nhiên, chủ yếu

trong các quần hệ rừng. Rừng cũng là nơi tập hợp hầu hết cây thuốc quý có giá trị
sử dụng và kinh tế cao.
Các kết quả nghiên cứu đã phác thảo một bức tranh về lâm sản ngoài gỗ
với số lượng khổng lồ các giống loài. Chúng có dạng sống, đặc điểm sinh thái và
giá trị sử dụng vô cùng đa dạng. Tính phong phú của lâm sản ngoài gỗ có ý nghĩa
lớn trong giai đoạn hiện nay. Nó không phải là sản phẩm “phụ” mà là một trong
những sản phẩm chính của rừng, có ý nghĩa đến quá trình phát triển kinh tế xã hội
miền núi và góp phần bảo tồn và phát triển rừng. Gần đây, những phát hiện mới về
tiềm năng của lâm sản ngoài gỗ như khả năng phục hồi nhanh, cho thu hoạch sớm
với năng suất kinh tế cao và ổn định, có khả năng kinh doanh liên tục, phù hợp với
quy mô hộ gia đình và đặc biệt là việc khai thác chúng gần như không tổn hại đến
rừng đã thúc đẩy nhiều nhà khoa học tham gia vào nghiên cứu phát triển lâm sản
ngoài gỗ.


CHƯƠNG II. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Đề tài góp phần đánh giá được hiện trạng khai thác, sử dụng các loài thực vật
rừng làm thực phẩm và từ những giải pháp đề xuất được sẽ là cơ sở giúp chính
quyền địa phương, người dân xác định được hướng bảo tồn, phát triển những loài
lâm sản ngoài gỗ quý giá.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được danh mục các cây LSNG được nhân dân khai thác, sử dụng
làm thực phẩm.
- Đánh giá được thực trạng tình hình khai thác, sử dụng và thị trường tiêu thụ
các loại LSNG làm thực phẩm, ở địa phương.
- Xác định được nguyên nhân làm suy giảm nguồn tài nguyên LSNG dùng
làm thực phẩm.

- Đề xuất được một số giải pháp phù hợp cho địa phương nhằm bảo tồn và
phát triển các loài lâm sản ngoài gỗ làm thực phẩm.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu các loài cây LSNG hiện có ở xã dùng làm dược lieuj
và thực phẩm.
2.3. Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm nghiên cứu: tại xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao
Bằng.


- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8/2016 đến tháng 12/2016
2.4. Nội dung nghiên cứu
1/ Thống kê những loài lâm sản ngoài gỗ được người dân trong vùng sử dụng
làm thực phẩm. (Danh lục của loài LSNG).
2/ Hiện trạng khai thác và sử dụng thực vật rừng làm thực phẩm của người
dân. (Nguồn gốc, mức độ phổ biến và tình hình khai thác các loài đó)
3/ Nguyên nhân làm suy giảm nguồn tài nguyên LSNG dùng làm thực
phẩm.
4/ Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển những loài cây này.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Công tác chuẩn bị
- Sưu tầm các tài liệu liên quan đến công tác nghiên cứu.
- Chuẩn bị các phiếu phỏng vấn.
2.5.2. Công tác ngoại nghiệp
- Phương pháp kế thừa: Sử dụng phương pháp kế thừa có chọn lọc trong
việc thu thập các số liệu về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội, các báo
cáo, văn bản có liên quan đến chuyên đề nghiên cứu đã có ở địa phương.
- Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA): PRA được tiến
hành bằng cách tiến hành phỏng vấn trực tiếp người dân thông qua các bảng hỏi.
+ Phỏng vấn những người dân có tham gia thu hái, sử dụng các loài thực vật rừng

làm thực phẩm, gia vị.
 Đối tượng phỏng vấn là các hộ gia đình hàng năm có khai thác lâm sản ngoài gỗ
phục vụ cho bữa ăn hàng ngày hoặc khai thác để bán.
 Địa điểm phỏng vấn tại các gia đình hoặc trên đường họ đi rừng hái rau
rừng.
+ Sử dụng bảng câu hỏi với nội dung ngắn gọn, rõ ràng để khi phỏng vấn thu được
nhiều thông tin, giúp cho người dân dễ hiểu, dễ trả lời.


* Liệt kê tự do
Áp dụng trong điều tra những loài lâm sản ngoài gỗ được người dân trong
vùng sử dụng làm thuốc, thực phẩm, liệt kê tự do cần được thực hiện qua hai giai
đoạn: (i) liệt kê tự do và (ii) xác định loài lâm sản ngoài gỗ làm thực phẩm.
Liệt kê tự do: Là việc hỏi/ phỏng vấn một tập hợp người cung cấp tin
(NCCT), đề nghị họ cho tên tất cả các tên của những loài lâm sản ngoài gỗ được
người dân trong vùng sử dụng làm thực phẩm.
Chọn mẫu: NCCT được lựa chọn theo phương pháp ngẫu nhiên – phân tầng:
NCCT được phân thành một số nhóm nhất định (theo dân tộc; độ tuổi; giới...), sau
đó lấy ngẫu nhiên NCCT từ các loại đó.
Phỏng vấn: Sử dụng một câu hỏi duy nhất cho tất cả NCCT, ví dụ: “Xin
bác (anh/chị/ông/bà) kể tên những loài lâm sản ngoài gỗ được người dân trong
vùng sử dụng làm thực phẩm mà bác (anh/chị/ông/bà) biết?”. Điều quan trọng nhất
khi phỏng vấn là đề nghị NCCT liệt kê đầy đủ tên những loài lâm sản ngoài gỗ
được người dân trong vùng sử dụng làm thực phẩm bằng tiếng dân tộc của họ để
tránh được sự nhầm lẫn tên cây giữa các ngôn ngữ, văn hóa khác nhau.
Số tên loài LSNG làm dược liệu và thực phẩm


Hình 01: Đường cong xác định loài LSNG làm thực phẩm trong một
cộng đồng có thể dừng phỏng vấn khi số loài không tăng.

Dữ liệu điều tra được xử lý bằng tay hay bằng các phần mềm máy tính,
bao gồm: (i) liệt kê tất cả các tên loài LSNG làm thực phẩm được NCCT nhắc đến,
(ii) đếm số lần tên cây LSNG làm thực phẩm n được nhắc đến (tần số nhắc đến), và
(iii) xếp danh mục các tên theo thứ tự nào đó, ví dụ như xếp theo tần số giảm dần.
Có thể xác định danh mục các loài được dùng làm thực phẩm tiêu biểu (hay các
loài cốt lõi), là các loài được nhiều NCCT nhắc đến, cộng với một số lượng lớn các
loài được một số ít NCCT hay chỉ một người nhắc đến. Các loài tiêu biểu phản ánh
sự tồn tại của một tiêu chuẩn văn hóa, tri thức chung của cộng đồng liên quan đến
lĩnh vực lâm sản ngoài gỗ trong khu vực điều tra. Các loài còn lại thể hiện cái nhìn,
tri thức, kinh nghiệm riêng của các thành viên trong cộng đồng.
Thống kê loài SLNG làm thực phẩm: Sau khi xử lý dữ liệu và loại bỏ tên
đồng nghĩa, chúng ta có trong tay một danh mục tên các cây được cộng đồng sử
dụng làm thực phẩm. Tuy nhiên đây chỉ là danh mục bằng tên địa phương, chưa rõ
tên nào thuộc loài nào. Do đó, cần thiết phải xác định tên khoa học của các cây
mang tên đó. Để làm được việc này, cần có chuyên gia thực vật xác định loài đi
cùng hoặc thu thập mẫu tiêu bản của tất cả các tên cây LSNG đã được nêu ra trong
danh mục, xử lý và định tên (tiến hành theo phương pháp điều tra theo tuyến). Việc
xác định tên khoa học của các mẫu cây LSNG dựa trên tên được liệt kê nói trên sẽ
góp phần loại bỏ các tên đồng nghĩa trong phần liệt kê tự do lần nữa. Như vậy số
loài SLNG thực tế có thể sẽ nhỏ hơn số tên thống kê được trong giai đoạn liệt kê tự
do. Cần chú ý là một tên địa phương có thể chỉ nhiều loài khác nhau, thường là các
loài trong cùng một chi, có đặc điểm hình thái giống nhau hay các loài có cùng
công dụng.
* Điều tra theo tuyến với người cung cấp tin quan trọng
Đây là phương pháp thường được áp dụng trong điều tra tài nguyên thực
vật. Dựa trên cơ sở kết quả của bước Liệt kê tự do, lựa chọn người cung cấp tin


quan trọng và tiến hành xác định tên khoa học và vị trí phân loại của các loài
LSNG.

NCCT quan trọng là những người am hiểu về loài LSNG trong khu
vực.Mục tiêu điều tra là xác định chính xác các loài cây đã được liệt kê tại bước liệt
kê tự do. Các bước thực hiện bao gồm:
+ Xác định tuyến điều tra: Tuyến điều tra có thể được xác định dựa trên
thực trạng thảm thực vật, địa hình và phân bố loài LSNG trong khu vực. Để đảm
bảo tính khách quan trong quá trình điều tra, tuyến điều tra nên đi qua các địa hình
và thảm thực vật khác nhau như: nơi ẩm, ven suối, bờ ruộng, chân đồi, chân núi,…để
xác định sự phân bố, sinh trưởng, tái sinh, mật độ,… của các loài lâm sản ngoài gỗ cần
tìm hiểu để kiểm chứng những thông tin thu được qua bảng hỏi. Trong điều tra tại cộng
đồng, lấy trung tâm công đồng làm tâm và đi theo bốn hướng khác nhau. Số lượng
tuyến phụ thuộc vào thời gian và nhân lực sẵn có.
+ Thu thập thông tin tại thực địa: Cách đơn giản nhất là NCCT và điều tra
viên cùng đi theo tuyến và phỏng vấn đối với bất kỳ loài LSNG nào gặp trên đường
đi. Cách thu thập thông tin khác, có hệ thống hơn, là NCCT và điều tra viên dừng
lại tại mỗi điểm có sự thay đổi về thảm thực vật và phỏng vấn đối với tất cả các loài
LSNG xuất hiện trong khu vực đó.
* Điều tra ô tiêu chuẩn
Trên tuyến điều tra, tại mỗi vị trí có sự thay đổi về thảm thực vật, tiến hành
lập ô tiêu chuẩn với kích thước 100m2 (10 x 10 m). Trên ô tiêu chuẩn điều tra một
số chỉ tiêu: Thành phần loài, là số loài xuất hiện trên đơn vị diện tích; xác định mật
độ loài là số cá thể trong mỗi loài trên đơn vị diện tích; tần số xuất hiện, là tỷ lệ
phần trăm hay số lần xuất hiện của loài trong tất cả các ô tiêu chuẩn.
* Xác định các loài cây LSNG
Phân hạng loài theo mức độ đe dọa của loài:
+ Độ hữu ích của loài đối với người dân địa phương: sử dụng thang 3 điểm
- Loài không có tiềm năng được dùng ở địa phương: 0 điểm


×