Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

CHỦ TRƯƠNG của ĐẢNG về xây DỰNG QUÂN đội NHÂN dân TRONG THỜI kỳ mới (1986 2006)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.49 KB, 27 trang )

1

CHủ TRƯƠNG CủA ĐảNG cộng sản việt nam Về XÂY DựNG
QUÂN đội nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước (1986 - 2006)
---  --Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực
tiếp tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Trải qua 65 năm qua,
Quân đội ta luôn trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Các thế hệ
cán bộ, chiến sỹ đã viết lên những trang sử hào hùng với những chiến công vô
cùng hiển hách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, hoàn thành sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, qua hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, tạo ra
thế và lực mới để đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước hiện nay giành được những thắng lợi to lớn hơn. Đạt được thành tựu
trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Song nguyên nhân cơ bản quan
trọng hàng đầu là do Đảng ta có đường lối chính trị và quân sự đúng đắn sáng tạo.
Một trong những nét nổi bật nhất trong đường lối quân sự là do Đảng ta sớm có
chủ trương về việc xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh mọi mặt đáp ứng yêu
cầu đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp đổi mới. Chính từ chủ trương đúng đắn, sáng
tạo về xây dựng Quân đội nhân dân của Đảng mà quân đội ta đã không ngừng
trưởng thành và lớn mạnh luôn đáp ứng kịp theo yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới. Do đó, chúng ta luôn khẳng định rõ sự trưởng thành
vượt bậc và chiến thắng vẻ vang của quân đội ta là kết quả tổng hợp của nhiều yếu
tố, một trong những yếu tố quan trọng quyết định đó chính là được sự lãnh đạo
đúng đắn, sáng suốt của Đảng, và Chủ tịch Hồ Chí Minh; sự thương yêu, đùm
bọc, che chở của nhân dân - nhân tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định quan trọng đến
sự trưởng thành và lớn mạnh của quân đội ta, qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử
cách mạng nước ta. Đặc biệt, trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc, giữ


2



vững chính quyền cách mạng; đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa và hơn thế là trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước hiện nay.
1. Yêu cầu sự nghiệp đổi mới đất nước với việc xây dựng Quân đội ta
Thật vậy, khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện được đánh
dấu bắt đầu từ đường lối Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
( 12/1986) cũng là lúc bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến phức
tạp. Trên thế giới, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
khủng hoảng và dẫn tới sụp đổ vào những năm 1990- 1991, đánh dấu giai đoạn
chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, so sánh cán cân lực lượng cách
mạng và phản cách mạng gây bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới nói chung
và cách mạng Việt Nam nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Đất nước bước vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra cho Đảng, do
đó Đảng ta không tránh khỏi những vấp váp, sai lầm. Một trong những khuyết
điểm yếu kém của Đảng bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội giai đoạn
1976 - 1986 là Đảng ta nóng vội, chủ quan, duy ý chí; duy trì quá lâu cơ chế quản
lý tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn tới đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tếxã hội trầm trọng, kéo dài ảnh hưởng trực tiếp và gây khó khăn lớn khi bước vào
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đặc biệt, hậu quả nặng nề của cuộc chiến
tranh cùng với những tàn dư của chế độ xã hội cũ để lại gây cản trở lớn cho sự
nghiệp đổi mới phát triển đất nước. Trong khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch điên cuồng chống phá, phong trào cách mạng thế giới bằng âm mưu
chiến lược “ Diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ hòng xoá bỏ các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại, xây dựng trật tự thế giới do Mỹ đứng đầu mà trong đó chúng coi
Việt Nam là một trọng điểm để chống phá. Chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn
thâm độc, xảo quyệt để chống phá ta từ bên trong; đồng thời tăng cường bao vây,
cấm vận, cô lập, kết hợp răn đe quân sự, gây sức ép từ nhiều phía hòng làm cho ta



3

suy yếu toàn diện và dẫn đến sụp đổ. Có thể nói, bước vào công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước ta phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng như khủng
hoảng kinh tế- xã hội kéo dài, chế độ chính trị và độc lập, chủ quyền an ninh
quốc gia trực tiếp bị đe doạ; điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết đối với Đảng phải
chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh mọi mặt để đối phó trước diễn biến phức
tạp trong tình hình mới. Mặt khác, từ quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân
đội trong những năm qua tuy đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ chống chiến tranh xâm lược và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong tình hình mới, nhưng vẫn còn tồn tại những khuyết điểm, hạn
chế đó là, công tác quản lý, kiểm tra còn buông lỏng và chưa thực hiện thường
xuyên, khả năng sẵn sàng chiến đấu có nơi chưa đáp ứng kịp sự phát triển của tình
hình; trình độ, năng lực công tác của cán bộ, chiến sỹ còn nhiều yếu kém. Đặc biệt
là từ khi có Nghị quyết 07 (1982) ra đời, bỏ cấp uỷ, bỏ chế độ thủ trưởng phân
công phụ trách, thiết lập chế độ một người chỉ huy đã làm cho Quân đội có nhiều
thiếu sót, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho vai trò lãnh đạo của
Đảng yếu đi, vai trò công tác đảng, công tác chính trị và vai trò cán bộ chính trị bị
hạ thấp. Trong bối cảnh đó, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ
và triệt để đất nước để nhằm khơi dậy mọi tiềm năng của đất nước, đưa đất nước
ta từng bước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vững bước đi lên đạt được những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử như: kinh tế- xã hội phát triển, chính trị ổn
định, quốc phòng- an ninh được củng cố, tăng cường, đã phá được thế bao vây,
cấm vận, ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, giữ được môi trường hoà
bình, ổn định, mở rộng hợp tác quốc tế, uy tín và vị thế của đất nước ngày càng
cao, tạo môi trường thuận lợi cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Trên lĩnh vực quốc phòng- an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà trước hết là xây dựng Quân đội
nhân dân, Đảng ta đã vững vàng, tỉnh táo, nhạy bén trước những biến động của
tình hình, luôn nắm vững quy luật dựng nước và giữ nước, vận dụng sáng tạo chủ



4

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội vào điều kiện
cụ thể mới của cách mạng nước ta; phân tích đánh giá đúng tình hình, kịp thời đổi
mới tư duy về quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc nhất là đổi mới về xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân, trong xây dựng Quân đội nhân dân- lực lượng nòng
cốt trong sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đạt
được nhiều thành tựu và có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Thực tiễn sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo từ
năm 1986 đến nay, có thể thấy đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và vận
hội lớn, khi mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thế giới phát triển mạnh
mẽ, thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế; tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất phát triển, xu thế mở rộng hội nhập hợp tác quốc tế, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, trở thành một tất
yếu khách quan của mọi quốc gia dân tộc trên con đường phát triển; vừa hợp tác
vừa đấu tranh để tồn tại và phát triển nhưng đây cũng tạo điều kiện thuận lợi cho
các nước chậm phát triển như nước ta, tận dụng vốn, trình độ công nghệ tiên tiến
hiện đại thế giới để thúc đẩy quá trình đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước. Đặc biệt, đây cũng là điều kiện thuận lợi cho việc hiện đại hoá lực
lượng vũ trang nhân dân mà trong đó Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và điều đó đặt ra yêu cầu khách quan
của việc xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh toàn diện đáp ứng ngang tầm sự
nghiệp đổi mới. Tuy vậy, bên cạnh những thời cơ và vận hội lớn mà quốc tế đem
lại đất nước ta cũng đang đứng trước những nguy cơ, thách thức lớn; bốn nguy cơ
đối với cách mạng nước ta như: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong
khu vực; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về tệ quan liêu, tham
nhũng; nguy cơ diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
gây ra vẫn tồn tại, đan xen, không được xem nhẹ bất cứ nguy cơ nào đều ảnh

hưởng đe doạ đến sự tồn vong của chế độ ta. Đặc biệt, từ sau sự sụp đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tác động sâu


5

sắc đến cách mạng thế giới nhất là đối với nước ta. Mặc dù, Đảng ta nhận định
chiến tranh thế giới có khả năng ít xảy ra, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động khủng bố, can thiệp lật đổ
vẫn xảy ra ở nhiều nơi, với tính chất phức tạp ngày càng tăng; xu thế quốc tế
hoá, toàn cầu hoá đang gia tăng, dẫn đến nhiều biến đổi lớn trong đời sống xã
hội, chủ nghĩa đế quốc vẫn tăng cường chạy đua vũ trang sản xuất ra hàng
loạt các loại vũ khí công nghệ cao cùng với nó là sự ra đời những học thuyết
quân sự mới của chủ nghĩa đế quốc tiến hành thử nghiệm. Tình hình thế giới
diễn biến ngày càng phức tạp; trong khi đó khu vực Châu á Thái Bình Dương
được cọi là khu vực phát triển năng động nhất hiện nay. Song bên cạnh đó
còn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn định khó lường; đó là sự tranh chấp chủ
quyền, biên giới lãnh thổ, hải đảo, biển; tranh chấp về mặt quyền lợi và lợi ích
của các quốc gia trong khu vực nhất là trên biển. Đặc biệt hơn là có sự mặt
hiện diện của Mỹ tại khu vực này điều đó đã tác động trực tiếp và sâu sắc tới
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới và
đối với nước ta đặt ra yêu cầu mới là phải xây dựng quân đội nhân dân ngang
tầm với sự nghiệp đổi mới. Đối với đất nước ta, khi tiến hành công cuộc đổi
mới đất nước các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu chiến lược
“diễn biến hoà bình”, với những hình thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, trắng
trợn hơn, làm cho ta “tự diễn biến”, tự chuyển hoá từ bên trong, tạo cớ can
thiệp, gây sức ép từ nhiều phía nhằm mục tiêu nhất quán là xoá bỏ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, buộc ta phải đi theo quỹ đạo của chúng. Sự chống
phá đó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, tư tưởng văn
hoá, quốc phòng, an ninh. Đặc biệt, kẻ thù triệt để lợi dụng những sơ hở, sai

lầm khuyết điểm của Đảng và Nhà nước ta, sử dụng các chiêu bài dân tộc, tôn
giáo, dân chủ, nhân quyền ra sức kích động, chia rẽ, khoét sâu mâu thuẫn nội
bộ, nhen nhóm các lực lượng phản động bên trong, cấu kết với các thế lực
phản động bên ngoài tạo cớ tiến hành bạo loạn lật đổ, kết hợp với can thiệp vũ


6

trang bằng nhiều hình thức, quy mô khi có điều kiện hòng xoá bỏ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với các biện pháp răn đe quân sự để hỗ trợ cho
“diễn biến hoà bình” và bạo loạn lật đổ, các thế lực thù địch có thể tiến hành
các loại hình chiến tranh mới bằng vũ khí công nghệ cao nhằm mục tiêu lật
đổ, khuất phục hoặc thôn tính đối với nước ta trong thời gian ngắn. Đây chính
là những vấn đề mới nảy sinh và đặt ra trong sự nghiệp đổi mới đất nước đòi
hỏi Đảng ta phải chủ động về chiến lược và sách lược chuẩn bị đối phó có
hiệu quả với mọi tình huống xấu có khả năng xảy ra. Chính vì vậy, trong khi
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, chúng ta không một phút lơi là
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; phải tập trung đầu tư
thích đáng cho xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội nhân vững
mạnh toàn diện đáp ứng cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới. Mặt khác, tuy đất nước được hoà bình, ổn định xây
dựng phát triển kinh tế nhưng chúng ta phải thường xuyên đề cao cảnh giác,
sẵn sàng đối phó và giải quyết triệt để những nhân tố gây bất ổn định hiện
nay. Đáng chú ý nhất là những nguy cơ nội sinh, nó sẽ là “mảnh đất tốt” để
những nguy cơ bên ngoài xâm nhập. Do đó, nhiệm vụ quốc phòng- an ninh,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng Quân đội nhân dân
trong tình hình mới đã và đang đặt ra cho chúng ta trước những yêu cầu mới
hết sức nặng nề, phức tạp đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều
hành của Nhà nước nhất định chúng ta sẽ giành thắng lợi to lớn hơn trong sự

nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế đất nước đạt được nhiều
thành tựu to lơn hơn đưa cách mạng Việt Nam vững bước phát triển trong thế
kỷ XXI. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc về đẩy mạnh thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đó là
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt


7

Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Đặc biệt, phải nhận thức sâu sắc
về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc ngày nay là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất
nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội và nền văn hoá, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình,
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là mục tiêu, yêu cầu
mới về bảo vệ Tổ quốc, nó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
tư tưởng, văn hoá, lối sống..vv.. với quy mô rộng lớn hơn, tính chất phức tạp
hơn quy định đến hình thức, phương pháp đấu tranh để bảo vệ. Đặc điểm
cuộc đấu tranh để bảo vệ hiện nay nó diễn ra theo một hình thái mới, vừa hợp
tác, vừa đấu tranh, khác với trước đây đối đầu vũ trang là chính. Như vậy, đặt
ra yêu cầu mới cho cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc hiện nay, và do đó phải có
sự kết hợp giữa các lĩnh vực quốc phòng - an ninh, kinh tế, đối ngoại là hết
sức quan trọng. Công cuộc đổi mới đất nước diễn ra trong xu thế toàn cầu
hoá, hợp tác hoá quốc tế, là thời cơ thuận lợi để cho ta tận dụng phát triển.
Nhưng để phát triển được đòi hỏi vốn, công nghệ nhiều, trong lúc đó, nền kinh
tế nước ta điểm xuất phát thấp, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, nghèo nàn, trình độ khoa
học kỹ thuật lạc hậu. Để công cuộc đổi mới thành công, yêu cầu trước hết là phải
mở rộng hợp tác quốc tế để thu hút vốn, công nghệ cho phát triển đất nước, bên

cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng phải đề phòng với những ý đồ đen tối của
chủ nghĩa đế quốc, vì lợi ích riêng mà phá hoại sự nghiệp cách mạng. Do đó,
Đảng, Nhà nước ta chủ trương xây dựng quân đội nhân dân theo hướng “Cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, xây dựng Quân đội nhân dân
vững mạnh toàn diện, nhằm nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu
của Quân đội nhân dân, đủ sức làm nòng cốt cho toàn dân đập tan mọi mưu đồ
chống phá, xâm lược dưới mọi hình thức của các thế lực thù địch, giữ vững hoà


8

bình, ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong mọi tình huống.
2. Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về xây dựng Quân đội nhân
dân trong sự nghiệp đổi mới ( 1986 - 2006)
Là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân
dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chính là Quân đội nhân dân
Việt Nam. Do vậy, đã được Đảng, Bác Hồ đặc biệt quan tâm, chăm lo, xây
dựng, giáo dục, rèn luyện, lãnh đạo ngay từ ngày những năm đầu của cách
mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và không ngừng củng cố và phát
triển đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của Đảng qua từng thời kỳ, giai
đoạn lịch sử. Đặc biệt, khi bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đặt
ra những yêu cầu mới cho Đảng; tư duy, nhận thức mới về xây dựng quân đội
nhân dân cách mạng của Đảng cũng không ngừng bổ sung và phát triển thể
hiện bằng những quan điểm, chủ trương, chính sách về xây dựng quân đội
nhân dân được đề cập qua các kỳ Đại hội Đảng và các Nghị quyết Trung
ương chỉ đạo của Đảng sau mỗi kỳ đại hội. Thực tiễn, khi đất nước bước vào
công cuộc đổi mới toàn diện được đánh dấu mở đầu từ Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986). Trong đường lối đổi mới của Đảng
đề cập nhiều nội dung trong đó Đảng ta đã xác định rõ quan điểm chỉ đạo toàn

dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Dựa trên lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức, xây dựng quân đội cách
mạng; từ thực tiễn yêu cầu nhiệm vụ cách mạng đặt ra; từ đặc điểm về tổ chức
hoạt động và chức năng, nhiệm vụ của quân đội. Đảng ta xác định rõ về
nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội nhân dân Việt Nam: “Quân đội nhân dân
Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất của Đảng Cộng
sản Việt Nam”. Tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ
chức theo hệ thống dọc từ Trung ương đến cơ sở. Nguyên tắc này được các kỳ
Đại hội về sau tiếp tục khẳng định và phát triển. Từ Đại hội đại biểu toàn


9

quốc lần thứ VII (6/1991) đến nay, Đảng ta luôn xác định Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam theo nguyên tắc “Tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt”. Tuy có những thời kỳ tên gọi khác nhau (từ 1982 –
1991, Đảng lãnh đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất về mọi mặt đối với quân
đội); nhưng đây vẫn là nguyên tắc cơ bản nhất trong tổ chức, lãnh đạo của
Đảng đối với Quân đội. Nguyên tắc này quyết định phương hướng chính trị,
mục tiêu chiến đấu, tạo điều kiện cho Quân đội hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Thực hiện nguyên tắc đó là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội,
giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong Quân đội, làm cho
Quân đội luôn trung thành với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa, với nhân
dân và để Đảng nắm chắc Quân đội trong mọi tình huống, không để bị động,
bất ngờ. Khẳng định dứt khoát rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy
nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt.
Quyền lãnh đạo đó không thể chia sẽ cho một cá nhân hay một tổ chức chính
trị, một đảng phái nào. Sự lãnh đạo này là trực tiếp, toàn diện, không thông
qua khâu trung gian nào. Đảng lãnh đạo toàn bộ hoạt động của Quân đội, từ
nhiệm vụ chiến đấu, huấn luyện, diễn tập sẵn sàng chiến đấu, giáo dục chính

trị tư tưởng đến công tác hậu cần, kỹ thuật, tài chính…vv..Đảng lãnh đạo
Quân đội bằng việc định ra đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; lãnh đạo nghiên
cứu, phát triển khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam; lãnh đạo xây dựng tổ
chức biên chế, trang bị vũ khí, vật chất kỹ thuật và tổ chức nuôi dưỡng bộ đội;
đội ngũ sỹ quan trong quân đội là cán bộ của Đảng, do đó Đảng phải lãnh đạo
công tác cán bộ trong quân đội; lãnh đạo tiến hành công tác đảng, công tác
chính trị trong quân đội, thực chất là giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam của Đảng. Từ những quan
điểm, nguyên tắc trên, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đề ra
phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Quân đội là: “Xây dựng Quân đội nhân


10

dân, Công an nhân dân chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp
ngày càng cao, có tổ chức hợp lý cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ,
có trình độ chiến đấu và sức chiến đấu cao” 1 và “Tiếp tục củng cố bộ đội địa
phương, phát triển lực lượng dân quân tự vệ với số lượng, chất lượng đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ mới. Đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển nền khoa học,
nghệ thuật quân sự Việt Nam. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
nhiệm vụ quốc phòng - an ninh”. Từ những phương hướng nhiệm vụ cơ bản
đó, Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị (7/1987), đánh dấu một bước phát triển tư
duy mới của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới. Sau khi đánh giá tình hình, Bộ Chính trị chủ trương chuyển
hướng nhiệm vụ quân sự từ thời chiến sang nhiệm vụ quân sự thời bình là
nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, tạo ra môi trường hoà bình, ổn
định để phát triển đất nước. Xác định nhiệm vụ cho quốc phòng- an ninh là
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, xây dựng

Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây
dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận chiến tranh nhân dân; Quân
đội thực hiện chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và tham gia
sản xuất kinh tế, làm tròn nghĩa vụ quốc tế với Lào, CămpuChia. Bộ Chính trị
chỉ rõ: phải có kế hoạch cụ thể, phải phân công, phân cấp rõ trong đối phó với
địch, điều chỉnh lực lượng chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu phù hợp với yêu cầu
mới; đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách
nhiệm cho mọi quân nhân; nâng cao chất lượng huấn luyện, đề phòng các
hiện tượng tiêu cực xẩy ra; kiện toàn cơ quan bảo vệ và cơ chế hoạt động
công tác bảo vệ an ninh; ban hành quy định về tổ chức đảng trong quân đội
nhân dân Việt Nam. Để chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 02 của Bộ chính trị,
Đảng uỷ quân sự Trung ương (12/1987), cụ thể hoá một số nội dung cơ bản
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H .1987, tr. 38.


11

như, tăng cường công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân
Việt Nam, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác chính trị, tư
tưởng, tập trung chỉ đạo vào nhiệm vụ xây dựng Đảng; nâng cao chất lượng
xây dựng đội ngũ cán bộ vừa đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và đáp ứng nhiệm
vụ lâu dài; kiện toàn tổ chức, nâng cao trình độ, phong cách làm việc của cán
bộ và cơ quan chính trị; tăng cường chỉ đạo công tác vận động quần chúng.
Như vậy, Đại hội VI của Đảng đã đề cập tương đối toàn diện về nhiệm vụ
quốc phòng- an ninh, bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ về xây dựng lực lượng vũ
trang nói chung và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh mới; phản ánh được rõ tính quy luật dựng nước đị
đôi với giữ nước, xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa; tạo cơ sở nền tảng cho Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển chủ trương
mới về xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển của
tình hình mới. Trên cơ sở phân tích đặc điểm tình hình thế giới, khu vực và
trong nước, đặc biệt là những thành tựu to lớn mà nhân dân ta giành được
trong thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra. Tuy nhiên, còn một số
hạn chế, khó khăn, phức tạp đặt ra như: Mỹ tiếp tục bao vây, cấm vận nước
ta; bọn phản động và các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chống
phá cách mạng nước ta một cách quyết liệt; trong điều kiện nước ta đứng
trước những khó khăn gay gắt về kinh tế- xã hội. Trong hoàn cảnh đó, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/ 1991) đã đề ra nhiều nội dung
quan trọng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đặc biệt,
trong đó tiếp tục đề ra chủ trương: “ Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân
dân với chất lượng ngày càng cao, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, với cơ cấu, tổ chức và quân số hợp
lý, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu” 2. Để tăng cường sức mạnh
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb CTQG. H. 1991, Tr. 85,86.


12

chiến đấu cho Quân đội ta, tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: “Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và sự nghiệp quốc phòng”. Đảng lãnh đạo
quân đội theo nguyên tắc “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, thực hiện chính sách cán bộ và hậu phương quân đội.
Tiếp sau đó Nghị quyết Trung ương ba, khoá VII (6/1992) triển khai
chỉ đạo xây dựng Quân đội nhân dân trong tình mới xác định là: tăng cường
và nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quốc phòng - an ninh; tập

trung bảo đảm trang bị kỹ thuật cho lực lượng quốc phòng, duy trì và từng
bước phát triển hệ thống công nghiệp quốc phòng; chăm lo đến đời sống cán
bộ, chiến sỹ, tăng cường ngân sách cho quốc phòng- an ninh; coi trọng công
tác bảo vệ chính trị nội bộ. Đây là chủ trương nhạy bén của Đảng để ngăn
chặn làn sóng “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch tràn vào Việt
Nam vì lúc này Liên Xô và một loạt nước xã hội chủ ở Đông Âu sụp đổ và
tan dã. Để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và Nghị
quyết Trung ương ba khoá VII (6/1992) , Đảng uỷ quân sự Trung ương ra
Nghị quyết: “Tiếp tục chỉ đạo và tiến hành một số công tác lớn của nhiệm vụ
quốc phòng trong những năm 1991-1995 và phương hướng xây dựng Quân
đội trong tình hình mới”. Nghị quyết nêu rõ phải phát huy tinh thần độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cường. Trên cơ sở sẵn sàng chiến đấu, tích cực huy động
một lực lượng Quân đội tham gia sản xuất kinh tế để đóng góp cho quốc
phòng và cho nền kinh tế quốc dân, củng cố quan hệ hợp tác quốc tế với Lào
và Cămpuchia. Nghị quyết nêu lên một số yêu cầu cụ thể là phải phát huy cao
độ tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường để khắc phục khó khăn, chống tư
tưởng ỷ lại; phải kết hợp chặt chẽ với Bộ nội vụ và các cơ quan, các ngành,
các cấp củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân
dân; nâng cao chất lượng tổng hợp lực lượng vũ trang, xây dựng Quân đội
nhân dân có số lượng hợp lý, chất lượng cao theo hướng cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; khắc phục khó khăn, bảo đảm đời sống


13

vật chất, tinh thần, bảo đảm trang bị, vũ khí cho Quân đội; tập trung xây dựng
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong quân đội. Để thực hiện Nghị quyết
của Đảng uỷ quân sự Trung ương, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt
Nam đã nêu lên một số vấn đề tiến hành công tác đảng, công tác chính trị để
nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội là phải giáo

dục nâng cao nhận thức trách nhiệm cho mọi cán bộ, chiến sỹ, phát huy cách
đánh truyền thống trên cơ sở vũ khí, trang bị hiện có; tập trung xây dựng
Đảng trong sạch vững mạnh làm nòng cốt để nâng cao sức mạnh chiến đấu
của Quân đội, nâng cao chất lượng, trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, phát huy
vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ.
Trước yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến đổi phức tạp, khó
lường trước. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, các
mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển với những biểu hiện
mới phức tạp hơn. Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng xung đột
vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột tôn giáo, dân tộc, hoạt động khủng bố
vẫn xẩy ra nhiều nơi trên thế giới. Nước ta bên cạnh những thuận lợi của quá
trình mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế cũng như thành tựu bước đầu đạt được
trong công cuộc đổi mới đất nước vẫn còn gặp không ít những khó khăn thách
thức. Đặc biệt là bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khoá VII của Đảng (1/1994) nêu ra đến nay vẫn tồn tại đan xen đe doạ trực
tiếp đến sự tồn vong của chế độ ta. Xuất phát từ tình hình đó, cũng như căn cứ
vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
của Đại hội Đảng VII, là tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng (6/1996) đã xác định: “Cũng cố quốc phòng, giữ vững an ninh


14

quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của
toàn quân, toàn dân”3, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là
lực lượng nòng cốt và “ Xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, Công an

nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng
vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh
nhân dân; quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn
sàng đánh bại mọi âm mưu và hành động chống phá ta” 4. Để tăng cường sức
mạnh chiến đấu, Đảng ta chỉ rõ: “ Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và Công an”. 5 Đại hội
VIII đã hoàn chỉnh một bước các văn kiện trước theo lôgic một thể thống nhất
gồm mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo phù hợp với tình hình
mới và có tính khả thi trong thực tế. Trong những năm đầu của thế kỷ XX, sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nhiều thuận lợi rất cơ
bản, nhưng cũng phải đương đầu với những khó khăn, thách thức lớn. Các thế
lực thù địch tiếp tục chống phá ta quyết liệt, đất nước ta tuy có hoà bình
nhưng phải đương đầu với nhiều nhân tố bất ổn, đó là những nguy cơ, thách
thức lớn. Do đó yêu cầu mới về xây dựng lực lượng vũ trang đang đặt ra hết
sức nặng nề. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng
định phương hướng xây dựng Quân đội trong giai đoạn cách mạng mới theo
hướng “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”6. Với những tiêu chí cơ bản trong xây
dựng Quân đội ta để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới mà Đại hội IX đưa ra là phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung
thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; có trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao; quý trọng và hết lòng phục vụ
nhân dân; có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, giản dị, kế thừa và phát
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.119.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr.119.
5 Sđd, tr. 120.
6
Sđ d, tr 40, 118.
3
4



15

huy truyền thống vẻ vang của dân tộc; có năng lực chỉ huy và tác chiến thắng
lợi trong bất kỳ tình huống nào; có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến
đấu ngày càng cao, thường xuyên cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và
hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và
an ninh quốc gia, ngăn chặn và đẩy lùi các tội phạm nguy hiểm và tệ nạn xã
hội, bảo đảm tốt trật tự an toàn xã hội. Đại hội tiếp tục khẳng định: tăng
cường sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta hiện nay là một yêu cầu vừa cơ
bản, vừa cấp thiết. Trước hết tập trung vào các nội dung sau đây: Thường
xuyên tăng cường lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng, an
ninh; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp
vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và công tác vận động nhân dân; xây dựng đội
ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy ở các cấp, vững
vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ,
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn sáng tạo, gắn bó với nhân dân. Như
vậy, những quan điểm về bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang, xây
dựng Quân đội do Đại hội IX của Đảng đề ra có nhiều yêu cầu mới cao hơn
trước, đó là kết quả tổng hợp từ những đánh giá tổng quát của Đảng về tình
hình thế giới, khu vực và đất nước trong thế kỷ XX và dự báo tình hình những
năm đầu của thế kỷ XXI, từ những kết quả 15 năm đổi mới đất nước, đây là
nghĩa vụ và trọng trách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, yêu cầu mọi cấp
mọi ngành phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc.
Sau Đại hội VIII, Đại hội IX đã có nhiều Nghị quyết của Đảng uỷ quân
sự Trung ương quán triệt, tổ chức chỉ đạo thực hiện như: Tập trung nâng cao
chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội bao gồm cả bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng. Xây dựng Quân đội nhân dân

vững mạnh về mọi mặt, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất
lượng tổng hợp, sức chiến đấu cho Quân đội. Tiếp tục chấn chỉnh, ổn định tổ


16

chức biên chế phù hợp với thời bình và sẵn sàng đối phó có hiệu quả với mọi
tình huống; nâng cao chất lượng huấn luyện bộ đội theo yêu cầu nhiệm vụ sát
thực tiễn và khả năng trang bị và cách đánh của ta; bảo đảm ổn định đời sống
vật chất, tinh thần bộ đội, thực hiện quản lý chặt chẽ ngân sách quốc phòng,
tăng cường công tác bảo đảm hậu cần kỹ thuật; giải quyết tốt các yêu cầu cấp
bách về bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật; đẩy mạnh phát triển công nghiệp
quốc phòng, công tác nghiên cứu khoa học vận dụng trong thực tiễn xây dựng
quân đội; tăng cường quản lý nhà nước đối với quốc phòng - an ninh. Đặc biệt
là Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của
Đảng đối với Quân đội, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ,
chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là bước chỉ đạo quan trọng
của Đảng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội trong tình hình
mới .
3. Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm rút ra từ quá trình lãnh đạo
xây dựng quân đội trong sự nghiệp đổi mới
Hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước của Đảng, nhiệm
vụ xây dựng Quân đội đã đạt được thành tựu to lớn góp phần rất quan trọng
vào thành tựu công cuộc đổi mới. Đánh giá thực hiện Nghị quyết đại hội
Đảng sau 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII (12/2005)
đã đánh giá những thành tựu, hạn chế trong xây dựng Quân đội là: Chất lượng
tổng hợp và sức chiến đấu quân đội được nâng lên một bước mới cao hơn, cơ
bản và toàn diện theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đã tập trung chăm lo xây dựng Quân
đội về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ

trang. Cán bộ và chiến sỹ luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhận rõ đối
tượng, đối tác và âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, sẵn sàng nhận và
hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Tổ chức Quân đội được chấn chỉnh một
bước, bảo đảm tương đối hợp lý giữa các lực lượng. Chất lượng huấn luyện


17

sẵn sàng chiến đấu được nâng cao, sát yêu cầu nhiệm vụ, sát đối tượng tác
chiến, phù hợp với trang bị hiện có và cách đánh của ta. Tăng cường công tác
quản lý bộ đội, tỷ lệ quân nhân đào, bỏ ngũ hàng năm giảm đáng kể. Hệ thống
các Nhà trường Quân đội từng bước được củng cố; công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ có bước đổi mới, chất lượng ngày một tiến bộ. Công tác bảo
đảm hậu cần kịp thời, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và các
nhiệm vụ trọng tâm. Đời sống bộ đội được giữ vững và có phần được cải
thiện, chú trọng chăm sóc sức khoẻ bộ đội, vệ sinh phòng dịch, bảo đảm
lượng dự trữ hậu cần cho sẵn sàng chiến đấu tốt. Công tác bảo đảm trang bị
kỹ thuật đã tập trung quản lý số lượng, chất lượng hiện có, bảo đảm số lượng,
chất lượng cho các đơn vị đủ quân, chú trọng củng cố kho tàng, xưởng trạm,
phòng chống cháy nổ, duy trì nghiêm chế độ nền nếp bảo đảm kỹ thuật. Công
tác khoa học, công nghệ môi trường được coi trọng, hoàn thành nhiều công
trình nghiên cứu khoa học đem vào ứng dụng trong thực tế. Đã chú trọng phát
triển công nghiệp quốc phòng, coi trọng đầu tư công nghệ tiên tiến, hiện đại,
bước đầu tạo ra năng lực mới cho phát triển công nghiệp quốc phòng. Triển
khai và thực hiện nhiều dự án đầu tư, đáp ứng một phần đòi hỏi bức xúc về
công nghệ sản xuất, sửa chữa, cải tiến nâng cao chất lượng và tính đồng bộ
của của vũ khí trang bị kỹ thuật. Lãnh đạo quản lý chặt chẽ các nguồn ngân
sách, công tác kế hoạch và đầu tư; thực hiện có hiệu quả lao động sản xuất,
làm kinh tế theo đúng chức năng, nhiệm vụ, chính sách pháp luật của Nhà
nước. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước

đối với Quân đội, triển khai toàn diện các mặt thanh tra, kiểm tra, góp phần
tạo sự chuyển biến về chấp hành pháp luật và giữ vững kỷ cương trong thực
hiện nhiệm vụ quân sự. Như vậy, khẳng định rõ mặc dù trước những biến
động phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, Quân đội luôn
đoàn kết, nhất trí, kiên định vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với
Tổ quốc, với nhân dân, khắc phục mọi khó khăn thực hiện tốt chức năng là


18

đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, chất lượng
và trình độ chính quy, khả năng sẵn sàng chiến đấu từng bước được nâng lên,
góp phần giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình để xây dựng và
phát triển đất nước.Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu là cơ bản, chúng ta
vẫn còn những thiếu sót, khuyết điểm cần khắc phục là: sức mạnh tổng hợp,
khả năng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của Quân đội có mặt chưa
đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nhiệm vụ mới, nhất là trong tác chiến chống
chiến tranh mà địch sử dụng vũ khí công nghệ cao. Công tác nghiên cứu, dự
báo chưa theo kịp diễn biến của tình hình, có lúc có nơi còn chưa toàn diện,
chưa thật sự vững chắc. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có lúc chưa kịp
thời, thiếu chiều sâu, chưa đáp ứng kịp với đòi hỏi của việc xây dựng Quân
đội trong điều kiện mới. Việc chấn chỉnh tổ chức Quân đội còn chậm; quản lý
đất quốc phòng chưa thật chặt chẽ. Công tác huấn luyện còn bất cập, thiếu
thao trường bãi tập. Việc chấp hành chính quy, chấp hành kỷ luật, pháp luật
chuyển biến chưa vững chắc, số vụ nghiêm trọng chưa giảm (tai nạn bay, tai
nạn huấn luyện, tự tử, tự sát). Đời sống bộ đội ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều
khó khăn; việc đầu tư xây dựng kinh tế, tiềm lực hậu cần tại chỗ trong khu
vực phòng thủ trên các hướng chiến lược, khu vực trọng điểm chưa đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ mới. Hiệu quả ứng dụng vào thực tiễn một số công
trình, đề tài nghiên cứu khoa học, công nghệ, trình độ công nghệ, năng lực

sửa chữa, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật còn thấp. Chất lượng xây dựng các
khu vực phòng thủ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng
toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân
chưa thật vững chắc. Những thiếu sót khuyết điểm trên đây do nhiều nguyên
nhân cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân chủ
quan là do chúng ta quán triệt Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về công tác quốc phòng, quân sự còn chưa thật sự sâu sắc. Năng lực vận dụng
cụ thể hoá để thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị vào thực hiện nhiệm vụ còn hạn


19

chế. Nhận thức tình hình nhiệm vụ và trách nhiệm của một số cấp uỷ, đội ngũ cán
bộ chưa được phát huy đầy đủ. Phương pháp tác phong công tác còn biểu hiện
quan liêu, thiếu sâu sát cụ thể. Sự phối hợp của các cơ quan chưa chặt chẽ, thiếu
đồng bộ, công tác thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo, phát hiện sai phạm chậm,
chỉ đạo thiếu kiên quyết, chưa nghiêm, chưa triệt để.
Từ những thành tựu và hạn chế về xây dựng Quân đội nhân dân của
Đảng trong những năm qua, Đảng ta đã chỉ ra những kinh nghiệm sau: Một
là, xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, xây dựng quân đội nói riêng, phải
lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức
chiến đấu của lực lượng vũ trang. Hai là, phải nắm vững quan điểm thực tiễn,
quan điểm phát triển, vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang vào xây dựng Quân đội nhân
dân phù hợp với đặc điểm đất nước trong các thời kỳ cụ thể. Ba là, phải giữ vững
và tăng cường lãnh đạo tuyệt đối, tập trung thống nhất của Đảng đối với Quân đội,
sự quản lý, điều hành của Nhà nước về quốc phòng- an ninh. Bốn là, thường
xuyên coi trọng nâng cao chất lượng lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của các
tổ chức Đảng, tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Năm là, thường
xuyên chăm lo củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng các tổ chức, đội ngũ cán

bộ các cấp và hướng vào cơ sở, tập trung xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.
Những kinh nghiệm trên là chỉnh thể thống nhất tạo cơ sở tiền đề quan
trọng để Đảng tiếp tục quan tâm, chăm lo xây dựng Quân đội nhân vững
mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
4. Phương hướng, giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
Quân đội ta trong tình hình hiện nay


20

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Đảng bộ
Quân đội lần thứ XIII và Nghị quyết số 51/NQ-TW của Bộ Chính trị “Về việc tiếp
tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với
thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Để giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội trong điều kiện hiện nay
cần tiến hành đồng bộ những giải pháp, chủ yếu sau:
Một là, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, cụ thể hoá
đường lối quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đảng lãnh đạo
Quân đội trước hết bằng đường lối quân sự, đường lối xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân. Do vậy, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội cần tiếp tục
nghiên cứu tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển, cụ thể hoá đường lối quân sự
cho phù hợp với yêu cầu của cuộc chiến tranh hiện đại có sử dụng vũ khí công
nghệ cao. Đường lối quân sự của Đảng trong giai đoạn hiện nay phải nhằm
tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước, xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân vững chắc, gắn quốc phòng, an ninh với đối ngoại. Quán triệt phương
hướng xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,

nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở,
làm cho quân đội có đủ sức mạnh đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững
hoà bình, ổn định tạo điều kiện cho phát triển nền kinh tế đất nước, sẵn sàng
đập tan mọi hành động xâm lược của kẻ thù trong bất kỳ tình huống nào. Trong
những năm gần đây, tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, chứa
đựng những yếu tố khó lường. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã, phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân
tộc diễn ra gay go quyết liệt, trật tự thế giới bị đảo lộn, cục diện chính trị thế
giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Cách
mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu quan trọng


21

trên nhiều lĩnh vực. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ ra sức lợi dụng tình
hình trên nhanh chóng ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong
lĩnh vực quốc phòng, phát triển mạnh các loại vũ khí công nghệ cao, chúng
ngang nhiên tiến hành chiến tranh xâm lược các nước độc lập có chủ quyền.
Như các cuộc chiến tranh ở Nam Tư, Vùng Vịnh, Apganistan, I-Rắc…Phần lớn
các loại vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật quân sự của Mỹ sử dụng trong
chiến tranh Việt Nam trước đây đã được đổi mới, hiện đại hoá và thay thế bằng
một thế hệ vũ khí mới - vũ khí công nghệ cao. Sự phát triển của vũ khí công
nghệ cao kéo theo sự thay đổi nghệ thuật quân sự, thủ đoạn chiến tranh,
phương thức tác chiến…Điều đó, đặt ra cho Đảng ta phải quan tâm lãnh đạo
xây dựng quân đội, đẩy mạnh tổng kết chiến tranh, nghiên cứu, phát triển khoa
học quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Xuất phát từ kinh nghiệm đánh
giặc của cha ông ta đúc rút từ mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước,
đã được kế thừa, vận dụng, phát triển rực rỡ trong kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta đánh đổ hai đế

quốc lớn là Pháp và Mỹ, đó là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó có
sự đóng góp không nhỏ của nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam. Tuy
nhiên, khi kẻ thù đã thay đổi phần lớn các loại vũ khí, thủ đoạn tiến hành chiến
tranh, phương thức tác chiến đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, phát triển khoa học
nghệ thuật quân sự Việt Nam cho phù hợp với yêu cầu của cuộc chiến tranh bằng
vũ khí công nghệ cao. Mặt khác, cùng với nghiên cứu phát triển khoa học nghệ
thuật quân sự Việt Nam, Đảng cũng lãnh đạo nhà nước có kế hoạch phát triển công
nghiệp quốc phòng, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng. Tích cực sửa chữa,
cải tiến, nâng cấp, trang bị thêm các loại vũ khí, khí tài, phương tiện kỹ thuật. Mặc
dù, nền kinh tế nước ta ổn định đang trên đà phát triển, nhưng cũng gặp nhiều khó
khăn, song nhà nước cân đối ngân sách, cần thiết phải đầu tư cho việc mua sắm một
số loại vũ khí hiện đại thuộc thế hệ mới để trang bị cho quân đội, tạo mũi nhọn để


22

mở rộng phát triển tiềm lực quân sự khi cần thiết hoặc có điều kiện, đây là yêu cầu
bức thiết cho xây dựng quân đội ta hiện nay.
Hai là, lãnh đạo phát huy vai trò của nhà nước, của hệ thống chính trị và
của toàn dân vào chăm lo xây dựng quân đội. Quân đội là công cụ bạo lực của
Đảng và Nhà nước, là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc, mặc dù quân đội không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng
sự vững mạnh của quân đội có tác dụng răn đe kẻ thù, ngăn ngừa chiến tranh, tạo
môi trường hoà bình, ổn định cho sự phát triển của các ngành, các thành phần
kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng cần tăng cường lãng đạo phát
huy vai trò trách nhiệm của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của các ngành,
các cấp các địa phương, các thành phần kinh tế cùng chăm lo xây dựng quân đội.
Huy động mọi nguồn lực vật chất và tinh thần cho quân đội, cung cấp những con
người có trí thức, có sức khoẻ, được giáo dục tốt, có đủ phẩm chất cần thiết cho
hoạt động quân sự. Làm tốt chính sách thương binh, liệt sĩ, chính sách hậu phương

quân đội, quan tâm đến đời sống, việc làm của những quân nhân hết nghĩa vụ
quân sự… Tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của các cấp, các
ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế về trách nhiệm xây dựng quân
đội. Khắc phục quan niệm cho rằng quân đội là gánh nặng của nhà nước, quân
đội chỉ cần chiến tranh, ngày nay trong thời bình phải bớt ngân sách quốc
phòng…Từ đó thiếu quan tâm đến xây dựng quân đội.
Ba là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với
Quân đội. Để bảo đảm lãnh đạo chặt chẽ quân đội Đảng định ra cơ chế lãnh
đạo, nắm vững và thực hiện đúng cơ chế, không ngừng hoàn thiện cơ chế, làm
cho cơ chế luôn luôn phù hợp với tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ và tổ chức hoạt
động của quân đội trong từng giai đoạn cách mạng là vấn đề quan trọng nhất để
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Cơ chế hiện nay đã phát
huy tác dụng tích cực trên thực tế, nhưng vẫn còn những vấn đề bất cập. Cơ
chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội không phải là một cái gì bất biến. Một


23

cơ chế phát huy tác dụng tốt phải là một cơ chế luôn vận động phát triển cho
phù hợp với sự phát triển của nhiệm vụ cách mạng, phù hợp với nhiệm vụ, tổ
chức và hoạt động của quân đội trong từng giai đoạn. Cho nên, nghiên cứu đổi
mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một việc khó,
cần phải có thời gian, không thể nóng vội. Hướng đổi mới, hoàn thiện cơ chế
lãnh đạo của Đảng phải nhằm vào việc phát huy cao độ vai trò của các tổ chức
đảng, người chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị. Giải quyết
tốt mối quan hệ của các thành phần trong cơ chế, nhất là quan hệ giữa tập thể
cấp uỷ, thường vụ với người chỉ huy, giữa người chỉ huy với chính uỷ, chính trị
viên. khắc phục cho được những biểu hiện độc đoán, chuyên quyền vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, mất đoàn kết
nội bộ.

Bốn là, xây dựng Đảng bộ quân đội trong sạch vững mạnh, có năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu cao; nâng cao chất lượng hoạt động công tác đảng,
công tác chính trị. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một
vấn đề hết sức quan trọng, do đó phải chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội
vững mạnh, chăm lo nâng cao chất lượng hoạt động công tác đảng, công tác
chính trị. Vì Đảng lãnh đạo thông qua hệ thống tổ chức đảng và thông qua đội
ngũ đảng viên trong quân đội, thông qua việc tiến hành công tác đảng, công tác
chính trị trong quân đội. Kẻ thù xác định muốn “phi chính trị hoá” quân đội,
tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng trước hết phải làm suy yếu Đảng bộ
Quân đội. Tuy nhiên chúng có thực hiện được ý đồ đó hay không lại do chúng
ta. Từ trước đến nay, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội vững
mạnh, đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho quân đội có đủ
sức mạnh chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, đây chính là bài học
kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn lãnh đạo quân đội của Đảng. Điều đó chứng
minh, ở đâu, khi nào, tổ chức đảng không mạnh thì ở đó đơn vị hoàn thành
nhiệm vụ thấp, thậm trí có khi không hoàn thành nhiệm vụ. Bản chất công tác


24

đảng, công tác chính trị là hoạt động lãnh đạo, tiến hành công tác đảng, công
tác chính trị mục đích nhằm giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội, muốn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội không
thể không nâng cao chất lượng hoạt động công tác đảng, công tác chính trị. Để
thực hiện được mục đích và nội dung lãnh đạo của mình, trước hết, Đảng phải
đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng, củng cố vững chắc
trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn tuyệt
đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, kiên định mục tiêu lý
tưởng của Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà
nước giao cho. Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, kiên quyết đấu

tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội của kẻ thù. Hơn lúc nào
hết quân đội phải thực sự trở thành pháo đài kiên cố trong cuộc đấu tranh giai
cấp trên lĩnh vực chính trị tư tưởng bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng. Cho nên, Đảng phải giáo dục cho
cán bộ, chiến sĩ quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, không được giao
động trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào, làm cho quân đội thực sự là lực
lượng tin cậy về chính trị. Sắp xếp, kiện toàn các tổ chức cho phù hợp với thế
trận quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm
cho các tổ chức đảng quán triệt sâu sắc đường lối, nghị quyết của đảng, vận
dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đơn vị. Kịp thời đề ra chủ trương biện
pháp lãnh đạo sát đúng, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ đơn vị. Đổi mới quy
trình ra nghị quyết và thực hiện nghị quyết, bảo đảm nghị quyết ngắn gọn, rễ
hiểu, rễ nhớ, rễ thực hiện. Thực hiện tốt các nguyên tắc, nề nếp chế độ sinh
hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê
bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII. Kết hợp chặt
chẽ giữa xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng đơn vị
vững mạnh toàn diện. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng, nâng cao tỷ lệ lãnh


25

đạo chi bộ đại đội, nhất là chi bộ đại đội bộ binh có cấp uỷ. Nâng tỷ lệ tổ chức
đảng trong sạch vững mạnh, có biện pháp khắc phục làm giảm tỷ lệ tổ chức
đảng yếu kém, nhất là các tổ chức đảng yếu kém kéo dài. Tập trung sức nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên, trước hết là nâng cao vai trò tiên phong
gương mẫu, nói đi đôi với làm. Làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện
đảng viên, khắc phục cho được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ
tài, đủ về số lượng, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, nhất là cán bộ chủ chốt.

Làm tốt công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, kiên quyết sử lý những cán bộ đảng
viên vi phạm kỷ luật, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá biến
chất, không đủ tư cách đảng viên. Bảo đảm cho tổ chức đảng luôn trong sạch,
xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết trong đơn vị. Xây dựng các
tổ chức quần chúng vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, đẩy mạnh công tác
thi đua, xây dựng môi trường văn hoá, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của
bộ đội. Phối hợp với cấp uỷ, chính quyền đoàn thể và nhân dân địa phương xây
dựng địa bàn an toàn, giữ vững an ninh chính trị và địa bàn nơi đóng quân.
Năm là, quan tâm xây dựng cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính
trị. Cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị là những người đảm nhiệm công
tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị. Chất lượng chính trị của quân đội, của
đơn vị phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất, năng lực, trách nhiệm của cơ quan
chính trị, cán bộ chính trị. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, chỉ
thị, nghị quyết của cấp uỷ, người chỉ huy các cấp có đến được với mọi cán bộ,
chiến sĩ hay không, có biến thành hành động của cán bộ, chiến sĩ hay không phần
lớn là do cơ quan chính trị và cán bộ chính trị. Bởi vì, đây là những cán bộ, đảng
viên của Đảng hoạt động trong lĩnh vực quân sự, những người đem tiếng nói của
Đảng đến với quần chúng, đồng thời phản ánh cho Đảng để Đảng nắm được tâm
tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng để đề ra chủ trương, chính sách cho
phù hợp. Cơ quan chính trị, cán bộ chính trị là cầu nối liền Đảng với quần chúng,


×