Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.83 KB, 28 trang )

Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

I. PHẦN MỞ ĐÀU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Non sơng Việt Nam có trở
nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công
học tập của các em”. Thực hiện lời dạy đó của Người, thế hệ trẻ đã và đang ra sức
học tập, phấn đấu để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và từng bước sánh
vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Quá trình học tập, phấn đấu của thế
hệ trẻ là một quá trình phát triển lâu dài. Để sau này trở thành những chủ nhân góp
phần dựng xây đất nước thì mỗi cá nhân phải có sự rèn luyện và nỗ lực ngay từ
đầu. Sự phát triển của mỗi cá nhân có sự đóng góp quan trọng của người thầy,
người cô, đặc biệt là lúc bắt đầu bước vào tuổi đi học.
Trong xu thế phát triển của đất nước hiện nay, từ những thay đổi quan trọng
về kinh tế, xã hội, đòi hỏi giáo dục phải nâng cao chất lượng giảng dạy. Để nâng
cao chất lượng giảng dạy, mỗi giáo viên phải không ngừng học tập và trao dồi kiến
thức nhằm tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp để truyền thụ cho học sinh.
Ở trường tiểu học mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ vơ vùng quan
trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học
sinh. Kỹ năng đọc là một trong số công cụ sử dụng trong học tập và trong giao
tiếp. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu lốt,
trơi chảy), đọc có ý thức (thơng hiểu được nội dung những điều
mình đọc hay cịn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Có đọc đúng
thì mới viết đúng, mới hiểu được nội dung mình vừa đọc. Chính vì
thế kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng khơng thiếu được trong chương trình
mơn Tiếng Việt ở bậc tiểu học.
Cùng với kỹ năng viết, kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em
cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có
điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham
khảo,...,từ đó có điều kiện học tốt các mơn học học khác có trong chương trình.


Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - lớp đầu cấp - các em bắt đầu
làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Và kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc
được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc
đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học,
hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các
lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc
thành thạo, đọc đúng, đọc trơi chảy thì khi lên các lớp trên các em nắm bắt được
những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt, sẽ học vững vàng, học tốt
hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn. Việc dạy đọc ở lớp 1
cũng quan trọng bởi từ chỗ các em còn phải đọc đánh vần từng
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

1


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối
khó với các em mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng
đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt từ đó cảm nhận sự giàu đẹp
của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong môn học. Thế
nhưng hiện nay, ở trường tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ,
đặc biệt ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong
những lý do mà học sinh của chúng ta đọc và nói cịn sai dấu
thanh, sai ngữ nghĩa. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài “ Một vài
kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp Một dân tộc thiếu số ở
trường Tiểu học Võ Thị Sáu” .
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu: Thực hiện đề tài này với mục đích nâng cao khả năng đọc đúng và
tìm ra biện pháp hữu hiệu khắc phục, giải quyết triệt để lỗi phát âm sai tiếng Việt

của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Từ đó góp phần nâng cao chun mơn nghiệp
vụ cho bản thân, nâng cao chất lượng đọc của học sinh nhất là đọc hiểu tiếng Việt,
dần dần nâng cao chất lượng môn học tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu
số, góp phần đưa chất lượng giáo dục ngày một tốt hơn.
Nhiệm vụ của đề tài: Tìm ra được biện pháp giúp học sinh đọc đúng, biết sửa
sai trong quá trình phát âm tiếng Việt để học tốt môn Tiếng Việt. Khắc phục được
những lỗi mà học sinh thường mắc phải để mỗi giáo viên có hướng rèn luyện, bồi
dưỡng hiệu quả việc phát âm tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số khi bắt đầu
bước vào lớp đầu cấp.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một vài kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp Một dân tộc
thiếu số ở trường tiểu học Võ Thị Sáu.
4. Giới hạn của đề tài
Học sinh lớp 1A, Trường Tiểu học Võ Thị Sáu, xã Ea Bông, huyện Krông
Ana, tỉnh Đắk Lắk năm học 2016 – 2017 ( từ tháng 9/2016 đến tháng 3/2017).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp trải nghiệm thực tế
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thống kê, tổng hợp
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận

GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

2


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu


Như chúng ta đã biết “Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của lồi
người ” (Lê Nin) .“Ngơn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng ”(Mác).
Ngôn ngữ là phương tiện biểu hiện tâm trạng, tình cảm. Chức năng quan
trọng của ngôn ngữ đã quy định sự cần thiết nghiên cứu sâu sắc kỹ năng đọc trong
phân môn Tiếng Việt và trong hệ thống giáo dục nhà trường. Có đọc thơng thì mới
viết thạo, mới hiểu được nội dung mình vừa đọc. Học sinh lớp một chỉ hồn thành
chương trình khi các em biết đọc chữ .
Chúng ta đều nhận thức sâu sắc rằng, môn Tiếng Việt ở tiểu học rèn luyện
cho học sinh cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết song mục tiêu của việc dạy và học
Tiếng Việt ở lớp một là đem lại cho các em kỹ năng đọc đúng, viết đúng. Ngồi ra
cịn làm giàu vốn từ, biết nói đúng các mẫu câu ngắn và tạo cho các em sự ham
thích thơ văn. Đây là điều kiện chuẩn bị để các em học tốt hơn môn Tiếng Việt ở
các lớp trên . Khả năng nhận thức, tư duy, tưởng tượng, tình cảm, trí nhớ và nhân
cách học sinh đang được hình thành. Học sinh lớp Một hồn nhiên, ngây thơ, trong
sáng, hiếu động, tị mị, thích hoạt động, thích khám phá, hay bắt chước. Vì vậy sự
phát triển nhân cách của học sinh Tiểu học phụ thuộc phần lớn vào quá trình dạy
học và giáo dục của thầy, cô giáo trong nhà trường. Nghe, nói, đọc, viết là bốn kĩ
năng cơ bản của môn Tiếng Việt, để đạt các yêu cầu so với chuẩn kiến thức kĩ năng
theo quyết định số 16/2006/ QĐ- BGD& ĐT ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2006.
Rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp Một góp phần giúp các em hiểu, cảm thụ
văn học, rèn luyện tình cảm đạo đức, ý chí, ý thức, hành động đúng cho trẻ, phát
triển khả năng học tập các môn học khác là điều kiện phát triển toàn diện cho học
sinh Tiểu học trong giai đoạn hiện nay. Nhân cách học sinh Tiểu học phát triển
đúng đắn hay lệch lạc phụ thuộc vào quá trình giáo dục của người thầy mà trong đó
phương tiện chủ yếu là nghe, nói, đọc, viết có được trong q trình học tập. Dạy
đọc đặc biệt là chú trọng việc rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc
thiểu số, đòi hỏi người thầy phải phát âm chuẩn và có phương pháp dạy học phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học. Ngày nay với sự phát triển tiến
bộ của khoa học, xã hội, giáo dục cần đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết của học sinh
Tiểu học và tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách, rèn kỹ năng sống cho trẻ.

Trường tiểu học Võ Thị Sáu có 97,5% học sinh dân tộc thiểu số. Các em gặp
khơng ít khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt, học tập đó là: thiếu điều kiện học tập,
q trình học không liên tục, kiến thức nắm không vững chắc, thiếu động cơ học
tập. Biết đọc, biết viết là mục tiêu số một ở học sinh Tiểu học. Vốn tiếng Việt là rất
cần thiết trước khi học chữ. Không biết hoặc biết ít tiếng Việt là trở ngại lớn nhất
cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Tập nói tiếng Việt là nhiệm vụ đầu tiên với các
em. Học sinh dân tộc cần có vốn tiếng Việt trước để học chữ. Bộ giáo dục đã có
nhiều văn bản chỉ đạo như công văn 9832/ BGD&ĐT - GDTH ngày 1 tháng 9 năm
2006, công văn 9890/ BGD&ĐT – GDTH ngày 17 tháng 9 năm 2007 về việc
hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục cho học sinh có hồn cảnh khó khăn.
Ngày 9 tháng 8 năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức hội nghị "Triển khai
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

3


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

các phương án tăng cường tiếng Việt (lớp 1) cho học sinh dân tộc thiểu số ". Tại
hội nghị, xuất phát từ những quan điểm, lý luận giáo dục và cách tiếp cận gắn với
đặc điểm học sinh dân tộc các vùng miền, năm phương án về chủ đề này đã được
trình bày, và trao đổi ý kiến rộng rãi. Đó là: Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo
trước tuổi đến trường (Vụ GD Mầm non). Dạy tiếng Việt trên cơ sở tiếng mẹ đẻ
trong chương trình song ngữ Ê- đê - Việt (Vụ GD Dân tộc). Nghiên cứu thử
nghiệm giáo dục song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ (Trung tâm Nghiên cứu GD dân
tộc). Dạy học tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 1(Nhóm
tăng cường năng lực dạy và học- Dự án PEDC). Dạy học lớp 1 cho học sinh dân
tộc chưa biết nói tiếng Việt (Trung tâm Cơng nghệ GD). Cơng văn số 8114/
BGD&ĐT- GDTH V/v nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số
ban hành ngày 15 tháng 9 năm 2009.

2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
a. Thuận lơi, khó khăn
* Thuận lợi
Về giáo viên
Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo các cấp về chuyên môn đã
tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn bồi dưỡng cho giáo viên, cung cấp đầy đủ
tài liệu, phương tiện giảng dạy.
Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ
hàng tháng, tổ chức những buổi họp chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra
những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.
Một số giáo viên trong trường có tay nghề vững, lâu năm trong cơng tác, có
nhiều kinh nghiệm, có tinh thần trách nhiệm cao và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp
về chun mơn cũng như cách tháo gỡ những khó khăn khi gặp các trường hợp học
sinh khó khăn về học tập cũng như phẩm chất.
Bản thân có kinh nghiệm dạy lớp 1.
Về học sinh
Ở độ 6 - 7 tuổi, đa số các em còn rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cơ giáo,
thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng vv….
Một số cha mẹ học sinh có ý thức trách nhiệm đến việc học tập rèn luyện của
con em, khơng khốn trắng cho nhà trường cho giáo viên và phối hợp với giáo
viên trong việc giúp con em mình học tập như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng
học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em đến lớp cũng như
học tập ở nhà.
Đa số các em học sinh được làm quen tiếng Việt ngay sau khi tuyển sinh vào
lớp Một.
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

4



Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

100% học sinh được học 8 buổi / tuần.
* Khó khăn
Về nhà trường: Cơ sở vật chất chưa đáp ứng với nhu cầu giảng dạy.
Về giáo viên: Năng lực không đồng đều, số giáo viên là người dân tộc thiểu
số trong khối chiếm 75% .
Tranh ảnh minh họa có sẵn cho mơn Tiếng Việt cịn hạn chế. Giáo viên cịn
mất thời gian đầu tư vào làm đồ dùng dạy học.
Về học sinh
Năm học 2016 – 2017, học sinh dân tộc thiểu số không được cấp phát đầy đủ
sách vở nên một số em đi học còn thiếu sách vở, đồ dùng học tập. Trong lớp có
85% học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số, tỉ lệ học sinh con hộ nghèo 45%.
Trình độ học sinh trong lớp khơng đồng đều. Bên cạnh những em phát triển,
học tốt, tiếp thu nhanh vẫn cịn một số em khó khăn về thể chất, bé nhỏ hơn so với
các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm
tiến. Một số em chưa biết cách cầm bút, chưa nhớ các chữ cái, khơng có khả năng
ghi nhớ. Một số em chưa có ý thức trong học tập và không muốn đi học.
Do đặc trưng người dân tộc Ê- đê các em chủ yếu phát âm sai ở dấu thanh,
một số phụ âm đầu như p / ph ; r/d và vần như êch/ êt; eo/oe,…
Đa số các em con nhà nông nên chưa được cha mẹ quan tâm đúng mức đến
việc học tập, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em mình học bài, đọc bài ở
nhà.
Trong quá trình truyền thụ kiến thức một số học sinh hay nghỉ học, tiếp thu
bài chậm cộng với số học sinh lưu ban của năm học trước, số học sinh ham chơi
không học bài làm cho giáo viên lớp một vốn đã khó khăn nay lại càng khó khăn
hơn.
b. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Trong những năm gần đây nhờ sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phòng
GD&ĐT, sự quan tâm phối hợp của địa phương, sự chỉ đạo linh hoạt của Ban lãnh

đạo nhà trường, sự nỗ lực của các anh chị em giáo viên và sự hợp tác của cha mẹ
học sinh đã tạo nên nguồn động lực lớn thúc đẩy việc dạy và học ngày càng đi vào
khuôn khổ, nề nếp đối với thầy và trị.
Bên cạnh đó việc bồi dưỡng chun mơn nghiệp vụ ở một số giáo viên cịn
hạn chế, bởi:
Một vài đồng chí giáo viên tuổi cao, một số giáo viên là người dân tộc thiểu
số khả năng ứng dụng công nghệ thông tin hạn chế.
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

5


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Một vài giáo viên chưa biết vận dụng các nguyên tắc dạy học môn Tiếng
Việt trong thực hành giảng dạy.
Việc chuẩn bị bài và lập kế hoạch bài dạy chưa cụ thể, vận dụng phương
pháp dạy học chưa linh hoạt, chưa đảm bảo quy trình và đặc trưng bộ mơn.
Việc hướng dẫn học sinh sửa sai chưa kịp thời, chưa tỉ mỉ, chưa quan tâm
đến việc học tập và sử dụng tiếng phổ thông cho các em ở tại gia đình và trong
cộng đồng. Việc sử dụng đồ dùng, thiết bị trong q trình dạy của thầy và học của
trị chưa hiệu quả.
Một số giáo viên chưa đầu tư về chuyên môn.
Một số giáo viên chưa coi trọng việc đọc mẫu nên phát âm (đọc mẫu) chưa
đúng với chuẩn. Một số giáo viên cịn phát âm theo ngơn ngữ địa phương các vùng
miền của mình nên rất khó khăn khi rèn đọc tiếng Việt cho học sinh.

GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

6



Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Một số giáo viên chưa chú ý đến việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học làm thế nào để các đối tượng học sinh nắm được kiến thức biết đọc ,
biết viết.
Nguyên nhân là do giáo viên phải dạy nhiều môn, một số giáo viên tuổi cao
nên chưa theo kịp sự đổi mới, chưa chịu khó tìm tòi những phương pháp dạy
học hữu hiệu trong giảng dạy. Vì thế chưa tạo hứng thú lơi cuốn được sự tập
trung chú ý nghe giảng của học sinh. Bên cạnh đó tiếng Việt lại là ngơn ngữ thứ
hai của các em học sinh dân tộc thiểu số, đây là kiến thức mới mẻ đối với các
em.

c. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra

GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

7


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Năm học 2016 – 2017, tôi được phân công dạy lớp 1A và trực tiếp giảng dạy
môn Tiếng Việt. Khả năng học tập của các em chưa đồng đều, có em đọc viết
rất tốt nhưng vẫn có em chỉ biết đánh vần, có em chưa biết đọc. Tuy nhiên với
các em học sinh lớp Một dân tộc thiểu số thì tiếng Việt là môn học mà các em
gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên, khi dạy mơn Tiếng Việt nhất là trong thời
gian đầu năm, các em rất lúng túng khi sử dụng đồ dùng học tập và tham gia
đọc, viết bài. Thực tế cho ta thấy việc giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số học

tốt tiếng Việt là việc làm cần thiết. Rèn phát âm tiếng Việt là nhiệm vụ rất quan
trọng đối với giáo viên Tiểu học. Do đó, vấn đề dạy rèn phát âm tiếng Việt hiện
nay đang được quan tâm, chú trọng. Có nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra
nhằm nâng cao chất lượng phát âm tiếng Việt, chất lượng đọc cho sinh lớp 1.
Đối với học sinh dân tộc thiểu số, tiếng Việt không phải là ngôn ngữ duy nhất
để các em tiếp thu kiến thức và nhận biết thế giới xung quanh, các em đến
trường với một ngơn ngữ hồn tồn khác ngôn ngữ thường sử dụng tiếng mẹ
đẻ, bởi vậy tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng nhiều đến quá trình học tiếng Việt của trẻ.
Một số giáo viên chưa chú ý đến việc rèn phát âm cho học sinh, chưa thấy được
tầm quan trọng của việc đọc đúng, đọc tốt có tác dụng cao trong quá trình dạy
học và chưa hiểu hết tầm quan trọng của môn học Tiếng Việt trong hệ thống
giáo dục quốc dân. Một số giáo viên thì đã thực hiện tuy nhiên việc thực hiện
chưa đúng cách, chưa phù hợp với thực tế dẫn đến hiệu quả đạt được chưa cao.
Đa số học sinh mặc dù đã được học qua trường mầm non nhưng chưa nắm
được 29 chữ cái. Một số em gia đình khó khăn cha mẹ đi làm xa không quan
tâm nhắc nhở các em học tập. Một số em gia đình khơng hịa thuận, bố mẹ
không chung sống với nhau nữa phải ở với ông bà nên thiếu sự giúp đỡ, an ủi
khi học tập. Một số em hay nghỉ học theo cha mẹ đi làm nên tiếp thu kiến thức
không liền mạnh dẫn đến không đọc, viết được. Một số em do tuổi lớn, khó
khăn về học khả năng tiếp thu bài hạn chế. Nhận thức được sự cần thiết của
việc nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt đối với các em học sinh lớp 1 dân tộc thiểu
số, tơi đã tìm tịi đổi mới hình thức tổ chức, đổi mới phương pháp dạy học với
mục đích nâng cao kĩ năng đọc đúng nhằm nâng cao hiệu quả học môn tiếng
Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số.
Việc học tiếng Việt với học sinh dân tộc thiểu số đặc biệt là học sinh lớp 1
chủ yếu học qua các hoạt động ở trường. Ở nhà, các em ít được giao tiếp bằng tiếng
Việt bởi lẽ vốn tiếng Việt của bố mẹ, anh, chị và những người sống xung quanh các
em cịn hạn chế. Chính vì vậy các em khơng được tiếp cận vốn tiếng Việt do người
thân mang lại cho nên việc dạy học tiếng Việt đối với học sinh lớp 1 càng khó khăn
đối với các thầy, cô giáo, những người tâm huyết với nghề dạy trẻ nhất là những

người đang trực tiếp tham gia giảng dạy trong vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó
một số gia đình cịn cho con em nghỉ học đi nương đi rẫy trong dịp mùa màng. Một
số em ít được cha mẹ quan tâm nhắc nhở các em đi học, còn đổ lỗi và đẩy trách
nhiệm cho giáo viên. Việc đi học không đều cũng ảnh hưởng đến việc học tập của
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

8


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

các em. Lớp học có nhiều đối tượng khác nhau, việc phân chia kiến thức trong một
tiết học còn nhiều khó khăn và hạn chế.
Đặc biệt ở lớp tơi dạy với 85% là học sinh dân tộc thiểu số, hoàn cảnh gia
đình nhiều em gặp khơng ít khó khăn do đó các em đi học cịn thiếu thốn nhiều thứ
cụ thể có em chưa có sách vở, có em chưa có bộ quần áo đồng phục, có em đến lớp
quên bút, qn chì, qn bảng con. Thậm chí có em cịn khơng có cặp đựng sách
mà chỉ đựng sách vở bằng chiếc túi ni lông nên việc mất đồ dùng học tập xảy ra
thường xuyên,… Do ảnh hưởng của tiếng mẹ nên đa số các em tiếp thu bài chưa
tốt, khả năng ghi nhớ chậm. Do đó việc dạy học tiếng Việt cho các em lại càng khó
hơn.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
Việc rèn kĩ năng đọc đúng tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số là việc
làm cấp bách nhằm giúp các em học tốt môn Tiếng Việt. Thông qua đó phát triển
các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các em. Giúp học sinh hiểu nội dung kiến thức
được học, mở rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức, nắm chắc âm vần vừa học, biết vận
dụng vào từng trường hợp cụ thể. Từ đó nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng
Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, biết sử dụng tiếng phổ thông vào trong
cuộc sống hằng ngày, giúp các em hòa nhập với cộng đồng. Đó cũng là giúp các

em có kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sống tốt trong cuộc sống hằng ngày.

b. Nôi dung và cách thức thực hiện giải pháp
Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc đúng tôi đã áp dụng
những biện pháp sau:
Giải pháp thứ nhất. Nắm bắt thực trạng của lớp
Mặc dù đã được nhận bàn giao học sinh mẫu giáo 5 tuổi ở cuối năm học
trước, xong khi được phân công chủ nhiệm lớp, tơi tiến hành tìm hiểu để biết rõ số
học sinh trong lớp đi học Mẫu Giáo chuyên cần và số học sinh đi học chưa chuyên
cần. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó đi học không chuyên cần và
kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở Mẫu Giáo bởi vì đối với
học sinh dân tộc thiểu số qua thời gian nghỉ hè các em lại quên hết những gì đã
được học trong năm học trước, kết quả điều tra như sau:
Tổng số học sinh lớp 1A

: 30 học sinh

Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái
Học sinh không biết chữ cái nào

:

7 em

GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

9


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu


Biết 2 – 5 chữ cái

:

3 em

Biết 6 – 10 chữ cái

:

9 em

Nhận biết hết bảng chữ cái

:

8 em

Nhận biết âm hai chữ cái

:

3 em

Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái
còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn gặp nhiều khó khăn.
Một trong những lý do dễ thấy là vì các em cịn q nhỏ, chưa có ý thức tự
giác trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm của từng đối
tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học

sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em
sẽ thích học.
Giải pháp thứ hai. Nắm bắt đặc điểm cá nhân và lập kế hoạch giúp đỡ
Sự tiếp thu của các em khác nhau tuỳ thuộc vào thể trạng và khả năng tiếp
thu của từng em vì vậy chúng ta cần phải nắm rõ đặc điểm tâm lí,…của các em để
có những phương pháp hình thức dạy học phù hợp. Ví dụ em Nguyễn Đình Hồng
tiếp thu bài thì chậm mà bắt chước thì nhanh thích gì thì em thường hay bắt chước
và thường làm đi làm lại hành động đó nhiều lần. Cịn em Y En Kơ Bkrơng thì tính
tình rất thất thường có lúc vui thì tham gia học, có khi cả buổi chỉ ngồi trong lớp
mà không tham gia hoạt động học cùng các bạn. Cịn Y Li Kơ Bkrơng có tiếp thu
được bài nhưng lại mau quên. Việc tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý qua thực tế giao
tiếp với các em, tôi luôn nắm bắt đặc điểm tâm lý của từng em để xây dựng kế
hoạch cá nhân, phát triển các mặt tích cực, tạo nhiều tình huống giúp các em tự bộc
lộ khả năng nhận thức của mình một cách thích thú khi vào các tiết học .
Ở lớp có 30 học sinh nhưng trình độ tiếp thu của các em rất khác nhau.
Ví dụ : Y Câu Êban, Nguyễn Đình Hồng thích thì học khơng thích thì thơi,
nhận thức rất chậm suốt buổi em chỉ loay hoay với quyển sách và hộp chữ nhưng
lại không nhận biết được mặt chữ cái và chỉ biết lặp lại theo lời của cô. Vì vậy cần
có kế hoạch dạy cho em vừa thao tác trên đồ dùng bộ đồ dùng tiếng Việt, vừa nhận
biết được chữ cái ( âm), biết phát âm theo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng. Tôi
luôn phải chú ý trong quá trình dạy em, theo dõi mức độ hợp tác của em xem em
gặp khó khăn trong vấn đề nào hay về tâm lý thất thường của em, ghi chép mức độ
tiến bộ của em.
Và những học sinh khác trong lớp, tơi cũng có những kế hoạch giáo dục cá
nhân cụ thể cho từng em và được theo dõi liên tục từng tháng để nắm được sự phát
triển của từng em qua sổ theo dõi cá nhân, … Khi đó, tơi sẽ có những phương pháp,
biện pháp phù hợp hơn.
Giải pháp thứ ba. Biện pháp tác động giáo dục
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017


10


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp cha mẹ học sinh đầu năm học, thông
qua buổi họp tôi đề nghị và yêu cầu các bậc cha mẹ học sinh trang bị đầy đủ sách
vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học và thường xuyên nhắc nhở việc học bài
đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách
đọc, cách phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để phụ huynh nắm
rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
Tham mưu với nhà trường mua sắm đầy đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy
học, tự làm thêm tranh ảnh mơ hình, sưu tầm thêm những mơ hình vật thật để tiết
dạy vui, sinh động. Mượn đồ dùng học tập, sách giáo khoa cho học sinh có hồn
cảnh khó khăn. Đồng thời tăng cường vận dụng ứng dụng công nghệ thơng tin
trong dạy học, qua những hình ảnh động cũng góp phần gây hứng thú giúp các em
hưng phấn trong luyện đọc .
Xây dựng đơi bạn cùng tiến, em có năng khiếu giúp em cịn khó khăn trong
học tập.
Phát động các phong trào thi đua có tổng kết khen thưởng bằng những vật
thật.
Sắp xếp chỗ ngồi đảm bảo thuận tiện cho việc học tập của các em như em có
năng khiếu ngồi bên em cịn khó khăn trong học tập để bạn có năng khiếu sẽ giúp
bạn cịn khó khăn trong học tập khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng
và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.

Giải pháp thứ tư. Giúp học sinh nắm vững các âm, vần
Ngay từ đầu năm, sau khi phân loại học sinh, tiến hành bồi dưỡng, luyện tập
cho học sinh theo các mức năng khiếu, khó khăn. Đối với các học sinh cịn khó
khăn trong học tập, các em chưa nhận diện được mặt chữ cái hoặc chưa nhớ đủ 29

chữ cái đơn giản, tôi dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và
dạy lại 29 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.
* Đối với phần học các nét chữ cơ bản
Ngay sau những buổi học đầu tiên ổn định tổ chức nề nếp cho học sinh, tôi
cho các em làm quen với các nét chữ cơ bản. Tôi dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và
cách viết các nét chữ đó. Để giúp các em dễ hiểu và dễ nhớ những nét cơ bản đó tơi
đã chia các nét chữ cơ bản đó theo tên gọi và cấu tạo gần giống nhau của các nét
chữ đó thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét chữ
cơ bản đã học mà các em phân biệt được các chữ cái, kể cả các chữ cái có hình
dạng, cấu tạo giống nhau hoặc gần giống nhau.
- Các nét chữ cơ bản quen thuộc
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

11


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Dạy về các nét cơ bản, tôi đã sắp xếp, phân chia các nét cơ bản thành các
nhóm để khi đọc học sinh ít nhầm lẫn và dễ dàng nhận biết.
+ Nhóm nét thẳng: nét thẳng đứng
nét thẳng ngang
+ Nhóm nét xiên:

nét xiên trái
nét xiên phải

+ Nhóm nét cong:

nét cong kín


nét cong trên
nét cong dưới
+ Nhóm nét móc:

nét móc xi phải
nét móc xi trái
nét móc ngược phải
nét móc ngược trái
nét móc hai đầu
nét móc hai đầu có thắt ở giữa

+ Nhóm nét khuyết: nét khuyết trên
nét khuyết dưới
+ Nhóm nét thắt:

nét thắt
nét móc hai đầu có thắt ở giữa

Khi các em đã học thuộc tên các nét cơ bản, tôi cùng các em phân chia các
chữ cái theo nhóm các chữ cái đồng dạng để dễ dàng luyện đọc.
- Các chữ viết thường
+ Nhóm 1: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, ê, x.
gồm 7 chữ cái)
+ Nhóm 2: Những chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc
(hoặc nét thẳng): a, â, ă, d, đ, q. (gồm 6 chữ cái)
+ Nhóm 3: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, t, u, u, p, n, m
(gồm 7 chữ cái)
+ Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong)
phối hợp với nét móc: l, h, k, b, y, g (gồm 6 chữ cái)

+ Nhóm 5: Nhóm các chữ cái có nét móc phối hợp với nét cong: r, v, s
(gồm 3 chữ cái).
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

12


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

- Các chữ viết hoa
+ Nhóm 1: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: A , Â , A , M, N ,
U, O , I, K , L (gồm 10 chữ cái)
+ Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong: O, Â, O , Q, C, E, Ê, P,
R (gồm 8 chữ cái)
+ Nhóm 3: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc phối hợp với nét
cong: B, P, R (gồm 3 chữ cái)
+ Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét lượn dọc (lượn ngang)
phối hợp với nét cong: D, D , L, S (gồm 4 chữ cái)
+ Nhóm 5: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết: H, G, Y (gồm 3
chữ cái).
* Phần học âm
Âm đơn
Sau khi học sinh học thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản thì tơi giảng
dạy tiếp phần học âm (chữ cái). Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vơ cùng quan
trọng. Các em có nắm vững chắc các chữ cái thì mới ghép được thành vần, rồi
thành tiếng và cuối cùng là thành một câu, một đoạn văn hồn chỉnh.
Giai đoạn này tơi hướng dẫn các em phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng
chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều chữ viết khác nhau
như chữ a, chữ g thì tiến hành phân tích cho học sinh hiểu và hướng dẫn học sinh
cách nhận dạng để các em không bị lúng túng khi gặp các chữ này.

Ví dụ:
Âm: a – a

;

g–g

+ Âm a (âm a in thường) gồm hai nét: nét cong kín và nét sổ thẳng;
+ Âm a (âm a viết thường) cũng gồm hai nét đó là nét cong kín và nét móc
dưới.
+ Âm g (âm g in thường) gồm: nét cong kín và nét móc dưới;
+ Âm g (âm g viết thường) cũng gồm nét cong kín và nét khuyết dưới.
Vì vậy, khi các em đã nắm các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp các
em phân tích được cấu tạo của các âm, từ đó các em dễ phân biệt được sự khác
nhau về cấu tạo lẫn tên gọi của bốn âm quen thuộc sau: d; b; p; q.
Ví dụ:
+ Âm d gồm hai nét: nét cong kín (nằm bên trái) và nét sổ thẳng (nằm bên
phải). Đọc là: “dờ”.
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

13


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

+ Âm b gồm hai nét: nét sổ thẳng (nằm bên trái) và nét cong kín (nằm bên
phải). Đọc là: “bờ”.
+ Âm p gồm hai nét: nét sổ thẳng (nằm bên trái) và nét cong kín (nằm bên
phải). Đọc là: “pờ”.
+ Âm q gồm hai nét: nét cong kín (nằm bên trái) và nét sổ thẳng (nằm bên

phải). Đọc là: “quy”.
Âm ghép
Sang phần âm ghép (nghĩa là ghép hai hoặc ba âm đơn lại với nhau thành
một âm ghép). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm ghép có âm h đứng sau thành một
nhóm và cho các em nói lên điểm giống nhau và khác nhau giữa các âm đó.
Ví dụ:
+ Các âm ghép
ch – c
nh – n
th

– t

kh – k
gh – g
ph – p
ngh – ng
+ Còn lại các âm: gi, tr, qu, ng, tôi cho học sinh nhận biết thật kỹ cấu tạo và
cách ghép các chữ thành âm ghép.
+ Bên cạnh đó, tơi cho học sinh nhận biết từng cặp những âm có tên gọi
giống nhau hoặc gần giống nhau:
Ví dụ:

ch – tr
ng – ngh
c

– k

g


– gh

* Phần học vần
Sang giai đoạn học vần, học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm
quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận
biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.
Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen nhận diện, phân
tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần.
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

14


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Ví dụ : Bài 72: et – êt.
Việc đầu tiên tơi u cầu học sinh tìm trong bộ đồ dùng tiếng Việt rồi ghép
vần et. Sau đó cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần et: vần et gồm 2 âm, âm e
đứng trước và âm t đứng sau. Nếu em nào ghép chưa đúng thì ghép lại và nêu vị trí
âm trong vần: âm e đứng trước, âm t đứng sau.
Việc thứ hai là đánh vần vần et, tôi gọi 1 em đánh vần rồi nêu cách đánh
vần âm e đứng trước ta đọc e trước, âm t đứng sau ta đọc t sau : e – t – et .
Việc thứ ba là đọc trơn vần et
Với cách dạy trên tôi đã tạo cho các em kỹ năng phân tích, nhận diện và
ghép vần từ đó các em có kĩ năng đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và
thành thạo. Khi đã nắm được cấu tạo của vần thì các em sẽ vận dụng để đọc các từ
ngữ và câu ứng dụng. Lúc này tôi tiến hành đưa ra câu hỏi gợi mở giúp các em
nhận biết và đọc tiếng mới cụ thể như muốn có tiếng tét, ta thêm âm và dấu thanh
gì? ( ta thêm âm t và dấu thanh sắc). Dựa vào đó học sinh ghép tiếng tét rồi phân

tích cấu tạo và đọc đúng hơn.
Để khắc sâu kiến thức giúp các em nắm một cách chắc chắn các vần thì ta
phải cho các em so sánh vần vừa học và vần đã học. Cụ thể tôi yêu cầu các em so
sánh vần et với vần ơt. Qua việc so sánh học sinh nhận ra âm giống nhau là âm t ở
cuối, khác nhau là âm e và âm o đứng ở đầu. Rồi so sánh cả hai vần trong bài đang
học et – êt. Nhận biết được sự giống và khác nhau các em sẽ phát âm đúng hơn và
có kĩ năng so sánh đối chiếu, khắc sâu các vần trong phân môn Học vần.
VD: dạy vần uôt, ươt trong bài 74 trang 150, sách giáo khoa tiếng Việt 1, tập
1 có từ chuột nhắt.
Sau khi học sinh nắm vững vần t, nhìn và đọc được vần t một cách chắc
chắn. Tôi giới thiệu tranh chú chuột nhắt và giúp học sinh nhận biết: Âm gì đứng
trước vần t (âm ch) thanh gì ở dưới vần t(thanh nặng), vậy ta có thể ghép và
đánh vần : chờ - uôt - chuốt - nặng - chuột, đọc trơn : chuột, ghép từ chuột nhắt.
Trong trường hợp này các em hay nhầm lẫn về cách đọc giữa tiếng chuột với tiếng
chuốt( tiếng có dấu thanh nặng với dấu thanh sắc). Lúc này, tôi hướng dẫn cụ thể
và kĩ càng hơn về cách phát âm giữa mơi và lưỡi (tiếng chuột có dấu thanh nặng
nên khi phát âm luồng hơi đi ra thường nhẹ hơn với tiếng chuốt).
Để phần học vần có kết quả thì giáo viên cần sử dụng nhịp nhàng giữa lời
giảng với tranh minh họa được nhìn vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật sẽ
tạo sự hứng thú, gợi trí tị mị, ham học hỏi cho học sinh giúp các em chủ động
trong giờ học.
* Phần tập đọc
Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh cịn
khó khăn trong học tập. Học sinh năng khiếu đã vững phần chữ cái, nắm vững phần
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

15


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu


vần chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả
năng nhận biết tốt. Đối với học sinh cịn khó khăn trong học tập khả năng nhận biết
còn chậm, chưa xác định vần chính xác nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm
dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các em này, giáo viên
cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội cho các em tập đọc giúp các em đọc bài
từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Khơng nên nóng vội đọc trước cho các em đọc lại
dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo viên nên cho
học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng
đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh
vần rồi đọc lại từng cụm từ.
Ví dụ: Dạy bài tập đọc Trường em (sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 2 )
Đây là bài tập đọc đầu tiên trong phần tập đọc. Sau khi đọc mẫu xong, tôi
gạch chân dưới những tiếng khó đọc rồi hướng dẫn cách đọc từ khó. Thường
thường tiếng có dấu thanh các em đọc khơng có dấu thanh, tiếng khơng có dấu
thanh thì lại đọc có dấu thanh. Cụ thể từ trường em đọc là trương em. Làm thế nào
để giúp các em đọc đúng dấu thanh, tôi tiến hành cho các em đánh vần tiếng trường
bằng cách phân tích như sau:
Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì? (Tiếng
trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền)
Vậy tiếng trường đánh vần thế nào? (trờ - ương – trương – huyền – trường).
Như vậy khi đánh vần tiếng trường ta đọc phụ âm đầu rồi đến vần, đến dấu thanh,
cuối cùng là tiếng hoàn chỉnh.
Đọc trơn tiếng này thế nào? (trường)
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp:

trường em.

Đối với các em cịn khó khăn trong học tập chưa đọc được tiếng trường, tôi
cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.

Vần ương gồm có mấy âm? (Vần ương gồm có 2 âm. Âm đơi ươ và âm ng)
Nêu vị trí các âm trong vần ? (Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau)
Đánh vần và đọc trơn vần ương. (ươ - ngờ - ương/ ương)
Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu thanh huyền trên vần ương. Ta đánh
vần, đọc trơn tiếng thế nào? (Trờ - ương - trương - huyền - trường / trường)
Sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đánh vần nhiều lần
để khắc sâu vào trí nhớ của các em.
Giải pháp thứ năm. Dạy cách phát âm đúng
Phát âm trong dạy Tiếng Việt cho học sinh rất quan trọng, học sinh phát âm
đúng thì sẽ nhận diện chữ (đọc) đúng và viết đúng. Ngược lại, nếu không được GV
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

16


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

quan tâm kĩ phần này, không được sửa chữa kịp thời các em sẽ dễ bị đọc sai do thói
quen của tiếng mẹ đẻ và dẫn đến viết sai, hiểu sai ý nghĩa do đọc sai. Đối với học
sinh dân tộc thiểu số, số học sinh phát âm sai rất nhiều do ảnh hưởng của tiếng mẹ
đẻ dẫn đến viết sai; viết sai thì tất yếu hiểu sai thơng tin được ghi nhận. Khi đọc
mẫu giáo viên nên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong
cách đọc tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh. Như vậy ta cần rèn cho các em
phát âm đúng âm đầu, đúng vần, đúng phụ âm cuối, đúng dấu thanh.
Chẳng hạn: Dạy bài 54: ung, ưng sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 1 trang
110.
Khi đọc vần ung, ưng, các em thường đọc un, ưn. Như vậy các em đọc chưa
đúng ở phụ âm cuối. Để giúp các em đọc đúng, tơi hướng dẫn các em tìm ghép vần
ung, phân tích cấu tạo vần gồm âm u đứng trước, âm ng đứng sau rồi nêu cách
đánh vần và đánh vần. Yêu cầu các em so sánh vần ung với vần un và hướng dẫn

cách phát âm cho đúng. Tơi tiếp tục nêu câu hỏi Muốn có tiếng súng ta thêm âm và
dấu thanh gì? Thêm âm “s” , dấu thanh sắc. Dựa vào câu hỏi gợi mở, các em ghép
tiếng súng, phân tích cấu tạo rồi đánh vần. Khi thấy các em phát âm chưa đúng, tôi
yêu cầu em đó phát âm lại âm “s” hoặc nhắc lại cách mở mơi, uốn lưỡi phát âm cho
đúng. Sau đó đọc lại tiếng “súng”.
Để dạy cho các em phát âm đúng quả là rất khó, khơng phải chỉ một vài hôm
là xong. Như chúng ta đã biết việc phát âm liên quan tới các cơ quan phát âm. Nếu
chúng ta giúp học sinh vừa được nghe, vừa được quan sát sự phối hợp các cơ quan
phát âm như hình dạng của mơi, vị trí của răng, lưỡi thì các em sẽ dễ dàng phát âm
đúng những âm cần học hơn là chỉ được nghe. Vì vậy, khi dạy học sinh phát âm,
chúng ta cần kết hợp sử dụng nhiều phương pháp, vừa nhìn (quan sát) kết hợp với
nghe rồi làm theo mẫu và luyện tập thực hành ngay trên lớp. Trong quá trình dạy
học cần sử dụng đồ dùng trực quan để hướng dẫn các em quan sát, so sánh,…Đồ
dùng khơng phải lúc nào cũng địi hỏi những thiết bị hiện đại mà có khi đơn thuần
chỉ là mơi, miệng, lưỡi, răng của giáo viên khi dạy các em phát âm.
* Ví dụ: Khi dạy các em phát âm vần oa, tôi cho các em quan sát tranh vẽ
hoặc vật thật “cái loa” để nhận diện vần oa, so sánh với cách đọc âm a trong tiếng
“la” (la hét). Từ quan sát tranh, HS nghe tôi phát âm kết hợp với nhìn động tác từ
miệng của tơi để nhận ra cách đọc và làm theo mẫu. Nhất là khi phát âm những âm
có liên quan nhiều tới mơi, đầu lưỡi, răng. Chẳng hạn như các âm b, đ, g, l, m, n, p,
r, s, t, v, x, tr, ch, kh,…Đây chính là các phụ âm.
Đối với những âm khó nhớ, qua việc phát âm mẫu, tôi chú trọng tới việc so
sánh các âm đó với âm khác về cách đọc giống nhau.
*Ví dụ: s – x ; tr – ch ; p – ph; l - n
Ngoài ra, với những âm khơng thể dùng phương pháp khẩu hình – so sánh,
tơi mơ tả bằng hình vẽ hoặc bằng động tác cho dễ phân biệt. Chẳng hạn như khi
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

17



Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

dạy đọc âm “sờ”, tôi làm động tác lấy tay sờ vào một đồ vật nào đó để giúp các em
nhận diện đúng, phát âm đúng và phân biệt với “x” khi ghép tiếng.
Đa số các em đọc còn nhầm lẫn các dấu thanh, tiếng có thanh thì đọc khơng
thanh, tiếng khơng có dấu thanh thì đọc có dấu thanh. Ví dụ: chậm/ châm; chồi
non / chơi non, chuột/ chuốt, dẫn/ dấn,…Thì tơi cho các em nắm vững cấu tạo, cách
phát âm từng dấu thanh, dùng thẻ tạo từ, nắm nghĩa của từ qua đồ dùng trực quan
hoặc bằng hành động trực tiếp để từ đó phát âm đúng và tự sửa sai các dấu thanh.
Trong khi học sinh đọc, nói (phát âm) tiếng Việt tơi theo dõi quan sát từng
em, phát hiện chỗ các em đọc sai để kịp thời sửa ngay và hướng dẫn các em đọc
theo tốc độ quy định, không quá chậm hoặc quá nhanh, đọc, nói đủ to cho tất cả các
bạn trong lớp nghe được, rèn tư thế đứng tự tin, thỏa mái khi đọc, nói tiếng Việt.
Đối với những em đọc sai chính âm tiếng Việt, tôi đã rèn luyện để các em đọc
đúng, đọc đủ, khơng đọc thừa, đọc sót âm, tiếng, từ,…Đọc với tốc độ vừa phải,
giọng đọc phải phù hợp với yêu cầu và nội dung từng bài.
Bên cạnh đó vẫn có những em phát âm bị khuyết âm trong tiếng tiếng Việt,
còn lẫn lộn giữa vần iêng/ iên, inh/ in, ăng/ăn,.... Ví dụ khi dạy đọc từ ngữ ứng
dụng bài 53: ăng, âng có em đọc "phẳng lặng" thành "phẳn lặn". Nguyên nhân
chính là các em chưa biết vị trí các cơ quan phát âm và phối hợp giữa các cơ quan
đó. Vì thế tơi u cầu các em quan sát kĩ tôi phát âm mẫu rồi gọi các em phát âm
lại. Nếu phát âm đúng "phẳng lặng" hơi sẽ bị chặn lại ở một vị trí trong khoang
miệng. Khi các em đọc sai hay chưa đọc được, tôi khơng phê bình, mà động viên
chỉ bảo cho các em. Nhất là với các em khó khăn về đọc và viết, tôi đọc lại cho các
em nghe rồi gợi ý để các em phân tích nhớ lại cấu tạo của tiếng cho đúng. Hướng
dẫn chi tiết cho các em tư thế ngồi học đúng, cách cầm sách khi đọc, cách học tập ở
lớp, ở nhà. Tất cả cần làm mẫu và yêu cầu học sinh làm theo. Dần dần các em có
thói quen, có kĩ năng kĩ xảo trong việc học tập. Từ đó tạo ra khơng khí thoải mái, tự
tin, mạnh dạn hơn khi tham gia hoạt động học. Qua đó, tơi nắm được một phần nào

những sở thích, những niềm vui hoặc những khó khăn của các em trong học tập hay
trong sinh hoạt hàng ngày.
Việc hướng dẫn HS phát âm được tiến hành ở trong giờ dạy âm, vần cũng
như khi dạy đọc, ta cần biết lựa chọn và sử dụng các phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học một cách hợp lí bởi mỗi phương pháp mang lại một hiệu quả, khơng
có phương pháp nào là vạn năng. Nhất thiết các em phải được nhìn, nghe, làm theo
mẫu; luyện tập nhiều lần qua các hình thức: cá nhân, nhóm, lớp và tích hợp trong
các mơn học khác mới hình thành kĩ năng để vận dụng trong giao tiếp được.
Song song với việc giúp học sinh phát âm đúng để viết đúng thì chúng ta cần
phải giúp cho các em hiểu nghĩa của từ. Để tăng cường Tiếng Việt cho học sinh đòi
hỏi người giáo viên phải chuẩn bị và sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện
hỗ trợ tiết dạy học như khai thác triệt để tranh ảnh trong sách giáo khoa, tận dụng
những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát tìm hiểu. Sưu tầm
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

18


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên quan đến bài dạy. Sử dụng thường xuyên bộ
tranh Tiếng Việt, bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo viên nhằm giúp
học sinh tích cực và ham học.
Ví dụ: Dạy bài 40: iu, êu
Tôi đã cho học sinh quan sát lưỡi rìu và cái phễu thật và tranh trong sách
giáo khoa, sử dụng bộ đồ dùng học Tiếng Việt, ….
Giải pháp thứ sáu. Tổ chức trị chơi có hiệu quả trong các tiết học
Như chúng ta đã biết học sinh lớp Một rất hiếu động hay bắt chước và học
theo. Trò chơi học tập là một loại hoạt động khơng thể thiếu được trong mọi lứa
tuổi. Trị chơi giúp các em phát triển cả về năng khiếu lẫn tư duy. Trị chơi học tập

là hình thức học tập thơng qua trị chơi. ''Học mà chơi, chơi mà học '' tạo ra sự hứng
thú và niềm tin trong học tập, duy trì được khả năng chú ý của các em trong tiết
học. Trị chơi học tập khơng chỉ nhằm giải trí, củng cố, hệ thống hố kiến thức
được học, mở rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức, nắm chắc âm vần vừa học, biết vận
dụng vào từng trường hợp cụ thể. Tạo môi trường để rèn luyện sự linh hoạt, nhạy
bén, có thói quen phản ứng nhanh cho học sinh; giúp các em có tính mạnh dạn tính
thi đua, tính kỉ luật khi thể hiện mình trước tập thể. Thơng qua trị chơi tạo khơng
khí thi đua sơi nổi trong mỗi tiết học, làm cho tiết học của HS trở nên nhẹ nhàng
hơn, sinh động và hiệu quả hơn. Vì vậy tơi xác định rõ mục đích của mỗi trò chơi,
tuân thủ các nguyên tắc và thay đổi các hình thức tổ chức cho HS chơi.
Tơi đã tổ chức trị chơi, khi thì vào bài, có khi để dẫn dắt các em chiếm lĩnh
kiến thức mới cần đạt, có lúc để củng cố, hệ thống hoá kiến thức trong một bài hay
trong một chương. Khi tổ chức trò chơi, tơi phổ biến tên trị chơi, nội dung chơi,
vật dụng phục vụ cho trò chơi, luật chơi và trước khi tổ chức chơi cho các em chơi
thử để các em tự tin hơn.
Với mục tiêu giúp học sinh nắm chắc âm vần cần học, biết vận dụng vào
từng trường hợp cụ thể, rèn cho các em ý thức tự tìm kiếm khám phá chiếm lĩnh
kiến thức ở tiết 1 trong phần Học vần, tơi sử dụng trị chơi “Thi ghép đúng –
Ghép nhanh”
Ví dụ: Dạy bài 22: p –ph, nh sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 1 trang 46.
Tôi yêu cầu mỗi em chuẩn bị một bộ chữ thực hành Tiếng Việt.
Trong q trình dạy âm p- ph, tơi chia lớp thành 4 tổ, yêu cầu các em tự tìm
và phát âm âm p sau đó tìm ghép thành âm ph, tiếng phố rồi đọc. Hết thời gian quy
định, các em đưa bảng lên cho lớp kiểm tra. Tổ nào có ít bạn ghép sai tổ đó chiến
thắng.
Khi dạy tiết 2 trong giờ Học vần, tôi lại tổ chức Trò chơi “Đọc nhanh, nối
giỏi”. Trò chơi này giúp học sinh nhận diện nhanh âm vần vừa học, biết ghép các
tiếng riêng lẻ vào thành cụm từ có nghĩa mới.
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017


19


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

*Ví dụ: Bài 64: im-um
Tơi đưa ra các từ sau: chim, cá, tơm, hùm, bồ câu, kìm
u cầu HS nối thành các cụm từ có nghĩa trong thời gian 3 phút hồn thành
bài tập đem đính lên bảng lớp để tôi tổ chức lớp kiểm tra, bổ sung, đánh giá được
kết quả như sau:
chim

hùm



bồ câu

tơm

kìm

Với trị chơi “Thi tìm tiếng có âm, vần vừa học” tơi tổ chức cho các em
chơi vào cuối tiết 1, tiết 2 sau khi đã học xong vần n, ươn. Thơng qua trị chơi
giúp học sinh mở rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức, nắm chắc vần vừa học, biết vận
dụng vào từng trường hợp cụ thể. Trước khi chơi, tôi cho các em chuẩn bị phấn
viết, bảng con, giẻ lau.
Ví dụ: Khi dạy bài 50: uôn , ươn sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 1 trang
102, sau khi đã nhận biết hai vần, tơi chia nhóm, phổ biến luật chơi, quy định thời
gian và tiến hành trò chơi. Với thời gian 2 phút các nhóm thi đua tìm tiếng có vần

vừa học ghi vào bảng nhóm, hết thời gian quy định gắn kết quả lên bảng lớp. Tiến
hành đánh giá nhận xét theo thang điểm đã quy định. Ở trò chơi này các em tìm
được tiếng, từ có vần vừa học như: bn bán, luôn luôn, tuôn, buồn bã, bươn chải,
con lươn,… Để kiểm tra lại kĩ năng đọc của các em, tôi gọi một số em đọc các từ
vừa tìm, kịp thời sửa chữa khi các em đọc chưa đúng.
Hay khi dạy bài 30: ua-ưa tơi lại tổ chức trị chơi “Rung chuông vàng”
Tôi chuẩn bị câu hỏi hỏi về đồ vật, cây cối có tiếng mang vần vừa học; HS
chuẩn bị phấn viết, bảng con, giẻ lau.
Tôi đưa ra một số câu đố, trong nội dung câu đố có một số từ mang vần ua,
ưa. Yêu cầu học sinh giải câu đố rồi gạch dưới từ trong lời giải mang vần ưa, ua
bằng cách viết kết quả vào bảng con rồi đưa lên theo hiệu lệnh của tôi. Em nào viết
không đúng bị loại, viết đúng được chơi tiếp. Nội dung câu đố như sau:
Qủa gì mọc tít trên cao
Mà sao đầy nước, ngọt ngào bên trong?
(là trái hay quả gì?)
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

20


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Cây gì bé nhỏ
Hạt nó ni người
Tháng năm tháng mười
Cả làng đi gặt

(là cây gì?)

Học sinh tìm được kết quả như sau: quả dừa, cây lúa.

Trò chơi này nhằm củng cố kiến thức đồng thời rèn luyện cho học sinh tính
nhanh nhẹn.
Ở phần luyện viết, tơi tổ chức Trị chơi “Nét chữ nết người” giúp học sinh
viết đúng các chữ ghi âm, vần, tiếng đã học. Rèn luyện đức tính chăm chỉ, cẩn thận
và kiên nhẫn trong học tập.
Ví dụ: Dạy bài 67 : Ôn tập, sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 1 trang 136.
Sau khi các em đã đọc thành thạo các vần có âm m ở cuối, tơi phát cho mỗi em một
quyển vở trong đó đã viết mẫu để các em viết theo. Phổ biến cách thực hiện: trong
cùng thời gian nhất định, khi có lệnh của GV các em thi đua viết theo mẫu; u cầu
viết đúng, thẳng dịng, đẹp. Em nào có bài viết đủ nội dung theo yêu cầu, viết đúng
và đẹp (khơng tẩy xố) em đó được lớp khen là “Bạn có nết tốt nhất”. Nghe xong
lệnh các em thi đua viết. Vì thế em nào cũng viết xong bài ngay tại lớp, chữ viết
cũng có nhiều tiến bộ hơn.

c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, giải pháp này
thúc đẩy sự phát triển của giải pháp kia và ngược lại. Chúng là cầu nối tạo nên
thành công trong công tác giảng dạy nhằm giúp các em đọc đúng trong môn Tiếng
Việt. Nếu như giáo viên nắm bắt được thực trạng, tình hình của lớp mà khơng lập
kế hoạch giúp đỡ các em, không hướng dẫn các em nắm bắt chắc chắn các âm, vần
thì hiệu quả giảng dạy, học tập sẽ không cao. Nắm được các âm, vần nhưng không
hướng dẫn cách phát âm, không kiểm tra đánh giá, khen thưởng kịp thời cũng
không phát hiện và điều chính khiếm khuyết của học sinh. Mặc dù nắm bắt được
thực trạng, tình hình của lớp, lập kế hoạch giúp đỡ, hướng dẫn cách phát âm, kiểm
tra đánh giá, khen thưởng kịp thời nhưng không biết tổ chức các trị chơi trong giờ
học thì cũng khơng tạo hứng thú học tập cho các em. Chính vì thế các biện pháp
luôn hỗ trợ cho nhau.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
- Kết quả khảo nghiệm: Nhờ các biện pháp trên mà khả năng đọc của các
em tốt hơn. Mặc dù với 85% học sinh là người dân tộc thiểu số, khả năng nhận

thức của các em cịn gặp nhiều khó khăn nhưng tôi đã mạnh dạn đổi mới và vận
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

21


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

dụng những kinh nghiệm giảng dạy nên lớp tôi chủ nhiệm đạt được một số kết quả
khả quan. Cụ thể qua các lần đánh giá, kết quả như sau:
Trước khi áp dụng đề tài
TSHS

Nhận biết
âm hai chữ
cái

Nhận biết hết
29 chữ cái

Biết 6 – 10
chữ cái

Biết 2 – 5
chữ cái

Không biết
chữ cái nào

SL


Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ

3

10%

8

26,7%

9

30%


3

10%

7

23,3%

30

Sau khi áp dụng đề tài
Thời gian

TSHS

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ


SL

Tỉ lệ

Giữa học kì I

30

4

13,3%

19

63,3%

7

23,3%

Cuối học kì I

30

5

16,7%

22


73,3%

3

10,0

Giữa học kì II

30

5

16,7%

23

76,7%

2

6,7%

Kết quả tham gia các hội thi cũng rất đáng mừng: Thi chữ viết đẹp cấp
trường đạt 5/5 em dự thi trong đó 01 giải nhất, 01 giải ba. Thi giải toán trên
internet cấp trường đạt 4 em, cấp huyện đạt 01 em.
Kết quả học tập nâng cao lên theo thời gian của năm học, số em hoàn thành
tốt và hoàn thành ở các lần đánh giá định kì cao hơn, giảm tỉ lệ học sinh chưa
hoàn thành.
- Giá trị khoa học: Với mục tiêu nâng cao chất lượng đọc đúng, viết thành
thạo cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số ở trường tiểu học Võ Thị Sáu nhằm khắc

phục những khó khăn trong giảng dạy, từng bước nâng cao chất lượng dạy học
môn Tiếng Việt cho học sinh. Sau khi nghiên cứu và thực hiện các giải pháp trên
cho thấy chất lượng đọc, viết của các em đúng và thành thạo hơn. Hạn chế đọc sai
dấu thanh và khả năng nghe viết từng bước nâng lên. Phát huy tích cực chủ động,
hứng thú học tập. Khả năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt và kĩ năng sống trong
giao tiếp tốt hơn. Phát huy được tính năng động sáng tạo của giáo viên. Rõ ràng
qua cách làm này, tôi thấy kết quả giáo dục của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt.
Tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong
học tập cũng như trong giao tiếp.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

22


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

1. Kết luận
Nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo trong trường Tiểu học là tạo ra những con
người toàn diện làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại có tư duy sáng tạo
biết áp dụng vào thực tiễn để học tập, lao động. Để nâng cao chất lượng dạy học
môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số không phải là việc làm một
sớm, một chiều mà là cả một quá trình rèn luyện gian nan, bền bỉ, một mình ngành
Giáo dục và Đào tạo khơng thể làm được mà cần phải có sự tham gia tích cực của
cộng đồng phối hợp với các thầy, cô giáo trong việc vận động học sinh ra lớp và
giáo dục học sinh; đặc biệt là sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sự chỉ
đạo của các cấp chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo, quan tâm xây dựng cơ
sở vật chất.
Dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số là một vấn đề lớn và khó, là
việc làm thường xuyên và lâu dài. u cầu người giáo viên phải có lịng u nghề

mến trẻ, tâm huyết với nghề, ln sự tìm tịi đổi mới phương pháp hình thức giảng
dạy, rút kinh nghiệm từ thực tiễn giảng dạy, lập kế hoạch phù hợp. Biết lắng nghe
và thu nhận thông tin phản hồi từ cha mẹ học sinh của lớp trong giảng dạy. Giữ mối
liên hệ tốt giữa nhà trường – gia đình – xã hội.
Phối kết hợp với Tổng phụ trách đội tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp
để nâng cao vốn Tiếng Việt cho các em.
Muốn đạt được kết quả cao trong giảng dạy thì người giáo viên lập kế hoạch
cho mình ngay từ đầu, nêu cao tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Hãy
cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không
nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi. Với học sinh lớp 1 cần tập cho các em
thói quen tốt: đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó vv… để tập cho các
em nề nếp tốt trong học tập ở hôm nay và mai sau.
2. Kiến nghị
Với nhà trường: Cần biên chế số lượng học sinh của mỗi lớp không quá 25
em, lựa chọn giáo viên dạy lớp 1. Cần khen thưởng kịp thời những giáo viên dạy
lớp 1 có chất lượng cao. Trang bị, tu bổ đồ dùng dạy học, hỗ trợ nguồn kinh phí
cho giáo viên làm thêm đồ dùng dạy học trong các tiết dạy.
Với địa phương: Quan tâm, làm tốt công tác khuyến học khuyến tài ở địa
phương, phối hợp chặt chẽ với nhà trường để vận động các em có nguy cơ bỏ học
đi học chuyên cần hơn.
Với cha mẹ học sinh: Cần dành thời gian giúp đỡ các em học ở nhà, cần
chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập cho các em, cần nhắc nhở các em đi học chuyên
cần. Cần quan tâm phối kết hợp, thực hiện tốt thông tin hai chiều với giáo viên kịp
thời giúp đỡ khi các em gặp khó khăn trong học tập.

GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

23



Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Với giáo viên: Tăng cường công tác tự học tự rèn, nhiệt tình, thực sự quan
tâm yêu thương, gần gũi và tạo khơng khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học
để giúp các em ham học và yêu thích môn học. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm
vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình,
biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập. Trong từng tiết
dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ, chuẩn bị đồ dùng
dạy học, cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương
pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh
tính chủ động, ham thích học, đọc bài.
Với học sinh: Có đầy đủ đồ dùng học tập, có ý thức tự giác trong học tập .
Trên đây là một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1
dân tộc thiểu số ở trường tiểu học Võ Thị Sáu mà tơi đã thực hiện. Tuy nhiên vẫn
cịn những hạn chế nhất định nhưng tôi hy vọng với kết quả đạt được ở trên sẽ góp
phần nhỏ bé nâng dần chất lượng dạy và học của nhà trường ngày một tốt hơn. Rất
mong được sự góp ý của lãnh đạo và các đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Ea Bông, ngày 10 tháng 3 năm 2017
Người thực hiện
Trần Thị Minh
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP TRƯỜNG
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
(Ký tên, đóng dấu)

GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

24


Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc đúng cho HS lớp 1 DTTS ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP HUYỆN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
(Ký tên, đóng dấu)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

TÊN TÀI LIỆU

TÁC GIẢ/ NHÀ XUẤT
BẢN

Trường Đại học Sư phạm
Đà Nẵng; Nguyển Sinh
Huy-NXBGD- 1997) Vụ
Giáo dục Tiểu học –NXB
Giáo dục Việt Nam

1

Giáo trình Giáo dục học

2

4

Một số vấn đề về đổi mới phương pháp NXB Giáo dục;
dạy học ở Tiểu học
3.Tài liệu bồi dưỡng chuyên môn theo
hè 2009
chuẩn kiến thức, kĩ năng
Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
BGD-ĐT

5

Trò chơi thực hành Tiếng Việt lớp một

3

GHI
CHÚ


NXB Giáo dục, tác giả
Vũ Khắc Tuân;

GV: Trần Thị Minh Năm học 2016 - 2017

25


×