Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

MỘT số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN về đổi mới PHƯƠNG THỨC LÃNH đạo của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM đối với NHÀ nước và hệ THỐNG CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.58 KB, 27 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỔI MỚI
PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Đảng cầm quyền là một trong những vấn đề phức tạp nhất của đời
sống chính trị trên phương diện lý luận và thực tiễn. Trong các nền chính trị
thế giới, vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước là một hoạt động
cơ bản của Đảng cầm quyền. Các Đảng cầm quyền ở các nước có nền kinh
tế, chính trị, văn hóa - xã hội khác nhau thì phương thức lãnh đạo với nhà
nước cũng khác nhau. Tuy nhiên, các phương thức lãnh đạo với nhà nước
của Đảng đều phải tuân theo những nguyên tắc chung là lãnh đạo, chi phối,
sử dụng quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh của nhà nước để thực hiện
những mục tiêu của đảng và của giai cấp mình một cách có hiệu quả.
Đối với nước ta, sau khi lãnh đạo cuộc cách mạng tháng Tám thành
công, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo chính
quyền và xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta đã giành từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, giành hoà bình và thống nhất tổ quốc đến những thành tựu
quan trọng của hơn 30 năm đổi mới là do Đảng luôn có phương thức lãnh
đạo đúng đắn, phù hợp với tình hình cách mạng và điều kiện đất nước. Với
vị thế là Đảng cầm quyền, Đảng ta đã tích lũy và làm phong phú hơn không
ít kinh nghiệm về phương thức lãnh đạo đối với nhà nước. Song, thực tế
phương thức lãnh đạo đối với nhà nước vẫn đang đặt ra không ít vấn đề hết
sức cơ bản cả trên phương diện lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu ,
tổng kết, đổi mới và phát triển nhằm không ngừng nâng cao vị trí, vai trò và
năng lực lãnh đạo của Đảng ta ngang tầm công cuộc đổi mới, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc


NỘI DUNG
1. Đặc điểm chi phối hoạt động xây dựng và lãnh đạo của đảng
trong điều kiện Đảng cầm quyền


Thứ nhất là, nhiệm vụ chính trị của Đảng thay đổi căn bản
Sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản bao gồm hai giai đoạn chủ yếu:
Giai đoạn thứ nhất: Đảng giáo dục, thuyết phục và tổ chức giai cấp
cong nhân và quần chúng nhân dân lao động tiến hành đấu tranh lật đổ chế
độ cũ, giành chính quyền, thiết lập sự thống trị của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động đối với toàn bộ xã hội.
Giai đoạn thứ hai: Giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã có
chính quyền của mình và dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản tiến hành
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trước kia, nhiệm vụ là lật đổ chế độ cũ,
bây giờ là xây dựng xã hội mới - bao hàm cả nhiệm vụ bảo vệ những thành
quả cách mạng đã đạt được. Từ chưa có chính quyền đến có chính quyền là
một bước ngoặt căn bản của cách mạng là một bước phát triển mới về chất
trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Có chính quyền,
giai cấp công nhân từ địa vị nô lệ, bị trị, cùng với nhân dân lao động lên giữ
vai trò làm chủ đất nước. Nhiệm vụ của Đảng, của giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động thay đổi căn bản so với trước khi chưa giành
được chính quyền. V.I Lênin đã chỉ rõ: Khi đã có chính quyền, Đảng của
giai cấp công nhân đã: “Từ nhiệm vụ chủ yếu là thuyết phục nhân dân và
dùng lực lượng quân sự để tiêu diệt bọn bóc lột, sang nhiệm vụ chủ yếu là
quản lý”1. Nhiệm vụ tổ chức xây dựng và quản lý đất nước là một nhiệm vụ
1

V.I.Lênin: Toàn tập, t. 39, NXB Tiến bộ, Mat-xcơ-va, 1979, tr. 251.


có nội dung đa dạng, phong phú, rộng lớn và tính chất mới mẻ, phức tạp, khác
với nhiệm vụ giành chính quyền. Theo V.I Lênin, đây là thời kỳ chủ nghĩa xã
hội từ lĩnh vực lý luận chuyển sang lĩnh vực thực tiễn, nhiệm vụ quản lý đã
trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm.

Là Đảng cầm quyền, Đảng phải chịu trách nhiệm trước vận mệnh của
toàn dân tộc, về sự phát triển toàn diện của xã hội, về sự giàu mạnh của đất
nước, về tự do, ấm no hạnh phúc của nhân dân. Nếu trước đây, nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng là đấu tranh lật đổ chính quyền cũ của giai cấp bóc lột thì
hiện nay nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là lãnh đạo, xây dựng chính quyền
mới của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, phát huy vai
trò của chính quyền trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ thành
quả cách mạng.
Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội rất mới mẻ, khó khăn, gian khổ,
lâu dài, đặt ra những yêu cầu mới, đồng thời là thách thức mới đối với Đảng
cộng sản khi cầm quyền.
Thứ hai là, có nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân
và vì dân là công cụ sắc bén để quản lý và điều hành đất nước
Sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là đặc điểm rất quan trọng của
Đảng cộng sản cầm quyền. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ sắc bén để
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội. Thông qua các hoạt động
của Nhà nước mà quan điểm, đường lối, chính sách lớn của Đảng được cụ thể
hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện. Đồng thời, chính sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước là yếu tố quyết định đảm bảo cho Nhà nước thực sự là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Do đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
không đối lập mà thống nhất với nâng cao quyền lực của Nhà nước đối với
việc quản lý và điều hành đất nước. Thông qua lãnh đạo hoạt động của Nhà


nước mà Đảng củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là một bước ngoặt quan trọng trong
quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Bước ngoặt đó tạo ra những thuận
lợi rất cơ bản cho việc thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo
xã hội được thực hiện chủ yếu bằng việc tổ chức và hoạt động của Nhà

nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước là điều kiện cơ bản khẳng định địa vị cầm
quyền của Đảng. Đội ngũ đảng viên của Đảng được lựa chọn, bố trí vào làm
việc, giữ hầu hết các cương vị chủ chốt trong các cơ quan Nhà nước. Đó là
việc làm cần thiết để thực hiện vai trò của Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, khi có
chức, có quyền nếu cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện dễ dẫn đến
quan liêu, hách dịch, xa rời quần chúng, lợi dụng chức quyền tham nhũng,
thoái hoá biến chất... dẫn đến làm suy yếu Đảng và Nhà nước. Những tiêu cực
trên nếu không có biện pháp ngăn chặn, sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng khôn lường.
Thứ ba là, phương pháp lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi khác trước
Cùng với sự thay đổi nhiệm vụ chính trị và sự ra đời của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, thì phương pháp lãnh đạo của Đảng cũng có nhiều thay đổi.
Nhiều phương pháp lãnh đạo được Đảng sử dụng phổ biến ở giai đoạn đấu
tranh giành chính quyền về cơ bản không còn thích hợp nữa. Sang giai đoạn
mới phương pháp lãnh đạo của Đảng cũng có sự thay đổi tương ứng, thích
hợp. V.I Lênin đã chỉ rõ: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết
những nhiệm vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng
những phương pháp của ngày hôm qua”2. Khi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội đã trở thành vấn đề trực tiếp, V.I Lênin cảnh báo những người cộng sản
rằng ai muốn dùng phương pháp trong đấu tranh giành chính quyền để giải
2

V.I Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr 398.


quyết những nhiệm vụ tổ chức, xây dựng xã hội mới thì người đó sẽ phá sản
hoàn toàn với tính cách là nhà chính trị, là người xã hội chủ nghĩa.
Khi có chính quyền, Đảng phải biết loại trừ khỏi “cẩm nang” của mình
những phương pháp, hình thức lãnh đạo không phù hợp. Có phương pháp,
hình thức trước đây là phù hợp, có phương pháp, hình thức trước đây có tính

phổ biến đến nay không còn phổ biến nữa như phương pháp tuyên truyền vận
động cá biệt từng người, từng nhà nay vẫn cần, nhưng khi có chính quyền,
Đảng phải sử dụng rộng rãi hệ thống thông tin đại chúng để tuyên truyền giáo
dục, vận động tổ chức quần chúng hành động cách mạng. Đồng thời, nhiệm
vụ xây dựng đòi hỏi phải sáng tạo nhiều phương pháp, hình thức mới ngày
càng phong phú như: kết hợp giáo dục chính trị tư tưởng với khuyến khích vật
chất; kết hợp giữa giáo dục với hành chính và cưỡng bức; kết hợp giữa công
tác tư tưởng, công tác tổ chức và các biện pháp kinh tế...
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhiều Đảng cầm
quyền cho thấy cần đề phòng khuynh hướng Đảng bao biện, làm thay công
việc của Nhà nước hoặc sử dụng các hình thức, phương pháp của Nhà nước,
quá chú trong khuyến khích lợi ích vật chất, các biện pháp hành chính,
cưỡng bức. Cả hai khuynh hướng đó đều dẫn đến những hạn chế không nhỏ
đối với chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
* Một số đặc điểm riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng ta ra đời, trưởng thành, lãnh đạo chính quyền gắn liền với
chiến tranh cách mạng lâu dài
Ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử, chính quyền dân chủ nhân dân đã
được thành lập từ cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ đó, Đảng ta trở thành
Đảng cầm quyền. Nhưng do phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp,
nên đến năm 1954 nước ta mới tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và suốt từ đó đến năm 1975, Đảng ta lãnh đạo toàn dân tiến hành hai


nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Từ sau đại thắng mùa
Xuân 1975 Đảng ta mới có điều kiện tập trung lãnh đạo cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội, nhưng lại bị hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và phía
Bắc chi phối. Đầu thập kỷ 80 Đảng ta mới có điều kiện thực sự lãnh đạo đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình ra đời và trưởng thành của Đảng ta

gắn liền với chiến tranh cách mạng lâu dài. Đặc điểm này cho thấy: Đảng ta
được tôi luyện trong lò lửa chiến tranh cách mạng, Đảng có bản lĩnh chính trị
kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng có nhiều tri
thức và kinh nghiệm lãnh đạo chiến tranh; có đội ngũ cán bộ và đảng viên được
thử thách và rèn luyện trong chiến tranh cách mạng lâu dài đầy thử thách. Đảng
hy sinh phấn đấu vì dân, dân một lòng tin Đảng và đi theo Đảng. Tuy nhiên,
Đảng còn thiếu kiến thức kinh nghiệm lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội; dễ
mang kinh nghiệm lãnh đạo và tổ chức chiến tranh sang lãnh đạo và quản lý
kinh tế - xã hội.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình
mới, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về sự lãnh đạo của Đảng và công
tác xây dựng Đảng”3.
Đảng ta cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền
sản xuất nhỏ, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nền kinh tế mất cân đối
nghiêm trọng
Nước ta bước vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất
phát của nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến. Mấy
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.
355.


chục năm chiến tranh gian khổ, ác liệt đã làm cho nền kinh tế đó bị kiệt quệ,
bị tàn phá nặng nề và mất cân đối nghiêm trọng. Quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội nhưng lại rất khó khăn, yếu kém về cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản
xuất công nghiệp.
Đảng lãnh đạo nhân dân ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều

kiện chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã tan rã, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bao vây cấm vận tăng cường chống
phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
diễn ra với quy mô rộng lớn, với tính chất gay go, quyết liệt, phức tạp và lâu
dài, đòi hỏi năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta phải kiên cường,
bền bỉ, năng động và sáng tạo mới có thể đưa sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc ta đi tới thắng lợi. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách
lớn của Đảng phải khơi dậy và phát huy được mọi tiềm năng lớn về tài
nguyên, lao động và truyền thống vốn có của dân tộc Việt Nam, đồng thời
phải nhanh chóng nắm bắt được xu thế của thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ và
hợp tác quốc tế, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức Đảng mới có thể lãnh
đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi.
2. Sự đổi mới, phát triển về phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước và hệ thống chính trị
Phương thức lãnh đạo của Đảng là một bộ phận của khoa học lãnh
đạo, một nội dung cơ bản của công tác xây dựng Đảng.
Nhìn lại quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta hơn 80 năm qua,
trong mỗi giai đoạn cách mạng, đặc biệt từ khi Đảng tiến hành công cuộc
đổi mới đất nước hiện nay, cùng với việc xây dựng đường lối cách mạng,
Đảng không ngừng phát triển hoàn thiện tư duy về phương thức lãnh đạo
trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, tổng kết thực tiễn cách mạng nước ta và cách mạng thế giới.


Tư tưởng về phương thức lãnh đạo của Đảng xuất hiện khá sớm. Ngay
từ khi Đảng ra đời, trong các văn kiện xây dựng Đảng, thường được đề cập
dưới góc độ là phương pháp lãnh đạo; tác phong công tác của Đảng. Đến
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII lần đầu tiên thuật ngữ phương thức
lãnh đạo của Đảng được đề cập với ý nghĩa là hệ thống hình thức, phương
pháp (cách thức, biện pháp) mà Đảng vận dụng trong từng thời kỳ để tác

động vào đối tượng lãnh đạo, nhằm thực hiện nội dung và đạt được mục tiêu
lãnh đạo mới chính thức được đưa vào các văn kiện của Đảng. Nội dung cơ
bản được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước 1991 là: “Đảng lãnh
đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức
kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo
chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của tổ chức
khác trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là
một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật”4.
Đây là một bước đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta về
công tác xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, thực hiện nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước và mở cửa hội nhập quốc tế, là sự khẳng định dứt khoát từ bỏ
những nội dung lạc hậu của phương thức lãnh đạo cũ đã hình thành trong
chiến tranh và trong thời kỳ hành chính quan liêu bao cấp của Đảng.
Qua hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh với sự lỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, đất nước ta đã đạt được những
Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (1991-2011) ST, Nxb CTQG, H. 2010, Tr 91,92.
4


thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định,
bộ mặt và vị thế của đất nước có nhiều thay đổi. Những thành tựu đó khẳng
định sự đúng đắn, sáng tạo, giá trị to lớn và sức sống mãnh liệt của Cương
lĩnh năm 1991 (trong đó có nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng), đồng
thời cho chúng ta thêm những bài học quý giá trong đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

Thực tế cho thấy, kể từ Cương lĩnh năm 1991 ra đời đến nay, tình
hình thế giới, trong nước đã có nhiều biến đổi to lớn. Nhiều vấn đề mới về
phương thức lãnh đạo của Đảng qua các kỳ Đại hội đã được Đảng bổ sung,
phát triển hoặc nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn. Đại hội VII của Đảng đã nhấn
mạnh việc phải gấp rút “quy định cụ thể mối quan hệ về lối làm việc giữa
Đảng với Nhà nuớc và các đoàn thể nhân dân ở các cấp trước nhất là ở
Trung ương”5. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của
Đảng cụ thể hoá thêm một bước, xác định rõ hơn những nguyên tắc thực
hiện sự lãnh đạo qua đảng viên và qua tổ chức đảng. Thực hiện tư tưởng chỉ
đạo đó, Đại hội VII của Đảng đã chủ trương lập Ban cán sự đảng trong các
cơ quan nhà nước và các tổng công ty nhà nước; lập Đảng đoàn trong Quốc
hội, các đoàn thể và nhấn mạnh: “Đảng đoàn, Ban Cán sự đảng làm việc
theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, có chế độ sinh hoạt định
kỳ với nội dung rõ ràng, không lẫn lộn với sinh hoạt của chính quyền” 6. Đại
hội IX tập trung chú ý vào đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của các bộ phận còn lại trong hệ thống chính trị. Đại hội X của
Đảng tập trung nêu lên quan niệm về phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động của Nhà nước: “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đuờng lối,
Đảng Cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX),
Nxb CTQG, H, 2005, tr. 301.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX),
Nxb CTQG, H, 2005, tr. 524.
5


quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá thành Hiến
pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước; bố
trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện” 7. Đối với
hoạt động của Mặt trận và đoàn thể nhân dân, trong văn kiện nhấn mạnh
việc tạo điều kiện để mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu,

phương thức hoạt động; đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo trong
xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của mình. Đặc biệt trong Nghị
quyết số 15 -NQ/TW, được thông qua tại Hội nghị Trung ương 5, khoá X về
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị đã được Đảng ta đề cập, giải quyết một cách cơ bản, hệ
thống, toàn diện và được Đại hội XI bổ sung hoàn thiện. Đánh dấu một bước
trưởng thành hết sức quan trọng trong tư duy của Đảng đối với vấn đề mấu
chốt của một Đảng cầm quyền trong điều kiện mới. Cụ thể là:
Thứ nhất, Đảng ngày càng nhận thức rõ hơn những vấn đề cơ bản về
phương thức lãnh đạo. Đảng cho rằng, phương thức lãnh đạo không chỉ bảo
đảm cho sự lãnh đạo của Đảng có hiệu quả trên thực tế mà còn góp phần vào
việc hoàn thiện đường lối cách mạng, bồi dưỡng rèn luyện đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền, phương thức lãnh đạo
của Đảng ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị.
Phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm phương thức lãnh đạo chung
đối với xã hội, phương thức lãnh đạo riêng đối với Nhà nước, hệ thống chính trị,
các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hoá - xã hội và xây dựng Đảng.
Phương thức lãnh đạo bao giờ cũng được thực hiện trong một hoàn
cảnh điều kiện cụ thể và luôn có sự thay đổi khi tình hình cách mạng có sự
thay đổi để nhằm đạt được mục tiêu mà nội dung lãnh đạo đã đề ra. Thực chất
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006,
tr. 355.
7


của phương thức lãnh đạo là “dĩ bất biến, ứng vạn biến” (những vấn đề thuộc
về nguyên tắc tính đảng không được thay đổi, còn việc ứng xử hàng ngày để
giữ vững nguyên tắc tính đảng có thể thiên biến vạn hóa). Phương thức lãnh
đạo đúng, đạt hiệu quả lãnh đạo cao sẽ trở thành nghệ thuật lãnh đạo.
Phương thức lãnh đạo không bao giờ thoát ly khỏi nội dung lãnh đạo,

luôn phụ thuộc vào nội dung lãnh đạo. Chính yêu cầu nội dung lãnh đạo đòi
hỏi phải có phương thức lãnh đạo tương ứng. Song phương thức lãnh đạo
không chỉ phụ thuộc hoàn toàn vào nội dung lãnh đạo mà còn phụ thuộc vào:
Sự phát triển của hệ thống chính trị, trình độ dân chủ của xã hội (đối tượng
lãnh đạo); sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ, đảng viên (chủ thể lãnh đạo);
bản lĩnh, trình độ, phong cách của người đứng đầu tổ chức đảng và bối cảnh
kinh tế - xã hội thế giới, trong nước cũng như nhận thức chính trị của quần
chúng nhân dân trong những thời kỳ lịch sử nhất định; sự phát triển khoa
học quản lý và phương tiện kỹ thuật phục vụ hoạt động lãnh đạo…
Phương thức lãnh đạo đúng là phương thức vừa bảo đảm thực hiện
đúng định hướng chính trị, vừa phát huy được tính chủ động, tích cực, tinh
thần nhiệt tình, sáng tạo nhân lên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị và của nhân dân nhằm thực hiện đạt hiệu quả cao nhất mục tiêu đề ra.
Thứ hai, Đảng bổ sung, phát triển và từng bước cụ thể hoá nội dung
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và hệ thống chính trị
Trên cơ sở khẳng định những nội dung về phương thức lãnh đạo của
Đảng trong cương lĩnh năm 1991, qua 20 năm tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết
thực tiễn, Đảng ta đã bổ sung và xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công
tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành
động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ


và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên và quần chúng ưu tú
có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các tổ chức của hệ thống
chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động
trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá
nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm
quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ

động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân dể xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của
nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và phát luật”8.
Như vậy, nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và
hệ thống chính trị hiện nay đã có sự phát triển. Đảng lãnh đạo Nhà nước, xã
hội không chỉ bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách mà còn
bằng công tác tổ chức, cán bộ.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị thông qua tổ chức đảng từ Trung
ương đến cơ sở. Đối với bộ máy Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội
tương ứng với từng cấp, có cơ quan lãnh đạo hoặc tổ chức đảng cùng cấp.
Bộ máy chính quyền ở mỗi cấp vừa phải thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của
tổ chức đảng và chính quyền cấp trên, vừa phải thực hiện sự lãnh đạo của tổ
chức đảng cùng cấp.
Đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, Đảng không chỉ giới
thiệu những đảng viên và quần chúng ưu tú có đủ phẩm chất, năng lực vào
hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo, chính quyền và các đoàn thể mà Đảng
còn thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011,
tr.255.
8


thời phát huy vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức thành viên
trong hệ thống chính trị; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể
quyết định trong công tác cán bộ, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu
các tổ chức, các cơ quan đơn vị trong công tác cán bộ.
Sự bổ sung trên là một bước phát triển mới rất quan trọng về nhận
thức phương thức lãnh đạo của Đảng trong hơn 20 năm qua. Nó vừa bảo

đảm thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng trong thực tiễn, vừa thực hiện
nhiệm vụ then chốt và giữ vững vấn đề có tính nguyên tắc đối với một Đảng
cầm quyền là: giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tổ chức và cán bộ trong hệ thống chính trị.
Trên cơ sở đổi mới nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy dân chủ,
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… Đồng thời khắc phục tình
trạng Đảng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện làm thay công việc của Nhà
nước và các đoàn thể xã hội. Đảng đã từng bước cụ thể hóa, thể chế hóa các
quan điểm của Cương lĩnh (năm 1991) về phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với các thành viên trong hệ thống chính trị và các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cụ thể là:
Đối với Quốc hội: Đảng định hướng lãnh đạo về: chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh những quan điểm chính trị chỉ đạo trong mỗi dự án
luật, pháp lệnh những vấn đề trọng yếu của mỗi kỳ họp Quốc hội và những
vấn đề quan trọng khác mà Đảng đoàn Quốc hội thấy cần có sự chỉ đạo của
Bộ Chính trị. Đảng đòi hỏi: Đảng đoàn Quốc hội có trách nhiệm lãnh đạo
hoạt động của Quốc hội theo đường lối của Đảng. Truyền đạt cho các đảng
viên là đại biểu Quốc hội những quan điểm chỉ đạo của Trung ương, thuyết
phục, vận động các đại biểu Quốc hội ngoài đảng theo đường lối, quan điểm
của Đảng.


Mọi đảng viên trong Quốc hội phải thực hiện đúng những chủ trương,
chính sách mà Đảng đã khẳng định. Đối với vấn đề mà Bộ Chính trị chỉ nêu
phương hướng, đảng viên phải nêu cao tính đảng, tham gia thảo luận xây
dựng để Quốc hội đi tới những quyết định chuẩn xác. Đối với các vấn đề có
ý kiến khác nhau, chưa đủ căn cứ để kết luận, thì sau khi Quốc hội thảo luận,
Đảng sẽ có định hướng lãnh đạo.
Đối với Chính phủ: Đảng quyết định những phương hướng, chủ

trương, chính sách lớn về sắp xếp tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của
Chính phủ và các bộ, ngành; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo những vấn đề lớn về
kinh tế, xã hội quốc phòng, an ninh, quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại,
không can thiệp sâu vào công việc điều hành của Chính phủ; Đảng lãnh đạo
bảo đảm cho quá trình thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối thành kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và chính sách, kế hoạch, pháp luật, các giải pháp của
Nhà nước theo đúng đường lối của Đảng; Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ
chức Đảng trong bộ máy Nhà nước vững mạnh; Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ, quản lý đội ngũ cán bộ và giới thiệu những đảng viên, quần
chúng ưu tú có đủ phẩm chất năng lực vào hoạt động ở các cơ quan nhà
nước, mọi đảng viên công tác trong bộ máy Nhà nước vừa phải chấp hành
kỷ luật Đảng, vừa phải chấp hành pháp luật Nhà nước, thực hiện trách nhiệm
công dân và trách nhiệm của người đảng viên. Đảng lãnh đạo chặt chẽ công
tác kiểm tra, giám sát Nhà nước trong việc thực hiện mọi đường lối, chính
sách của Đảng.
Đối với cơ quan tư pháp: Đảng lãnh đạo về phương hướng, nhiệm vụ
bảo vệ pháp luật, bảo đảm an ninh quốc gia, các chính sách lớn về xử lý tội
phạm, bảo vệ tài sản Nhà nước tính mạng và tài sản nhân dân; những vụ án
có ảnh hưởng lớn về chính trị, pháp luật Nhà nước. Đảng quyết định chủ
trương, phương hướng đổi mới, sắp xếp bộ máy tư pháp cho phù hợp với


đặc điểm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng phát huy vai trò của
các tổ chức đảng đoàn tư pháp và tôn trọng tính độc lập của các cơ quan tư
pháp trong công tác xét xử theo quy định của pháp luật.
Đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân: Đảng định hướng mục
tiêu chính trị, hướng phát triển trước mắt và lâu dài của các đoàn thể. Lãnh
đạo các đoàn thể chính trị - xã hội đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động, khắc phục tình trạng quan liêu, hành chính. Chú trọng cải tiến sinh
hoạt và hình thức tập hợp, nhất là ở cơ sở, nâng cao chất lượng đoàn viên,

học viên.
Đảng lựa chọn và giới thiệu nhũng cán bộ, đảng viên ưu tú ứng cử các
chức vụ chủ chốt của các đoàn thể, để các đoàn thể bầu cử theo quy định.
Thông qua Đảng đoàn và các đảng viên trong Mặt trận và đoàn thể để
hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của đảng viên công tác trong các đoàn thể,
bảo đảm cho đoàn thể hoạt động đúng phương hướng chính trị. Đồng thời,
xây dựng quy chế và thực hiện công khai, tạo điều kiện để quần chúng giám
sát và tham gia quản lý các công việc của Nhà nước.
Đối với các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ:
Đảng khuyến khích phát triển theo hướng tự nguyện, tự quản, tự chủ về tài
chính theo đúng luật pháp. Đảng nghiên cứu nguyện vọng lập hội và xu
hướng phát triển của các hội, đoàn thể để định hướng chính sách chung và
riêng phù hợp với từng loại.
Đối với Ban Chấp hành Trung ương: Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội
Đảng, lập chương trình làm việc toàn khóa để thảo luận các vấn đề quan
trọng nhất về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và
pháp luật. Giới thiệu nhân sự ứng cử vào các chức vụ Chủ tịch nước, Chủ
tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ.


Đối với Bộ Chính trị: Căn cứ vào nghị quyết Quốc hội và nghị quyết
Hội nghị Trung ương, ra nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo các lĩnh vực hoạt
động của Nhà nước như đã nêu trên. Giới thiệu cán bộ ứng cử vào các chức
vụ chủ chốt trong bộ máy Nhà nước theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ.
Đối với Ban Bí thư: Thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ
Đảng; tổ chức triển khai công tác kiểm tra hoạt động của Đảng đoàn, Ban cán
sự Đảng của cơ quan, đoàn thể ở Trung ương, bảo đảm thực hiện đúng các nghị
quyết của Đảng, chăm lo công tác cán bộ trong diện được phân cấp quản lý.
Đối với Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng trong các cơ quan Nhà nước
chịu trách nhiệm trước cấp ủy về quán triệt đường lối, chính sách của Đảng

trong hoạt động của ngành, thảo luận và quyết định những chủ trương quan
trọng về thực hiện nghị quyết của Đảng; phối hợp với Đảng ủy khối và cấp
ủy địa phương trong công tác xây dựng Đảng thuộc ngành mình. Chịu trách
nhiệm quản lý cán bộ theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ của Đảng.
Ở địa phương: Sự lãnh đạo của cấp ủy đối với chính quyền cũng theo tinh
thần trên. Xây dựng quy chế cụ thể về nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp
ủy đối với Đảng đoàn, Ban cán sự đảng ở các cơ quan chính quyền địa phương.
Đối với lĩnh vực kinh tế - xã hội: Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường
lối. Đảng quyết định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cơ cấu
và các cân đối kinh tế tổng quát trong từng thời kỳ; mục tiêu, phương hướng kế
hoạch dài hạn và ngắn hạn; các chính sách về các thành phần kinh tế quy hoạch
một số ngành trọng yếu, một số khu vực kinh tế tập trung, quyết định các công
trình trọng điểm của nền kinh tế nhất là các công trình liên quan đến an ninh
quốc gia; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị với phát triển kinh tế
và giải quyết vấn đề xã hội; quyết định phương hướng cân đối ngân sách nhà
nước hàng năm, những chương trình vay vốn đầu tư lớn của nước ngoài, các
chính sách về văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế… và các vấn đề quan trọng khác


do Ban cán sự đảng Chính phủ đề nghị, đồng thời cho ý kiến về các dự án luật
về kinh tế trước khi trình Quốc hội thông qua.
Đảng lãnh đạo bằng việc bảo đảm cho quá trình thể chế hóa đường lối
thành pháp luật, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước theo đúng đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và giới thiệu, phân công đảng
viên phụ trách các công việc chủ chốt trong các cơ quan Nhà nước và các tổ
chức kinh tế quốc doanh lớn.
Đảng lãnh đạo bằng việc tổ chức phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước
với nhau và giữa các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể với các tổ chức kinh tế.
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát và thông qua vai trò

tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong sản xuất thực hành tiết
kiệm chống tham nhũng, và tổ chức đời sống của các tầng lớp nhân dân .
Đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Đảng quyết định đường lối,
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của đất nước trong từng thời kỳ; lãnh đạo xây
dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng, gắn với tiềm lực thế trận an ninh; lãnh
đạo toàn dân và hệ thống chính trị kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, kết hợp kinh
tế với quốc phòng và an ninh và hoạt động đối ngoại.
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt lĩnh vực quốc phòng, an
ninh; thống nhất giữa lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước đối với lĩnh
vực quốc phòng, an ninh bằng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bằng tổ
chức và bằng luật pháp; thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an.
Đối với lĩnh vực tư tưởng: Đảng lãnh đạo việc nghiên cứu, tiếp thu,
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, xây dựng lý luận phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, lãnh đạo xây


dựng đường lối, nghị quyết và quán triệt đường lối, nghị quyết công tác tư
tưởng; lãnh đạo xây dựng nền tảng tinh thần vững chắc và phong phú của xã
hội; lãnh đạo cuộc đấu tranh khắc phục những nhận thức tư tưởng lệch lạc
và chống các luận điểm tư tưởng thù địch.
Đảng lãnh đạo lĩnh vực tư tưởng bằng đường lối, chiến lược tư tưởng
và chương trình công tác tư tưởng; bằng các quyết định về công tác tư tưởng
và bằng công tác kiểm tra. Đảng lãnh đạo thông qua các hoạt động, thông
qua lực lượng và các phương tiện làm công tác tư tưởng.
Đối với lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật: Đảng lãnh đạo giữ vững định
hướng tư tưởng cho hoạt động sáng tác và cảm thụ; tạo sự gắn bó giữa văn
nghệ sĩ, công chúng và các cơ quan quản lý văn hóa - nghệ thuật; chăm sóc
tài năng văn hóa - nghệ thuật; đánh giá đúng đắn khách quan các tài năng và

các tác phẩm lớn.
Đảng lãnh đạo đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật bằng cách thông
qua việc thiết lập tổ chức đảng đoàn trong cơ quan văn hóa và các hội văn
học - nghệ thuật, kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước, hệ thống pháp luật và
các chính sách. Lãnh đạo thông qua hiệp hội và các hội văn học - nghệ thuật,
đội ngũ lý luận phê bình và sự phê bình của công chúng.
Thứ ba, trên cơ sở phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng đã làm sáng tỏ mục tiêu, quan
điểm, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Theo Đảng, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hệ thống chính trị và xã hội là nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh
đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân; nâng


cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm
chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội
để nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đạt được mục tiêu trên, cần nắm vững, thực hiện tốt các quan
điểm chỉ đạo thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng sau đây:
3. Mục tiêu, quan điểm tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị
Nghị quyết số 15 -NQ/TW, được thông qua tại Hội nghị Trung ương
5, khoá X về Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị đã xác định mục tiêu đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị gồm 5 điểm sau:
Một là, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao

tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Hai là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Ba là, phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội.
Năm là, phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Đồng thời, Nghị quyết đã nêu 4 quan điểm chỉ đạo đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị sau đây:
Quan điểm thứ nhất: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi
mới và chỉnh đốn Đảng.


Để thực hiện tốt quan điểm này yêu cầu phải tiến hành đồng bộ với
đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt
động của cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức; tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế của đất nước.
Quan điểm thứ hai: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Đảng.
Theo đó, phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và thực
hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội, đồng thời phải đẩy mạnh
phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Quan điểm thứ ba: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng. Phải chủ động, tích

cực, có quyết tâm cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc; vừa
làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.
Quan điểm thứ tư: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt
các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ
lãnh đạo của từng cấp, từng ngành.
4. Nhiệm vụ và giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
giai đoạn hiện nay
4.1. Nâng cao nhận thức và thống nhất quan điểm về thể chế Đảng
lãnh đạo Nhà nước ở nước ta hiện nay
Đây là giải pháp có vị trí quan trọng hàng đầu trong các giải pháp. Bở
vì, không có sự thống nhất về quan điểm trong toàn Đảng về định hướng và


những nội dung cần đổi mới thì không thể tạo nên sự thống nhất hành động
đổi mới được. Do đó, cần làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức
rõ những yêu cầu mới trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một
đòi hỏi bức xúc của giai đoạn cách mạng hiện nay.
Đổi mới nhận thức về xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước theo
hướng tôn trọng vị trí, vai trò, chức năng của Nhà nước. Cần có sự chuyển
hướng căn bản giảm dần lãnh đạo bằng chỉ thị, mệnh lệnh trực tiếp, quá cụ
thể vào hoạt động của Nhà nước thông qua những nguyên tắc chung, bằng
tuyên truyền, thuyết phục, bằng công khai, dân chủ, tôn trọng pháp luật.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước là thông qua các tổ chức
đảng, thông qua các đảng viên làm việc trong các cơ quan nhà nước, “trở
thành nhà nước”, thông qua nhà nước để lãnh đạo xã hội. Trên cương vị lãnh
đạo các cơ quan công quyền, đảng viên nhân danh người được dân ủy quyền
để tác động vào nhà nước, chứ không phải là nhân danh Đảng, nhân danh
nghị quyết của Đảng để thực thi các công việc nhà nước. Làm như vậy
không có nghĩa là Nhà nước mất đi bản chất công nhân. Và như vậy cũng có

nghĩa là ý chí của đảng đã trở thành ý chí của xã hội, giai cấp công nhân đã
trở thành “cái dân tộc”, “cái phổ biến”, đảng đã hóa thân vào nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng mọi tổ chức và hoạt động của các cơ
quan đảng và đảng viên không thể đứng ngoài và đứng trên nhà nước. Trong
các mối quan hệ với tổ chức đảng, mỗi đảng viên thực hiện các quyền và
nghĩa vụ theo quy định của Điều lệ Đảng. Trong quan hệ với nhà nước, mỗi
đảng viên thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân theo các quy định của
Hiến pháp và pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Cần thống nhất về quan điểm, nhận thức trên những vấn đề căn bản:
- Mục tiêu đổi mới thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước là nhằm củng cố
vai trò lãnh đạo của Đảng nói chung và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
với Nhà nước nói riêng; giải quyết tốt các mối quan hệ giữa Đảng với Nhà


nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, đảm bảo dân chủ, đảm bảo quyền lực của nhân dân.
- Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước pháp quyền không có gì mâu
thuẫn mà là tất yếu. Song, Đảng cần phải thay đổi cách thức tác động.
- Để làm tăng quyền lực lãnh đạo với nhà nước, các tổ chức đảng từ
Trung ương xuống đến cơ sở và mỗi đảng viên cần ý thức được tầm quan
trọng cũng như những khó khăn và bước đi tất yếu của quá trình đổi mới thể
chế Đảng lãnh đạo Nhà nước. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, nâng cao
năng lực của mỗi tổ chức và đảng viên.
- Đổi mới thể chế lãnh đạo của Đảng là nội dung quan trọng trong đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng và phải thường xuyên thay đổi cho phù
hợp với từng giai đoạn cách mạng. Hoàn chỉnh hệ thống các nguyên tắc
Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền là
vấn đề mới, lớn và rất hệ trọng.
- Đảng và Nhà nước cần có sự phối hợp để nghiên cứu nghiêm túc vấn
đề này. Cần tập trung được trí tuệ của đông đảo các nhà khoa học, các nhà

chuyên môn, các nhà chính trị trong vấn đề này. Cần học hỏi kinh nghiệm
của một số đảng trên thế giới và khu vực.
Nói chung, về mặt quan điểm để đẩy mạnh đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng với Nhà nước, trước hết phải nhận thức hết tầm quan trọng của nó
(theo định hướng ở phần trên) và phải có quyết tâm của toàn Đảng; cảnh
giác, đấu tranh chống lại các luận điệu phá hoại sự nghiệp của Đảng.
4.2. Nghiên cứu tổng kết, tiếp tục làm rõ quan điểm về Đảng lãnh
đạo và Đảng cầm quyền làm cơ sở đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng một cách cơ bản, toàn diện
Cụ thể hóa Cương lĩnh, Hiến pháp và Điều lệ Đảng về phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội; xác định rõ


chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa Đảng đối với Nhà nước, mặt trận và
các đoàn thể nhân dân.
Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng
bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các
cơ quan quản lý Nhà nước. Cụ thể:
Đối với Quốc hội, xây dựng cơ chế, quy chế giải quyết tốt hơn mối
quan hệ giữa vai trò lãnh đạo về quan điểm, phương hướng, chủ trương,
nguyên tắc, giải pháp lớn của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư (đối với những vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại
trọng đại của đất nước) với thẩm quyền quyết định của Quốc hội trên những
vấn đề này theo hiến pháp và luật tổ chức, hoạt động của Quốc hội.
Đối với Chính phủ, xác định rõ hơn thẩm quyền quyết định của Chính phủ,
xác định rõ những loại việc ở tầm Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban
Bí thư trực tiếp quyết định; những loại việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho ý kiến
định hướng; những loại việc Chính phủ chủ động quyết định theo thẩm quyền.

Đối với các cơ quan tư pháp, Đảng lãnh đạo công tác tư pháp, lãnh đạo
công tác đào tạo, bồi dưỡng, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ tư pháp, tôn
trọng nguyên tắc: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của
Thẩm phán, Hội thẩm”9. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng,
ban cán sự của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân.
Đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt các lĩnh vực này về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân trong sạch vững mạnh, có
9

Khoản 2, điều 103, chương VIII, Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013


bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống đồng
thời phát huy trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với các cơ quan nay.
Đối với chính quyền địa phương, định rõ những loại việc ban chấp
hành đảng bộ, ban thường vụ cho ý kiến trước khi hội đồng nhân dân, ủy
ban nhân dân quyết định thực hiện những loại việc do hội đồng nhân dân,
ủy ban nhân dân quyết định theo thẩm quyền. Sự lãnh đạo của cấp ủy đảng
là định hướng và bảo đảm để hội đồng nhân dân quyết định các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội ở địa phương, tạo điều kiện cho ủy ban nhân dân, người
đứng đầu cơ quan hành chính Nhà nước, địa phương quản lý, điều hành và
tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đề ra.
Đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, tăng cường và đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng, ban hành cơ chế
chính sách, tạo điều kiện cho các tổ chức này hoạt động đúng định hướng
chính trị, đúng pháp luật và có hiệu quả. Phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo
của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong việc kiện toàn tổ chức và đổi
mới hoạt động của mình, (đặc biệt tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ

trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Có cơ chế,
chính sách lãnh đạo và quản lý phù hợp với từng loại hội. Tiếp tục luật hóa
các hoạt động của các đoàn thể nhân dân và các hội.


KẾT LUẬN
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua
Phương thức Đảng lãnh đạo, đó là phương pháp tác động và hình thức thể
hiện mà Đảng sử dụng để lãnh đạo đối với hoạt động của Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Phương thức lãnh đạo của Đảng với
nhà nước bảo đảm cho Đảng luôn giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng với nhà nước, vai trò đó được thể chế hóa thành luật và được ghi vào
Hiến pháp - bộ luật cơ bản, cao nhất của Nhà nước, được Nhà nước và xã
hội thừa nhận. Những thành tựu của cách mạng dân tộc dân chủ và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là thành tựu to lớn của gần 30 năm đổi mới đã
chứng thực tính đúng đắn của đường lối cách mạng do Đảng ta vạch ra và sự
phát triển, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội phù hợp với tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam. Quá trình đổi
mới, phát triển và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam là nhân tố quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt
Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng
phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới,
tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất
trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng.
Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia
rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có
phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc.


×