Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

PHÁT TRIỂN cán bộ và xây DỰNG đội NGŨ cán bộ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG mỹ (1954 1975) ý NGHĨA TRONG xây DỰNG đội NGŨ cán bộ và CÔNG tác cán bộ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.41 KB, 17 trang )

Bớc phát triển của đội ngũ cán bộ và công t¸c c¸n bé
trong kh¸ng chiÕn chèng Mü (1954 - 1975) ý nghĩa trong
xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ hiện nay

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc là một cột mốc
lịch sử chói lọi trong những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam, đánh dấu
một chặng đờng oanh liệt của quân đội ta, làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang
của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Sau hơn hai mơi năm kháng chiến
trờng kỳ gian khổ, quân và dân ta đà viết nên bản anh hùng ca kỳ diệu của
chiến tranh cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nớc là thành quả tổng hợp của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan tạo
nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố
ấy chính là sự lÃnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong đó có những cống hiến to lớn của các lực lợng vũ trang nhân dân
do quân đội đóng vai trò nòng cốt. Sức mạnh vĩ đại và thắng lợi vẻ vang của
quân đội có sự đóng góp rất to lớn của công tác đảng, công tác chính trị.
Công tác đảng, công tác chính trị của quân đội ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nớc là một bộ phận rất quan trọng trong hoạt động lÃnh đạo
của Đảng đối với quân đội nhằm lÃnh đạo quân đội hoàn thành thắng lợi các
nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng, đánh bại tên đế quốc đầu sỏ, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nớc đa nớc ta bớc vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xà hội.
Công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc kháng chống Mỹ cứu nớc đÃ
để lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm vô giá, có ý nghĩa rất to lớn góp
phần bổ sung, phát triển lý luận, thực tiễn và nâng cao chất lợng hiệu quả của
công tác đảng, công tác chính trị của quân đội ta trong giai đoạn hiện nay.
Một trong những bài học kinh nghiệm vô giá ấy là kinh nghiệm xây
dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng
trong từng giai đoạn cách mạng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc.
Những kinh nghiệm quý báu về công tác cán bộ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nớc của quân đội, đến nay vẫn là những bài học hết sức quan


trọng làm cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng
quân đội.
1. Bớc phát triển của công tác cán bộ giai đoạn 1954 - 1975
Cuộc kháng chống Mỹ của nhân dân ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa
chống lại kẻ thù, một thế lực thực dân mới, tên đế quốc đầu sỏ. Vừa mang tính
chất giải phóng dân tộc, vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc để giải phóng
miền Nam, bảo vệ miền Bắc XHCN. Cuộc chiến đấu của quân và dân ta võa lµ


2
sứ mệnh vẻ vang của dân tộc đồng thời mang tính chất thời đại sâu sắc, đánh
thắng tên xen đầm quốc tế góp phần tích cực thúc đẩy phong trào hòa bình của
nhân dân trên thế giới. Trong cuộc chiến tranh vĩ đại bảo vệ Tổ quốc quân đội
ta đà không ngừng trởng thành về mọi mặt, là lực lợng nòng cốt trong đấu
tranh cách mạng cùng toàn dân, dới sự lÃnh đạo của Đảng lập nên những
chiến công, viết tiếp bản trờng ca Điện Biên Phủ hào hùng của dân tộc bằng
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Một trong những nhân tố quan trọng mang
tính chất then chốt trong phát huy sức mạnh tổng hợp của công tác đảng, công
tác chính trị là: Ngay từ đầu, kế thừa những kinh nghiệm truyền thống trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đà quan tâm xây dựng đội ngũ cán
bộ, phát huy vai trò nhân tố con ngời, xây dựng đội ngũ cán bộ lớn mạnh cả về
số lợng và chất lợng đáp ứng yêu cầu cung cấp cán bộ chi miền Nam đánh
Mỹ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng, xây dựng quân đội. Cán bộ là ngời tổ chức thực hiện, biến đờng lối của
Đảng thành hiện thực và góp phần xây dựng, cụ thể hóa đờng lối, chủ trơng
của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đà nói: Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc 1, và Công việc thành công haya thất bại, đều do cán bộ tốt hay xấu 2.
Nắm vững tầm quan trọng của công tác cán bộ, các tổ chức đảng trong quân
đội đà thờng xuyên lÃnh đạo chặt chẽ và phát huy trách nhiệm của các cấp,

các ngành thực hiện theo chức trách nhiệm vụ, tất cả vì mục tiêu xây dựng đội
ngũ cán bộ vững mạnh (đáp ứng cả số lợng và chất lợng) phục vụ cho công
cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lợc của cả dân tộc. Từ một quân đội trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, chủ yếu là bộ binh, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đà xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam và đội ngũ cán bộ quân
đội theo hớng chính quy và hiện đại (ngày nay chúng ta đà có đủ cả vùng đất,
vùng trời và vùng biển). Quân đội ta đà xây dựng đợc các quân chủng, binh
chủng, có đủ các chuyên ngành kỹ thuật và tơng ứng, chúng ta đà đào tạo, bồi
dỡng xây dựng đợc đội ngũ cán bộ quân sự, chính trị, nghiệp vụ đáp ứng yêu
cầu xây dựng và chiến đấu bảo đảm cho quân đội hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho.
Gắn với lịch sử xây dựng, chiến đấu và trởng thành của quân đội, công
tác cán bộ của quân đội cũng từng bớc đợc củng cố và phát triển trong từng
giai đoạn cách mạng.
Từ năm 1954 đến năm 1959: Đây là giai đoạn chuyển biến lớn của
nhiệm vụ cách mạng của cả nớc. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
. Hồ Chí Minh, Toµn tËp, tËp 4, Nxb Sù thËt, H, 1984, tr. 492.
. S®d, tr. 487

1
2


3
thắng lợi vẻ vang. Miền Bắc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến lên cách mạng xà hội chủ nghĩa. Miền Nam còn đặt dới ách thống trị thực
dân mới của đế quốc Mỹ; cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam
còn tiếp tục với nhiều hy sinh gian khổ và quyết liệt.
Nghị quyết Trung ơng 15 (01/1959) khẳng định rõ con đờng của nhân
dân miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng để chống bạo lực phản cách

mạng của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Đối với lực lợng vũ trang, đây là thời
kỳ phát triển mới sau nhiều năm chiến đấu liên tục; đến nay là thời kỳ củng cố
xây dựng trong điều kiện hòa bình ở miền Bắc để nâng cao chất lợng toàn
diện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xà hội ở miền
Bắc, để nâng cao chất lợng toàn diện sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu cho cách
mạng miền Nam.
Thực hiện các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ơng và của Bộ chính
trị, đặc biệt là Nghị quyết Trung ơng 2 (3/1975) về xây dựng quân đội, củng
cố quốc phòng. Lực lợng vũ trang đà có bớc phát triển mới, quân số tuy giảm
nhng chất lợng quân đội đợc nâng lên, giữ đợc một đội ngũ cán bộ mạnh và có
thêm các đơn vị quân chủng, binh chủng, kỹ thuật Sức chiến đấu của quân
đội đợc tăng lên một bớc rõ rệt và sẵn sàng trở lại chiến trờng khi tình hình
cách mạng yêu cầu và cho phép. Đội ngũ cán bộ và nhân viên kỹ thuật của
quân đội đến lúc này đà có số lợng tơng đối, chất lợng khá tốt, cơ cấu phù hợp
vừa đảm nhiệm đợc nhiệm vụ trớc mắt, vừa có dự trữ cho sjw phát triển của
quân đội. Đó là một chủ trơng đúng đắn vừa đảm bảo cho nhiệm vụ xây dựng
quân đội thời bình, vừa đảm bảo cho việc chuẩn bị đáp ứng cho chiến trờng
miền Nam, đồng thời ở thời kỳ này Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đÃ
điều động một số cán bộ quân đội ra ngoài để lÃnh đạo các ngành kinh tế, đÃ
có một số đồng chí giữ những vị trí chủ chốt của một số ngành của đất nớc.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đội ngũ cán bộ của ta đều trởng
thành, nhng lại chủ yếu thông qua thực tế chiến đấu, từ nhiều chiến trờng tập
trung lại, kinh nghiệm và trình độ khác nhau; đa số lại cha có điều kiện học
tập một cách tơng đối có hệ thống về chính trị, về quân sự và chuyên môn.
Với phơng châm bồi dỡng tơng đối có hệ thống, cơ bản và toàn diện nhằm
tập trung vào đối tợng chính là cán bộ trung, cao cấp, chúng ta đà tiến hành
bồi dỡng bằng nhiều biện pháp mở rộng các trờng đà có để tăng cờng lu lợng
học viên; mở trờng bổ túc cán bộ trung, cao cấp và và mở thêm các trờng binh
chủng, trờng văn hóa. Đồng thời đà động viên và tổ chức đợc một phong trào
sôi nổi và có nề nếp việc học tập tại chức về chính trị, quân sự, chuyên môn,

văn hóa. Mặt khác chúng ta đà chủ động cử một số cán bộ khá đông đi học tập


4
ở các trờng ngoài nớc Sau 6 năm, chúng ta ®· cã 15.364 c¸n bé häc qua c¸c
trêng trong níc và hàng chục vạn cán bộ đợc bồi dỡng tại chức trên các mặt.
Trình độ đội ngũ cán bộ đợc nâng nên rõ dệt cả chính trị, quân sự và kiến thức
văn hoá. Năm 1958, khi chúng ta thực hiện luật phục vụ của sĩ quan, việc tiến
hành phong quân hàm cho cán bộ đà góp phần đào tạo cán bộ theo nề nếp
chính quy.
Cùng với việc đào tạo, bồi dỡng cán bộ, chúng ta cũng đà tiến hành đề
bạt một số lớn cán bộ, đó là những đồng chí ®· trëng thµnh qua chiÕn ®Êu, cã
phÈm chÊt tèt theo chủ trơng: Thật mạnh dạn đề bạt cán bộ từ dới lên(3); và
Hết sức mạnh dạn đề bạt cán bộ công nông đồng thời cất nhắc thích đáng
cán bộ các thành phần khác đà qua thử thách, biểu hiện tiến bộ trung thành
với cách mạng(4). Chính vì có chủ trơng đúng đắn và sự chấp hành tích cực,
nghiêm chỉnh của các cấp cho nên công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ của quân
đội ta thời kỳ này đà cơ bản đáp ứng đợc yêu cầu nhiều mặt của việc xây dựng
quân đội, củng cố lực lợng xây dựng các đơn vị mới, nhất là các đơn vị kỹ
thuật, có dự chữ cho dài hạn, góp phần vào công cuộc xây dựng kinh tế và văn
hoá
Mặc dù còn một số hạn chế nh cha dự kiến đợc sát cho yêu cầu phát triển
của cách mạng miền Nam, và sau một thời gian cải cách ruộng đất còn có
những biểu hiện thành kiến, hẹp hòi, quá nặng nề về thành phần xuất thân của
cán bộ Song mặt cơ bản, chủ yếu là công tác cán bộ đà đi đúng đờng lối,
quan điểm của Đảng, đà khắc phục, uốn nắn một số sai lệch trớc đó là đánh
giá thấp công nông, không mạnh dạn đề bạt, bồi dỡng công nông; cha thật
nắm chắc quan điểm: cán bộ từ quần chúng mà ra, từ trong thực tế chiến đấu
công tác mà có. Chính đội ngũ cán bộ trong thời kỳ này đà làm nòng cốt cho
các giai đoạn phát triển tiếp theo của quân đội. Số đông cán bộ đà vợt qua thử

thách ác liệt của cuộc chiến tranh, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ và phát
triển tốt.
Bớc sang giai đoạn 1960 đến 1965. Đây là thời kỳ nửa nớc ta có chiến
tranh. Trớc phong trào nổi dậy mạnh m ẽ của nhân dân miền Nam, đế quốc
Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lợc chiến tranh đặc biệt với kế hoạch Tay
Lo, âm mu Bình Định miền Nam trong 18 tháng. Từ yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng trong giai đoạn này, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9.1960)
của Đảng ta đà xác định đờng lối cách mạng, nhiệm vụ cho cả nớc và cho từng
miền, đẩy mạnh cách mạng xà hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời với đẩy
mạnh cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai chiến lợc cách
(3)
(4)

Nghị quyết của Tổng quân uỷ.
Chỉ thị của Tổng cục Chính trị.


5
mạng đó tiến hành song song làm lên sức mạnh tổng hợp đánh thắng giặc Mỹ
xâm lợc, thống nhất đất nớc.
Công tác cán bộ trong giai đoạn này đà tập trung vào kiện toàn tổ chức,
lÃnh đạo, tổ chức chỉ huy chiến trờng, các quân, binh chủng và các đơn vị mới
đợc xây dựng, nhất là các đơn vị phòng không, vận tải chiến lợc để đáp ứng
yêu cầu phát triển của chiến tranh. Đẩy mạnh phát triển khối chủ lực của các
quân khu, đi đôi với phát triển lực lợng quân sự của các tỉnh, huyện, xÃ. Công
tác cán bộ đà có kế hoạch dài hạn (5 năm) với nhiệm vụ: Xây dựng một đội
ngũ cán bộ cách mạng, chính qui, có đủ trình độ đáp ứng yêu cầu trớc mắt và
theo hớng lâu dài. Bằng nhiều biện pháp, đi đôi với tăng nhanh đợc số lợng,
chúng ta đà xây dựng đợc chất lợng đội ngũ cán bộ và hoàn chỉnh thêm cả cơ
cấu để đáp ứng yêu cầu phát triển lực lợng và chi viện cho chiến trờng.

Đến năm 1964, số lợng đội ngũ cán bộ tăng gấp 3 lần năm 1960. Ta vừa
đa cán bộ vào miền Nam, đồng thời vừa đa cán bộ sang Lào, để đáp ứng yêu
cầu cho các mặt trận. Chúng ta đà chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ cho các
quân, binh chủng, đào tạo đội ngũ giáo viên cho các nhà trờng trong toàn quân
và còn bớc đến xây dựng đợc lực lợng cán bộ dự bị bảo đảm đáp ứng đợc cả
về số lợng và chất lợng. Mở nhiều trờng lớp để nâng cao trình độ cho cán bộ
theo hớng toàn diện, cơ bản, tơng đối có hệ thống cả về chính trị, quân sự,
chuyên môn và văn hoá. Nâng cao chất lợng và quản lý chặt chẽ việc học tập
tại chức của đội ngũ cán bộ. Nội dung bồi dỡng về chính trị chú trọng quán
triệt đờng lối cách mạng, nắm chắc nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị,
nguyên tắc lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội, nâng cao ý thức về Đảng, ý
thức kỷ luật; về quân sự, chú trọng nắm vững quan điểm, t tởng quân sự của
Đảng, gắn liền học tập với thực tế chiến đấu, tránh dập khuôn máy móc, giáo
điều. Chó träng båi dìng ë trong níc lµ chÝnh, kÕt hợp đa cán bộ đi đào tạo ở
nớc ngoài.
Căn cứ vào nghị quyết của Đại hội Đảng III, Quân uỷ Trung ơng đà xác
định phải ra sức bồi dỡng, mạnh dạn đề bạt cán bộ. Xuất thân từ thành phần
công, nông, đồng thời tích cực bồi dỡng, cải tạo, đề bạt thích đáng các thành
phần khác. Cán bộ phải có đức tài, đức là cơ bản, tài là quan trọng. Kiên quyết
đấu tranh khắc phục tình trạng thành phần chủ nghĩa, chỉ chú trọng công,
nông, cử thành phần công nông là đề bạt mà không căn cứ vào tiêu chuẩn dẫn
đến đề bạt cả những ngời không đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ, hoặc tình
trạng thành kiến với những ngời thuộc các thành phần khác.
Tổ chức đảng các cấp đà chấp hành nghiêm chỉnh phơng hớng trên vì
vậy, đà xây dựng đợc một đội ngũ cán bộ vững vàng làm nòng cốt cho việc


6
xây dựng quân đội và bảo đảm cho quân đội hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đợc
giao. Bớc sang giai ®o¹n 1965 ®Õn 1968. Sau khi thÊt b¹i trong chiÕn lợc

Chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lợc Chiến tranh cục
bộ ồ ạt đa quân viễn chinh vào miền Nam, đẩy mạnh chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân ra miền Bắc Việt Nam. Nhiệm vụ của lực lợng
vũ trang vô cùng nặng nề và phức tạp đòi hỏi phải nỗ lực lớn để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ cách mạng ở cả hai miền của đất nớc, đặc biệt phải chuyển hớng
các mặt hoạt động cho phù hợp thời chiến. Về tổ chức, phải kiện toàn tổ chức
lÃnh đạo, tổ chức chỉ huy về xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng cho yêu cầu
phát triển lực lợng nhảy vọt về quân số (lên tới 70 vạn), thành lập nhiều s
đoàn, nhiều đơn vị binh chủng mới và đa các đơn vị mới, số lợng lớn quân số
vào tăng cờng cho chiến trờng miền Nam.
Trớc kẻ thù và đế quốc Mỹ với một đội quân nhà nghề, đợc trang bị hiện
đại, đông hơn một triệu tên (cả Mỹ và tay sai ngụy quyền) cho lên để đánh
thắng chúng thì vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải xây dựng lực lợng của ta
ngày càng lớn mạnh đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến đấu nhất là những
thời cơ chiến lợc. Mặc dù đà đợc chuẩn bị trong thời bình với một đội ngũ cán
bộ, nhân viên kỹ thuật, nhng đến khi chiến tranh mở rộng đòi hỏi phải có sự
phát triển mở rộng của lực lợng vũ trang thì phải có chủ trơng, biện pháp mới
phù hợp, không thể máy móc theo nề nếp của thời bình.
Trong một thời gian ngắn, quân đội ta đà xây dựng thêm nhiều trung
đoàn s đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật, đà đa vào chiến trờng đơn vị lớn.
Ngay tại chiến trờng chúng ta cũng vừa tích cực phát triển các lực lợng tại
chỗ: dân quân tự vệ, bộ đội của huyện, tỉnh kết hợp xây dựng khối chủ lực tập
trung gồm những trung đoàn, s đoàn đủ mạnh, đủ khả năng đánh tiêu diệt lớn
quân địch. Vấn đề quan trọng nhất phải làm lúc đó là chúng ta phải làm tốt
việc đấu tranh khắc phục những nhận thức, t tởng không đúng nh t tởng bảo
thủ, theo kinh nghiệm cũ, cục bộ địa phơng, giữ cán bộ, giữ quân số và trang
bị, t tởng phân tán, dàn đều, không kiên quyết tập trung
khi chiến tranh mở rộng đòi hỏi phải có sự phát triển mở rộng của lực lợng vũ trang thì phải có chủ trơng, biện pháp mới phù hợp, không thể máy
móc theo nề nếp của thời bình.Chuyển hớng việc đào tạo cán bộ theo thời
chiến, lấy việc bồi dỡng ngắn ngày, kèm cặp trong chiến đấu là chủ yếu; đồng

thời mở rộng quyền hạn, trách nhiệm đào tạo bồi dỡng cán bộ cấp quân khu,
quân đoàn. Thực hiện động viên sĩ quan dự bị, điều động cán bộ từ ở các nhà
trờng các cơ quan đa xuống đơn vị chiến đấu vì vậy nên đà đáp ứng đợc một
phần số và chất lợng đội ngũ cán bộ các đơn vị chiến đấu, và cũng chính qua


7
đó nâng cao việc rèn luyện cho cán bộ để họ trởng thành. Các chơng trình
huấn luyện cơ bản ở các nhà trờng từ cơ bản, hệ thống, dài ngày, chun
sang båi dìng “cÊp tèc”, rót gän theo tinh thÇn làm gì học nấy, ở cấp nào học
cấp nấy.
Tuy vậy, do nhu cầu cán bộ cho miền Nam quá lớn (gấp 8 lần so với dự
kiến ban đầu) cho nên, Đảng, Nhà nớc ta đà điều động thêm một lợng cán bộ
lớn cho quân đội. Đến tháng 7 năm 1968 quân đội đà có 4.427 cán bộ, chuyên
môn kỹ thuật cao cấp, bằng 3,2% tổng số cán bộ.
Các chủ trơng biện pháp chuyển hớng công tác cán bộ đà mang lại kết
quả tốt, đáp ứng yêu cầu phát triển lực lợng, củng cố đơn vị chiến đấu, quân
và dân ta đà giành chiến thắng trên khắp các chiến trờng các mặt trận trên cả
hai miền Nam Bắc. Đó là thành công lớn của chủ trơng lớn chuyển hớng
công tác tổ chức, của các biện pháp đào tạo, bồi dỡng cán bộ phù hợp với yêu
cầu của chiến tranh, đặc biệt là trong thời gian dài gay go ác liệt. Điểm hạn
chế trong giai đoạn này của công tác cán bộ là: cha bảo đảm sự kết hợp giữa
yêu cầu trớc mắt với yêu cầu cơ bản lâu dài. Cha kiên quyết giữ một tỷ lệ
thích đáng việc đào tạo có hệ thống để các tổ chức học viện nhà trờng xộc
xệch, thiếu chuẩn bị để mở rộng đào tạo cơ bản, hệ thống khi có điều kiện.
Các chiến trờng triển khai đào tạo chỗ còn chậm, nhất là đối với đội ngũ cán
bộ trung, cao cấp. Sau thất bị nặng nề của chiến lợc chiến tranh cục bộ, đế
quốc Mỹ buộc phải xuống thang, chấm dứt không điều kiện ném bom phá
hoại miền Bắc, nhng chúng vẫn điên cuồng phản kích ở miền Nam, mở rộng
chiến tranh sang Lào và Cămpuchia, thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh.

Đây cũng là giai đoạn quân và dân ta bớc vào thời kỳ khó khăn, ác liệt nhất,
gay go và phức tạp nhất (giai đoạn 1969 đến 1972). Trớc yêu cầu của nhiệm
vụ chiến trờng, quân đội ta đà thực hiện tốt cuộc vận động nâng cao chất lợng của các lực lợng vũ trang, nâng cao sức mạnh chiến đấu một cách toàn
diện, đẩy lùi các t tởng hữu khuynh, tiêu cực, tăng thêm các đơn vị chủ lực
trên chién trờng phát triển mạnh mẽ các quân chủng, binh chủng, thực hiện
thắng lợi các chiến lợc hiệp đồng quân binh chủng
Từ cuối năm 1968 đến đầu năm 1969, các cấp uỷ đảng trong toàn quân
đà tiến hành một đợt sinh hoạt t tởng, phê bình và tự phê bình để khắc phục t
tởng lệch lạc sai trái, trớc hết là cho đội ngũ cán bộ. Đồng thời ra sức chấn
chỉnh lực lợng, bổ sung quân số và cán bộ, tăng cờng đoàn kết nội bộ, tích cực
nâng cao chất lợng và sức chiến đấu cho các đơn vị. Các đơn vị liªn tiÕp tỉ
chøc häc tËp lêi kªu gäi cđa Chđ tịch Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 7 năm
1969; học tập các Nghị quyết 18, 19, 20 của Ban Chấp hành Trung ơng Đảng.


8
Nâng cao chất lợng cho đội ngũ cán bọ đảng viên trong đơn vị kết hợp chặt
chẽ việc nâng cao năng lực lÃnh đạo cho đội ngũ cán bộ với việc khắc phục
nhợc điểm về vận dụng t tởng chỉ đạo tác chiến, về xây dựng và sử dụng lực lợng Vừa phát động phong trào rèn luyện đảng viên theo bảng yêu cầu
nhằm nâng cao tính tiền phong gơng mẫu, ý chí quyết tâm, khắc phục t tởng
dao động; vừa thực hiện chủ trơng nâng cao chất lợng toàn diện tích cực phát
triển số lợng trong công tác cán bộ, số trờng lớp đào tạo cán bộ đà tăng
nhiều, đà thu nhận thời xuyên khoảng 8,5% tổng số cán bộ. Đội ngũ cán bộ
tăng nhanh: Năm 1970 gấp 3,5 lần năm 1964. Biện pháp luân phiên cán bộ đi
chiến trờng đà nâng tỷ lệ cán bộ qua chiến đấu từ 60% năm 1965 lên 80,4%.
Đội ngũ cán bộ thực sự đà phát huy tốt vai trò lÃnh đạo, chỉ huy, gơng mẫu
trong chiến đấu. Việc bố trí cán bộ nhất là cán bộ chủ trì, lÃnh đạo chỉ huy các
cấp và các đơn vị trọng yếu, có dự trữ cán bộ và dự kiến nhiều lớp thay thế để
đảm bảo lÃnh đạo, chỉ huy không gián đoạn qua các đợt, các chiến dịch các
trận chiến đấu. Việc luân chuyển, thay thế đội ngũ cán bộ chính là một biện

pháp hữu hiệu nhất để tôi luyện nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ một cách
toàn diện nhất.
Tuy nhiên, hạn chế của công tác cán bộ trong thời gian này là: Do yêu
cầu quá lớn về số lợng cho nên mới đáp ứng đợc 87% cho miền Nam; về trình
độ thì mới đạt cấp nào biết cấp ấy nên khi những tình huống phát sinh, sự
phát triển của nhiệm vụ thì còn có sự lúng túng. Những thắng lợi của quân và
dân ta đà buộc đế quốc Mỹ phải đơn phơng rút quân khỏi miền Nam (giai
đoạn 1973 1975), nhng bản chất của chúng cha hề thay đổi, chúng vẫn
ngoan cố hà hơi, tiếp sức cho việc duy trì chính quyền ngụy Sài Gòn, tăng
thêm vũ khí và trang bị cho quân ngụy, thực hiện chế độ thực dân mới. Trên
các chiến trờng, ta tuy thắng lớn song địch cha thất bại hoàn toàn, cuộc chiến
đấu vẫn còn phải tiếp tục. Song đây là một thời cơ lớn, tơng quan lực lợng đÃ
thay đổi rất có lợi cho chúng ta. Tuy quân ngụy còn đông, trang bị còn mạnh.
Lúc này ở miền Bắc, phát huy caod dộ sức mạnh của hậu phơng lớn, của chế
độ XHCN, động viên toàn lực lợng cho cách mạng miền Nam. Khắc phục
những lúng túng, khó khăn ban đầu, tiếp tục phát triển thế tiến công đánh bại
các kế hoạch Bình Định và lấn chiếm của quân ngụy. Quyết tâm của toàn
Đảng ta, toàn quân và toàn dân ta là giải phóng miền Nam, thống nhất nớc
nhà, cho nên các lực lợng vũ trang cùng nhân dân cả nớc dồn sức ngời, sức
của ra tiền tuyến thực hiện thắng lợi các chiến dịch tiến công và nổi dậy đánh
sập trên một triệu tên ngụy quân Sài Gòn. Từ tháng 6 năm 1973, Quân uỷ
Trung ơng đà ra nghị quyết chỉ rõ: Bất kể trong tình hình nào cũng giữ vững,


9
phát triển lực lợng ta về mọi mặt, cả quân sự và chính trị, cả ba vùng chiến lợc
và cả lực lợng chủ lực và địa phơng. Đặc biệt là phải giành dân và giành quyền
làm chủ, coi trọng xây dựng vùng giải phóng. Xây dựng hậu phơng chiến lợc
tại chỗ. Quán triệt nghị quyết của Quân uỷ, ta vừa tập trung hết sức xây dựng
các quân đoàn chủ lực, các binh chủng kỹ thuật mạnh, vừa khắc phục sự mất

cân đối giữa lực lợng chủ lực và lực lợng địa phơng; giữa lực lợng địa phơng
và dân quân du kích. Công tác cán bộ lúc này là tập trung bồi dỡng phẩm chất
và năng lực cho cán bộ hiện có, vừa tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ kế tiếp.
Tiến hành điều chỉnh cán bộ cho các đơn vị chủ lực đủ theo biên chế đảm bảo
cán bộ cấp tiểu đoàn trở xuống đều khoẻ, trẻ; bổ sung tăng cờng thêm cán bộ
kỹ thuạt binh chủng cho các chiến trờng.
Nhờ vậy, đà có đủ cán bộ để thành lập ba quân đoàn cơ động và đáp ứng
cho các đơn vị của các binh chủng, với hàng trăm chuyên môn. Heejthoongs
nhà trờng của quân đội đợc củng cố; các trờng quân sự của các quân khu đợc
thành lập thêm để đào tạo cán bộ tại chỗ. Trên cơ sở củng cố đội ngũ cán bộ,
nhiều quân khu, quân chủng đà triển khai xây dựng những đơn vị trung, s
đoàn mạnh, Quân khu 5 xây dựng trung đoàn binh chủng giỏi và luân phiên
các đơn vị để huấn luyện cơ bản, toàn diện hệ thống, từng bớc tiến lên chính
quy hiện đại
Đối với chiến dịch tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975, chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử Lực lợng vũ trang của chúng ta đứng trớc sứ mệnh lịch sử vô
cùng trọng đại. Đảng ủy các cấp trong quân đội lúc này xác định phải khắc phục
ngay những t tởng lệch lạc trong cán bộ chiến sĩ đó là: không thấy hết sức mạnh
to lớn của ta. Còn chừng nào đó đánh giá cao về địch, thấy quân ngụy còn đông
quân số và lo ngại quân Mỹ có thể trở lại cứu nguy cho quân ngụy, hoặc có tâm
lý ngại hy sinh khi ngày toàn thắng đà tới gần Nắm chắc diễn biến t tởng của
cán bộ, chiến sĩ, lÃnh đạo, chỉ huy các đơn vị từ cấp chiến dịch đến phân đội,
nòng cốt là sự lÃnh đạo của các chi bộ và vai trò tiên phong gơng mẫu của cán bộ
đảng viên vừa chiến đấu dũng cảm, vừa chăm lo giáo dục động viên xây dựng ý
chí quyết tâm chiến đấu kiên cờng cho quần chúng; sắp xếp cán bộ, đảng viên đi
sát giúp đỡ, kèm cặp số đồng chí có tâm lý t tởng thiếu vững vàng, chăm lo tổ
chức, hành, trú quân, chuẩn bị chiến đấu và bảo đảm đời sống sinh hoạt cho bộ
đội ®Õn møc cao nhÊt.



10
Để duy trì vững chắc sự lÃnh đạo, chỉ huy không gián đoạn và có hiệu
lực cao, trong suốt chiến dịch, các quân đoàn đà tổ chức tập huấn cho cán bộ
trớc khi mở chiến dịch và ngay giữa các đợt của chiến dịch. Quy định chặt chẽ
số cán bộ tham gia từng trận đánh, các cấp đều có ngời sẵn sàng thay thế.
Tóm lại, trong giai đoạn 1973 đến 1975, sự lÃnh đạo chặt chẽ của Đảng ủy
Quân sự Trung ơng, sự năng động bám sát thực tế, diễn biến chiến trờng của các
đơn vị đà nâng cao chất lợng công tác cán bộ. Kịp thời điều chỉnh cán bộ, làm tốt
công tác giáo dục, bồi dỡng chấn chỉnh những lệch lạc đà góp phần hết sức quan
trọng làm nên chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nớc.
Những u điểm trong công tác cán bộ trớc hết là sự nhận thức đúng đắn vị
trí, vai trò của công tác cán bộ trong xây dựng quân đội, trong nâng cao sức chiến
đấu và trình độ lÃnh đạo của các tổ chức. Bởi vậy thờng xuyên coi trọng công tác
cán bộ là công tác lÃnh đạo của tập thể cấp ủy đảng các cấp. Kết hợp chặt chẽ
công tác cán bộ với công tác xây dựng Đảng; kiện toàn đội ngũ đảng viên; kiện
toàn tổ chức chỉ huy với tổ chức lÃnh đạo. Những chủ trơng, chính sách về công
tác cán bộ đều do Bộ Chính trị, Ban Bí th Trung ơng Đảng quyết định hoặc phê
chuẩn phù hợp với nhiệm vụ và yêu cầu chiến đấu của quân đội. Quân ủy Trung ơng, Đảng ủy các Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng, S đoàn và cơ
sở đều lÃnh đạo công tác cán bộ theo phân cấp hết sức khoa học, chặt chẽ. Nhờ
đó đà bảo đảm thống nhất đoàn kết quá trình thực hiện chủ trơng chính sách cán
bộ của Đảng. Về đội ngũ cán bộ, chấp hành nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ơng Đảng và Bộ Chính trị, Tổng quân ủy đà ra nghị quyết về đờng lối cán
bộ trong Quân đội nhân dân: Lấy công nông làm cốt cán. Đờng lối đó hoàn
toàn phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, một nớc thuộc địa nửa phong
kiến. Đồng thời coi trọng trí thức tiểu t sản và các thành phần khác đà qua thử
thách, qua đấu tranh cách mạng, nên đà tăng cờng đợc bản chất cách mạng và
sức chiến đấu của quân đội ta, một quân đội cách mạng do Đảng Cộng sản của
giai cấp công nhân Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lÃnh đạo. Thực
tiễn cho thấy giai cấp công nhân, giai cấp nông dân là lực lợng chủ lực của cách

mạng dân tộc dân chủ và lực lợng công nông cũng chính là lực lợng nòng cốt


11
tiến hành cách mạng lâu dài, gian khổ chống đế quốc, chống phong kiến. Số cán
bộ đợc rèn luyện trởng thành qua kháng chiến Pháp đợc bồi dỡng rèn luyện ở các
nhà trờng, học viện trong những năm hòa bình, đà trở thành lực lợng nòng cốt
trong kháng chiến chống Mỹ. Vừa kết hợp rèn luyện vừa giáo dục bồi dỡng, trên
cơ sở đó làm tốt công tác đề bạt nên đà đáp ứng đợc yêu cầu về số lợng, bảo đảm
đủ cán bộ trong một cuộc chiến tranh quy mô dài ngày và rất gay go ác liệt. Gắn
liền công tác cán bộ với công tác xây dựng Đảng, công tác rèn luyện đội ngũ cán
bộ đảng viên nên đội ngũ cán bộ quân đội đợc xây dựng, quản lý chặt chẽ về
chính trị. Môi trờng rèn luyện cán bộ tốt nhất là thực tiễn chiến đấu và công tác,
nguồn bổ sung cán bộ chủ yếu là từ các chiến trờng vì vậy mà đội ngũ cán bộ có
chất lợng chiến đấu cao.
Về tiêu chuẩn cán bộ nói chung đà coi trọng cả đức và tài, ngoài ra
trong quân đội nói riêng còn coi trọng cả ý chí chiến đấu và coi trọng cả việc
bồi dỡng nâng cao năng lực để đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ.
Cơ quan chính trị các cấp trực tiếp giúp đỡ các cấp ủy đảng chủ động
hiệp đồng với các cơ quan có liên quan, tổ chức thực hiện các chủ trơng về
công tác cán bộ của Đảng ủy. Tiến hành nhiều hình thøc, biƯn ph¸p rÌn lun
c¸n bé; rÌn lun c¸n bé kết hợp với rèn luyện đảng viên, đến các hình thức
học tập tại trờng và thực hiện luân phiên cán bộ từ cơ quan, nhà trờng, hậu phơng ra chiến trờng chiến đấu.
Đờng lối, chính sách cán bộ của Đảng đà đợc chấp hành nghiêm chỉnh,
đội ngũ cán bộ quân đội ta thực sự là đội ngũ cán bộ có số lợng phù hợp, cơ
cấu hoàn chỉnh hợp lý và có chất lợng; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ
quốc và nhân dân; tuyệt đối phục tùng sự lÃnh đạo của Đảng, dày dạn trong
chiến đấu, vợt qua mọi thử thách, tích lũy đợc nhiều kinh nghiệm trong lÃnh
đạo, chỉ huy và chuyên môn kỹ thuật, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ trong
kháng chiến, thực sự là đội ngũ cán bộ tiêu biểu cho đờng lối chính trị, quân

sự của Đảng trong một giai đoạn lịch sử vô cùng hào hùng vẻ vang của dân
tộc ta. Đây là một thành công lớn của đờng lối, chủ trơng, chính sách của
Đảng, của sự nỗ lực tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành và của công tác


12
đảng, công tác chính trị nhằm góp phần hoàn thành sự nghiệp xây dựng, chiến
đấu và chiến thắng của quân đội ta trong giai đoạn chống Mỹ cứu nớc.
Mặc dù có những thành công to lớn song công tác cán bộ của quân đội
ta giai đoạn 1954 - 1975 vẫn còn những hạn chế: Việc chuẩn bị cán bộ cho
miền Nam thời gian đầu cha bám sát kịp yêu cầu thực tiễn, cha dự kiến đầy đủ
các loại cán bộ, mà các cấp, các ngành, các địa phơng yêu cầu cho nên thiếu
cán bộ quân sự địa phơng. Trong chiến tranh cha chú trọng đào tạo cán bộ tại
các học viện, nhà trờng, thậm chí có lúc để các nhà trờng xộc xệch, cho nên
khi cần đào tạo cán bộ theo hớng cơ bản, hệ thống thì gặp khó khăn. Cha chú
trọng vào đào tạo cán bộ khoa học, nghiên cứu lý luận, giáo viên và cán bộ
chuyên môn kỹ thuật có trình độ đầu ngành.
Trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ thì việc đề bạt quân hàm cha theo kịp,
nhất là đối với cán bộ cơ sở. Có tình trạng cục bộ địa phơng, thành kiến nhng
việc đấu tranh khắc phục cha triệt để. Việc nghiên cứu bổ sung chính sách cán
bộ có lúc còn chậm.
Từ một đội ngũ cán bộ chủ yếu là bộ binh trong kháng chiến chống
Pháp, quân đội ta đà xây dựng thành một đội ngũ cán bộ của một quân đội
chính quy, hiện đại đáp ứng yêu cầu xây dựng, chiến đấu và bảo đảm hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó là đánh bại kẻ thù xâm
lợc hiếu chiến, tên sen đầm quốc tế và các thế lực phản cách mạng trong nớc.
Đó là vì, ngay từ đầu, sau khi đánh thắng thực dân Pháp, chúng ta đà xây dựng
đội ngũ đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng trong từng
giai đoạn cách mạng, thời bình phải chuẩn bị cho thừi chiến, đảm bảo đánh
thắng kẻ thù đó là yêu cầu cao nhất là công tác tổ chức cán bộ.

Nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh đờng lối, phơng hớng giai cấp
công nhân, tiêu chuẩn chính sách cán bộ của Đảng, vận dụng đúng đắn, phù
hợp với từng giai đoạn cách mạng.
Nắm vững khâu trung tâm là đào tạo, bồi dỡng, không ngừng nâng cao
trình độ về mọi mặt của đội ngũ cán bộ và phải thờng xuyên củng cố các nhà
trờng quân sự.


13
Tăng cờng sự lÃnh đạo của Đảng ủy và trách nhiệm của thủ trởng các
cấp trong công tác cán bộ. Chấp hành nguyên tắc chặt chẽ, xây dựng nề nếp,
chế độ thống nhất.
Xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc của nhân dân ta thắng lợi là chiến
thắng của cả dân tộc với sức mạnh tổng hợp trong đó quân đội là lực lợng
nòng cốt trong cuộc đấu tranh đó. Dới sự lÃnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam quang vinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, quân đội ta từ một đội quân
với trang bị thô sơ, đội ngũ cán bộ hạn chế nhiều mặt, đà phát triển thành một
quân đội cách mạng, chính quy, đánh bại hai tên đế quốc đầu sỏ là thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ. Cùng với sự trởng thành phát triển của quân đội, đội ngũ
cán bộ quân đội cũng nhanh chóng trởng thành, trở thành lực lợng hùng hậu,
những ngời lÃnh đạo, chỉ huy, cán bộ chuyên môn kỹ thuật góp phần xây
dựng quân đội vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào nh lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu lúc đơng
thời.
2. ý nghĩa trong xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong
quân đội hiện nay
Đội ngũ cán bộ quân đội là nhân tố quyết định sức mạnh của quân đội, là
lực lợng nòng cốt để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ xà hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị của đất nớc.

Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới đòi hỏi phải
xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lợng tổng hợp, sức
mạnh chiến đấu của quân đội theo hớng Xây dựng Quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bớc hiện đại 5.
Bảo đảm cho quân đội luôn là lực lợng chính trị, lực lợng tin cậy trung
thành của Đảng, của nhân dân, bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn lÃnh thổ
quốc gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị, môi trờng hòa bình để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc.

. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 110.

5


14
Thực trạng đội ngũ cán bộ của quân đội ta hiện nay, tuy là thời bình song
nhiều đồng chí trởng thành trong chiến tranh, trong xây dựng quân đội cách
mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bớc hiện đại, luôn trung tnành tuyệt đối với
Đảng với nhân dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức cảnh giác, tinh
thần trách nhiệm cao, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong bất
luận tình huống nào. Trình độ, kiến thức và năng lực lÃnh đạo, chỉ huy, trình độ
chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ đợc nâng lên rõ rệt. Tuyệt đại bộ phận cán bộ
giữ vững đợc phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và lối sống
trong sạch lành mạnh. Đội ngũ cán bộ từng bớc tinh giảm và ổn định phát triển
thêm nhiều ngành nghề mới. Cán bộ cấp chiến dịch, chiến lợc vững vàng kiên
định trớc tình hình khó khăn phức tạp dày dạn trong chiến tranh. Cán bộ cơ sở
thích ứng nhanh hăng hái thực hiện chức trách, nhiệm vụ đợc giao. Cán bộ
chuyên môn kỹ thuật có khả năng khai thác bảo quản đợc trang bị kỹ thuật hiện
có. Cán bộ quân sự địa phơng từng bớc đợc củng cố trong thế trận quốc phòng
toàn dân. Đội ngũ sĩ quan dự bị đợc chuẩn bị một bớc cho nhu cầu động viên

thời kỳ đầu chiến tranh.
Song đội ngũ cán bộ quân đội còn một số mặt hạn chế: Số ít cán bộ có
hiện tợng cơ hội thực dụng, cục bộ địa phơng, gia trởng độc đoán, tính chiến
đấu trong đấu tranh tự phê bình và phê bình còn hạn chế. Cán bộ chỉ huy còn
hạn chế về năng lực quản lý vũ khí trang bị, tài sản và phong cách chính quy.
Cán bộ chính trị còn mỏng và hạn chế về kiến thức khoa học và nhân văn. Cán
bộ quân sự địa phơng còn yếu về chỉ huy, tham mu và quản lý quốc phòng.
Cán bộ kỹ thuật còn phân tán, thiếu cán bộ đầu ngành. Cán bộ phÝa Nam, d©n
téc Ýt ngêi vïng s©u, vïng xa tû lệ tại chỗ và trình độ học vấn còn hạn chế.
Nguồn bổ sung cho đội ngũ sĩ quan dự bị còn gặp khó khăn.
Hiện nay với nhiều chủ trơng, biện pháp tích cực và đồng bộ công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ đà đáp ứng yêu cầu điều chỉnh thế bố trí chiến lợc
bảo vệ Tổ quốc của quân đội. Tinh giảm số lợng nhng vẫn ổn định đợc đội ngũ
cán bộ, giữ đợc đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm qua chiến đấu và nâng cao
chất lợng toàn diện đội ngũ cán bộ. Từng bớc tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ
quy hoạch cán bộ với nguồn cán bộ chủ trì với kiện toàn cấp ủy, tạo nên sù


15
chuyển biến liên tục, tơng đối vững chắc giữa các thế hệ cán bộ. Đào tạo về
nâng cao trình độ kiến thức toàn diện cho đội ngũ cán bộ. Giải quyết đợc khá
nhiều tồn đọng của chiến tranh. Từng bớc hoàn thiện một bớc các quy trình
quy chế đánh giá, tuyển chọn, đề bạt, bổ nhiệm, điều động cán bộ, luôn bảo
đảm sự lÃnh đạo trực tiếp tập trung, thông nhất mọi mặt của các cấp ủy đảng
và phát huy trách nhiệm của ngời chỉ huy và các cơ quan, các ngành đối với
công tác cán bộ.
Những tồn tại của công tác cán bộ: Cơ cấu, diện bố trí, cấp bậc quân
hàm, mục tiêu yêu cầu, nội dung chơng trình đào tạo cha thống nhất, thực hiện
chính sách cha đồng bộ
Quán triệt Nghị quyết Trung ơng 3 khoá VIII về chiến lợc cán bộ thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc: Cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nớc và chế độ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng 6 và Nghị quyết
94 của Đảng ủy quân sự Trung ơng về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội trong
thời kỳ mới: Cán bộ là nhân tố quyết định sức mạnh của quân đội 7. Trong
giai đoạn cách mạng mới cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác
cán bộ theo những nội dung sau:
Trớc hết phải xây dựng bản lĩnh chính trị của ngời cán bộ quân đội, làm
cho đội ngũ cán bộ đảng viên luôn luôn giác ngộ cao, có ý chí cách mạng kiên
cờng, kiên định với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Chấp hành triệt để
nguyên tắc tập trung dân chủ. Bản lĩnh đó đợc cụ thể hóa thành những nội
dung bám sát thực tế của đơn vị, của cơ quan mình, bảo đảm cho Quân đội
nhân dân Việt Nam mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ luôn luôn là lực lợng tuyệt
đối trung thành, tin cậy của Đảng, của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lÃnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nớc, nhân
dân và chế độ xà hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an
ninh t tởng văn hóa và an ninh xà hội 8.
Kiên định mục tiêu con đờng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xÃ
hội mà Đảng ta, nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đà lựa chọn. Nắm vững
. Văn kiện Hội nghị Trung ơng 3 khóa VIII, tr. 66.
. Văn kiện Nghị quyết 94 của Đảng ủy quân sự Trung ơng.
8. Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 109.
6
7


16
và thực hiện thắng lợi đờng lối đổi mới, mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an
ninh của Đảng; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hớng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bớc hiện đại.
Có ý thức chiến đấu cao, gơng mẫu về mọi mặt, có quan hệ mật thiết

với quần chúng, là hạt nhân đoàn kết trong nội bộ và trong quần chúng nhân
dân. Luôn giữ vững và tăng cờng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân,
tính dân tộc. Quán triệt sâu sắc quan điểm, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu, không ngừng chăm lo, rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng, có năng lực công tác, năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt.
Về công tác cán bộ: Căn cứ vào chiến lợc cán bộ, những nội dung của Nghị
quyết xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới, cần tập trung chỉ đạo và tổ
chức thực hiện có hiệu quả chủ trơng đổi mới diện bố trí cán bộ. Các đơn vị cần
triển khai nghiên cứu sửa đổi, bổ sung những vấn đề có liên quan đến diện bố trí
mới. Xây dựng chơng trình kế hoạch, nội dung đào tạo cán bộ, phân cấp quản lý
chặt chẽ cán bộ. Tổ chức thực hiện đồng bộ, từng bớc điều chỉnh diện bố trí cán
bộ, chủ động giải quyết những bất hợp lý trong từng cấp, từng ngành, bảo đảm
ổn định và cải thiện cơ cấu cán bộ. Hoàn thiện các quy trình đào tạo, sử dụng
luân chuyển cán bộ có nề nếp. Lựa chọn những cán bộ có phẩm chất và năng lực
tốt vào những nhiệm vụ, địa bàn trọng yếu, trọng điểm để tạo nguồn cán bộ chủ
trì phát triển lâu dài. Bồi dỡng, chuẩn bị cán bộ cho các thời kỳ. Xây dựng kế
hoạch cán bộ chủ trì các cấp có chất lợng tèt. Tỉ chøc båi dìng qu¶n lý tèt mét
sè ngn tài năng quân sự. Quy hoạch hệ thống đào tạo, nâng cao tỷ lệ khối lợng
kiến thức lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, khoa học xà hội
nhân văn, công tác đảng, công tác chính trị trong chơng trình đào tạo, bồi dỡng
cán bộ. Có cơ chế chính sách để thu hút lợng sinh viên tốt nghiệp đại học từ các
trờng dân sự vào phục vụ trong quân đội. Thực hiện tốt công tác tạo nguồn và
quản lý sĩ quan dự bị.
Tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả các phơng
thức xây dựng ®éi ngị sÜ quan dù bÞ.


17
Có chính sách phù hợp với đội ngũ cán bộ đang tại ngũ, đặc biệt ở
những địa bàn khó khăn phức tạp, vùng sâu, vùng xa, chính sách với những

cán bộ quân đội khi chuyển ra ngoài hay nghỉ chế độ.
Công tác cán bộ của Quân đội nhân dân Việt Nam trong kh¸ng chiÕn
chèng Mü cøu níc (1954 - 1975) là một sự thành công, bớc phát triển quan
trọng trong hoạt động công tác đảng, công tác chính trị. Mặc dù còn một số
hạn chế nhất định song đà có cố gắng rất lớn đáp ứng tốt nhiệm vụ chiến đấu,
xây dựng và yêu cầu phát triển của cách mạng, của cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc.
Đội ngũ cán bộ quân đội đợc mở rộng cơ cấu hoàn chỉnh, chất lợng ngày
càng đợc nâng lên rõ rệt. Cán bộ quân đội ta đợc thử thách trong chiến tranh đÃ
thể hiện rõ lòng trung thành tuyệt đối với Đảng với nhân dân, kiên quyết thực
hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ đợc giao. Dũng cảm trong chiến đấu, tận tụy trong
công tác, tích lũy đợc nhiều kinh nghiệm về công tác lÃnh đạo, chỉ huy và
chuyên môn nghiệp vụ. Công tác cán bộ đà chấp hành nghiêm đờng lối, phơng
hớng giai cấp, tiêu chuẩn, chính sách cán bộ của Đảng, góp phần xây dựng đội
ngũ cán bộ tiêu biểu cho đờng lối chính trị, quân sự của Đảng, bảo đảm cho quân
đội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ
cứu nớc. Ngày nay, trớc yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới,
công tác cán bộ là một khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam theo hớng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bớc hiện đại. Cấp ủy đảng, cán bộ lÃnh đạo, chỉ huy các cấp, các ngành cần ra
sức quán triệt, có nghị quyết lÃnh đạo và chơng trình hành động thuộc phạm vi
chức năng của mình, thực hiện có hiệu quả các quan điểm, mục tiêu yêu cầu, chủ
trơng giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ hiÖn nay.



×