Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH tư DUY ĐƯỜNG lối đổi mới của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM từ năm 1979 đến năm 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.9 KB, 15 trang )

Quá trình hình thành tư duy đường lối đổi mới của
Đảng cộng sản Việt Nam “1979 -1986”
Đảng cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng Tháng tám thành công, lập
nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ( nay là nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ
thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới. Hiện nay, công cuộc đổi mới toàn
diện của đất nước đang phát triển hết sức tốt đẹp, chúng ta đã và đang thu
được những thắng lợi to lớn trên nhiều lĩnh vực. Kinh té ngày càng phát
triển, chính trị ngày càng ổn định. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được nâng cao. Cội nguồn của thắng lợi đó do nhiều nguyên nhân
khác nhau, nhưng nguyên nhân quan trọng hàng đầu là Đảng ta đã xác định
được đường lối đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng với đòi hỏi thực tế khách quan
đặt ra và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước đi đúng hướng. Đường lối đổi
mới của Đảng cộng sản Việt Nam không phải hình thành ngay một lúc mà
nó trải qua quá trình hình thành lâu dài và ngày càng hoàn chỉnh hơn.
Từ cuối năm 1970 của thế kỷ XX, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh
tế - xã hội kéo dài trong nhiều năm. Trong khi đó cuộc cách mạng khoa học
cồng nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ làm cho các nước phụ thuộc vào
nhau, các nước nghèo dễ mất độc lập tự chủ, chủ nghĩa tư bản điều chỉnh
thích nghi với điều kiện mới. Các nước xã hội chủ nghĩa đang đứng trước
khó khăn về kinh tế, chính trị mất ổn định, đã chủ trương cải cách, cải tổ.
Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ đang điên cuồng chống phá chủ
nghĩa xã hội và phong trào cách mạng trên thế giới, trong đó Việt Nam được
coi là một trọng điểm, và chúng triển khai quyết liệt. Trước những đòi hỏi


bức súc của đời sống kinh tế xã hội, với xu thế phát triển của thời đại, lại ảnh
hưởng của các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là xu thế muốn
vượt ra khỏi khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới thông


qua quá trình biến đổi có tính cách mạng của công cuộc cải tổ, cải cách mở
cửa đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới, nhất là tư duy của của Đảng ta.
Tư duy đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam bắt đầu từ hội nghị
Trung ương lần thứ 6 khoá IV (tháng 8/1979), Hội nghị chuyên bàn về
những vấn đề kinh tế cấp bách và sản xuất hàng tiêu dùng. hội nghị này đã
mở đầu cho quá trình đổi mới, là bước đột phá hình thành nên đường lối đổi
mới. Nghị quyết nêu nên ba vấn đề rất quan trọng đó là:
Thứ nhất: Sử dụng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế tập
thể để phát triển sản xuất.
Thứ hai: Nghị quyết nêu nên đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Thứ ba: Dưới chủ nghĩa xã hội phải quan tâm tới lợi ích, trước hết là
lợi ích kinh tế ( lợi ích người lao động).
Mục đích làm cho sản xuất bung ra, nghị quyết này mang tính chất đột phá,
nó hé mở đưới chủ nghĩa xã hội phải chấp nhận kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, chấp nhận hạch toán kinh doanh, quan tâm tới lợi ích người lao
động.
Thực hiện chủ trương này nhiều địa phương, nhiều ngành đã mạnh dạn tiến
hành những cuộc thử nghiệm, tìm tòi cách làm ăn mới nhằm khai thác tối đa
mọi tiềm năng kinh tế, phát triển sản xuất, cải tiến lưu thông, phân phối,
từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Nghị quyết
Trưng ương lần thứ 6 (8/ 1979) như luồng sinh mới thổi vào cuộc sống xã
hội Việt Nam bắt đầu có những chuyển biến tích cực.
Sau nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khoá IV, chỉ thị 100 CT/TƯ
của Ban bí Thư Trung ương (1981) về khoán sản phẩm đến nhóm và người
lao động trong hợp tác xã ra đời. Đây là sự đổi mới hết sức quan trọng về tư
duy trong việc cải cách một phần mô hình hợp tác xã nông nghiệp Việt Nam.


Nhưng để chỉ thị 100, đó là cả cuộc quá trình thử nghiệm, tìm tòi của Đảng:
Từ trong khó khăn của cuộc sống nông dân ở một số địa phương đã tự tìm

lối thoát, thảo gỡ khó khăn. Từ đầu năm 1979 một số nơi đã xuất hiện hình
thức khoán hộ, cho xã viên mượn đất, khuyến khích xã viên khai hoang phục
hoá, có hợp tác xã tiến hành cho “ khoán chui”, cũng có địa phương, cấp uỷ
chủ động ra nghị quyết chỉ đạo thực hiện khoán. Thực tiễn cho chúng ta thấy
rằng ở những nơi khoán chui đưa lại hiệu quả tốt, năng xuất tăng lên đáng
kể, nông phấn khởi hăng hái lao động sản xuất. Trước tình hình trên, ngày
22 tháng 10 năm1980 Ban Bí thư Trung ương đã ra thông báo số 22 khảng
định ưu điểm của hình thức khoán và cho phép các địa phương khoán sản
phẩm đối với cây lúa. Điều đó chứng tỏ, Đảng ta nhận thức rõ vai trò của
khoán trong nông nghiệp. Chính điều này Đảng ta đang tìm kíêm để đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng, nhưng Đảng ta rất thận trọng, vừa làm vừa rút
kinh nghiệm để tìm ra lối thoát, thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Đến tháng
12/1980, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9 khoá IV, bước đầu
đánh giá kết quả của khoán thí điểm đối với cây lúa, thấy rõ khả năng phát
triển của nông nghiệp nông thôn, chỉ ra nhiệm vụ phát triển nông nghiệp
trong thời gian tới đó là: Tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu là phát triển nông
nghiệp. Đặc biệt là thực hiện tốt biện pháp cơ bản có tính chất quyết định là
đổi mới chế độ và chính sách quản lý kinh tế theo phương hướng phát huy
đầy đủ quyền tự chủ của các cơ sở và mở rộng việc thực hiện các hình thức
khoán sản phẩm đến hợp tác xã. Ngày 31/10/1981 Ban Bí thư ra chỉ thị 100
thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã
nông nghiệp. Thực hiện chỉ thị 100 trong nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng
của nông nghiệp thời kỳ năm 1981 đến năm 1985 tăng lên rõ rệt so với thời
kỳ 1976 -1980. Nhờ vậy đời sống nông dân được cải thiện một bước. Tuy


nhiên, quá trình thực hiện chủ trương đó cũng bộc lộ một số hạn chế đòi hỏi
Đảng ta tiếp tục tìm tòi đổi mới hơn nữa trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trong lĩnh vực công nghiệp, ngày21/11/1981, Hội đồng chính phủ ra
quyết định số 25- CP về một số chủ trương và biện pháp phát huy quyền chủ

động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp
quốc doanh. Đây là tư duy đổi mới có ý nghĩa rất quan trọng, Quyết định
nêu rõ: Cần lấy kế hoạch làm chính, đồng thời sử dụng đúng đắn quan hệ
hàng hoá, thị trường, kinh doanh có lãi. Quyết định còn cho phép các xí
nghiệp quốc doanh có nhiều nguồng cân đối và kế hoặch ba phần ( Phần
giao cho nhà nước, phần tự làm đảm bảo đời sống, và phần sản phẩm phụ).
Có thể nói, trong điều kiện vật tư thiếu thốn, quyết định 25/ CP đã giúp các
cơ sở khôi phục được khả năng sản xuất, giải quyết thêm công ăn việc làm
cho công nhân viên chức làm cho hoạt động xí nghiệp trở lại bình thường.
Trên lĩnh vực lưu thông, phân phối, Ngày 23/6/1980, Bộ chính trị ra
nghị quyết 26 NQ- TW về cải tiến công tác phân phối lưu thông nhằm
khuyến khích phát triển lưu thông tiền tệ phù hợp và phân phối hợp lý, tạo
những tiền đề cần thiết từng bước xoá bỏ chế độ cung cấp tem phiếu.
Nhìn một cách toàn diện, thời kỳ (1979 -1981) là thời kỳ Đảng ta có
nhiều cố gắng trong tìm tòi đổi mới từng lĩnh vực riêng lẻ, chủ yếu trên lĩnh
vực kinh tế, điều đó nói lên yêu cầu đổi mới ở nước ta xuất phát từ vấn đề
kinh tế, những chủ trương biện pháp đổi mới thời kỳ này là những giải pháp
mang tính tình thế, nhằm tháo gỡ những khó khăn trước mắt. Quá trình thực
hiện bước đầu đạt một số thành tựu quan trọng, nhưng dần dần đã bộc lộ rõ
sự hạn chế của những chủ trương đổi mới đó, làm cho sản xuất chững lại.
Điều đó chứng tỏ những tìm tòi đổi mới của Đảng trong thời kỳ này chưa
giải đáp được những yêu cầu mà thực tiễn đặt ra, chưa giải quyết được
những vấn đề khó khăn trong đời sống kinh té xã hội. Quá trình đổi mới
từng phần không gắn bó các lĩnh vực khác với nhau, chưa làm chuyển biến


mọi mặt của đất nước. Thực tiễn trên cho thấy, muốn đổi mới có hiệu quả và
đạt được vững chắc phải đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải
có hình thức, bước đi, cách làm phù hợp. Mặc dù còn bộc lộ những hạn chế
nhất định, nhưng những quan điểm của thời kỳ tiền đổi mới (1979 -1981), có

ý nghĩa rất quan trọng, nó đã giải quyết đựơc những vấn đề nóng bỏng, cấp
bách có tính chất tình thế vượt qua những khó khăn thử thách trước mắt và
mở ra một hướng đi đúng đắn trong tư duy đổi mới của Đảng ta sau này.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng ta (3/1982) đã đánh giá
một cách đúng đắn những thành tựu có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời chỉ ra những tồn tại yếu kém mà chúng ta cần
phải khắc phục. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, đất nước ta đang đứng trước
nhiều vấn đề gay gắt, cần phải tháo gỡ, (sản xuất phát triển chậm, trong khi
dân số tăng nhanh, thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được nhu cầu tiêu dùng
trong xã hội, vải mặc và hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu, chênh lệch giữa
thu và chi, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn). Đại hội đã đề ra những nội
dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là: “Tập trung sức phát
triển mạnh vào nông nghiệp, coi công nghịêp là mặt trận hàng đầu, đưa nông
nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng
tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng,
kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong
một cơ cấu công nông nghiệp hợp lý”[1;62,63].
Tại Đại hội Đảng ta cũng xác định nền kinh tế nước ta hiện nay còn
tồn tại nhiều thành phần kinh tế: trong một thời gian nhất định, ở miền Bắc
có ba thành phần kinh tế ( Quốc doanh, tập thể, và cá thể, công tư hợp
doanh, cá thể và tư bản tư nhân). Như vậy trong nhận thức của Đảng về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một
thực tế khách quan, nhưng trong chỉ đạo, tổ chức thực tiễn Đảng ta đã mắc


phải tư tưởng chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Do vậy sau Đại hội V
vẫn chủ trương muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế chủ yếu là quốc
doanh và tập thể. Mặt khác nghị quyết đại hội V là bước phát triển mới tư
duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội V
khảng định thời kỳ quá độ là lâu dài, trong đó có biện pháp, mục tiêu cho

từng giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, Đại hội có nêu mục tiêu của chặng
đường đầu tiên. Tóm lại tư duy mới của Đảng hé mở trong Đại hội V là:
- Xác định lại thời kỳ quá độ.
- Nhận thưc được ưu tiên phát triển nền kinh tế nước ta.
- Xác định trong thời kỳ quá độ cách mạng nước ta có hai nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Sau Đại hội V của Đảng, Đảng ta có 11 Hội nghi Trung ương,
nhưng phần lớn các hội nghị đều tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế xã
hội. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (12/1982) bàn về phương hướng phát
triển kinh tế ( từ năm 1983- 1985) về phân phối lưu thông, về cấp huyện.
Hội nghị Trung ương 5 (12/1983) bàn về phương hướng nhiệm vụ năm 1984
và chủ trương chấn chỉnh mặt trận phân phối lưu thông. Hội nghị Trung
ương 6 (7/1984) bàn về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế... Hội nghị Trung
ương 6 đã quyết định những vấn đề quan trọng, Hội nghị khảng định phải có
một cơ cấu kinh tế hợp lý, cơ chế quản lý thích hợp, sẽ thúc đẩy phát triển
sản xuất, ổn định tình hình kinh tế xã hội, giao quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh cho các đơn vị cơ sở, chấn chỉnh một bước tổ chức quản lý kinh tế.
Thực hiện nghị quyết Trung ương 3,4,5 nhất là Nghị quyết Trung
ương 6 đã tạo được nhiều chuyển biến quan trọng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều
khó khăn cả trong sản xuất, phân phối, lưu thông, làm cho đời sống kinh tế xã hội đứng trước những khó khăn nghiêm trọng ( Giá cả leo thang, lạm phát
có xu hướng gia tăng). Đứng trước tình hình trên đòi hỏi Đảng phải tiếp tục


tìm tòi đổi mới đề ra những chủ trương, chính sách mang tính đồng bộ, triệt
để hơn đưa cách mạng vượt qua những khó khăn trước mắt.
Hội nghị Trung ương tám (6/ 1985), bàn về giấ, lương, tiền, đã khảng
định: Dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng
chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nội dung
chính của hội nghị là: Giải quyết vấn đề giá, lương, tiền, trên cơ sở phải thực
hiện được cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật, xoá bỏ những

khoản bù lỗ bất hợp lý. Thực hiện xoá bỏ triệt để cơ chế cũ, nhanh chóng
chuyển sang cơ chế mới. Đây được coi là bước đột phá nhằm thúc đẩy sản
xuất phát triển. Đó chính là cách tiếp cận với cơ chế kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa, dứt bỏ cơ chế quản lý kinh tế cũ đã tồn tại trong nhiều năm ở
nước ta. Sự thật là những tư tưởng của Hội nghị Trung ương tám khi tổ chức
thực hiện lại không được quán triệt một cách sâu sắc, khi thực hiện lại thiếu
đầy đủ so với chủ trương, do vậy kết quả không thành công như mong
muốn, dẫn đến đời sống, kinh tế - xã hội đã khó khăn lại càng khó khăn hơn,
sản xuất, phân phối, lưu thông bị rối loạn. Việc thực hiện cơ chế một giá do
nhà nước quy định, trong khi lương trả cho công nhân viên chức tăng 10 lần,
làm cho giá cả thị trường tăng đột biến. Đứng trước tình hình bức súc của
thực tiễn, nhu cầu đổi mới toàn diện đồng bộ là hết sức cần thiết.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) Đảng ta quyết định
đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tại
Đại hội đã xác định những quan điểm chỉ đạo sự nghiệp đổi mới:
Một là: Đổi mới là một đòi hỏi của đất nươc, là xu thế của thời đại,
đổi mới là tất yếu khách quan, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng nước
ta. Công cuộc đổi mới do những nhân tố bên trong và bên ngoài đòi hỏi,
trong đó nhân tố bên trong giữ vai trò quyết định, nhân tố bên ngoài là quan
trọng, nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới ở nước ta phát triển nhanh hơn, chỉ
có đổi mới chúng ta mới phát triển được.


Hai là: Đổi mới không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu đã dành
được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã xác định, trái lại, chính là sự bổ
sung phát triển, làm phong phú những thành tựu ta đã đạt được và áp dụng
một cách sáng tạo vào thực tiễn, đưa nghị quyết vào cuộc sống. Đổi mới bao
hàm cả sự nhận thức lại, có kế thừa, phát triển những thành tựu, kinh nghiệm
của quá khứ. Đây vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài mạng

tính chất chiến lược trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
Ba là: Đổi mới phải toàn diện đồng bộ và triệt để nhưng phải có hình
thức và bước đi cách làm thích hợp, biết lựa chọn có trọng tâm trọng điểm.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Đảng ta chủ
trương lấy đổi mới kinh té là trọng tâm, lấy ổn định chính trị xã hội làm tiền
đề. Đồng thời với đổi mới kinnh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt hơn
quyền làm chủ năng động sáng tạo của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Hai quá trình ( đổi mới kinh tế và chính trị
có quan hệ mật thiết với nhau, làm điều kiện tiền đề cho nhau phát triển.
Trên cơ sở phân tích đặc điểm tình hình thế giới, trong nước và
nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên. Đại hội VI của Đảng xác định:
“ Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế – xã hội, tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo”[2; 42]. Đại hội VI xác định như vậy,
phản ánh đúng thực trạng của đất nước, một trong những nhiệm vụ đặt ra
cho toàn Đảng, toàn dân là phải bảo đảm ổn định tình hình kinh tế - xã hội,
bao gồm ổn định cả sản xuất, ổn định phân phối lưu thông, ổn định đời sống
vật chất và tinh thần, thực hiện công bằng xã hội. Với nhiệm vụ bao trùm,


mục tiêu tổng quát đã thể hiện được mối quan hệ giữa ổn định và phát triển
gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình vận động biến đổi tiến lên.Ổn định
để phát triển và phát triển mới ổn định được. Trên cơ sở ổn định, đẩy mạnh
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá xã hội. Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát, Đại hội xác định
những mục tiêu cụ thể về kinh tế xã hội trong những năm còn lại của chặng

đường đầu tiên là: “ Sản xuất đủ hàng tiêu dùng và có tích luỹ; tạo ra một cơ
cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất; xây dựng và hoàn thiện một
bước quan hệ sản xuất mới; tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội; bảo đảm
nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh” [2; 215]. Các mục tiêu trên có liên
quan chặt chẽ, tác động chi phối lẫn nhau, thực hiện thắng lợi những mục
tiêu đó là cái mốc đánh dấu kết thúc chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ tổng quát,nhiệm vụ những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên, Đại hội xác định những nhiệm vụ cụ
thể:
Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình kinh tế về lương thực
– thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, nhằm đảm bảo nhu cầu lương
thực của toàn xã hội và có dự trữ. Đáp ứng nhu cầu của nhân dân về hàng
tiêu dùng thiết yếu. Đồng thời tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực,
tăng nhanh kim nghạch xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu máy móc, vật
tư và những hàng hoá thiết yếu.
Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên
với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Tăng cường kinh tế xã hội chủ nghĩa trên ba mặt chế độ


sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối, làm cho kinh tế quốc doanh phát
huy được vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể giữ vai trò nền tảng
trong nền kinh tế quốc dân, chi phối và phát huy khả năng của các thành
phần kinh tế khác.
Đổi mới cơ chế quản lý nhằm tạo ra động lực thúc đẩy các đơn vị kinh
tế và quần chúng lao động hăng hái phát triển sản xuất, nâng cao năng xuất
chất lượng và hiệu quả kinh tế. Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương

thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Giải quyết tốt những vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông nhằm
giải phóng năng lực sản xuất. Tập trung sức bảo đảm vật tưu, cải tiến các
chính sách, mở rộng giao lưu hàng hoá, bãi bỏ các biện pháp cấm đoán chia
cắt thị trường, tích cực giảm bội chi ngân sách, quản lý chặt chẽ lưu thông
tiền tệ.
Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả các
chính sách xã hội, nhằm phát huy mọi khả năng của con người và lấy việc
phục vụ con người làm mục đích. Bảo đảm việc làm cho người lao động,
thực hiện công bằng xã hội, mở rộng nâng cao chất lượng giáo dục và chất
lượng hoạt động văn hoá, văn học nghệ thuật, mở rộng nâng cao chất lượng
công tác y tế, thể dục thể thao nâng cao sức khoẻ của nhân dân.
Tăng cường hoạt động trên các lĩnh vực đối ngoại, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại vì sự nghiệp dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, nâng cao hiệu lực
quản lý điều hành của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, củng cố phát huy vai trò
của mặt trận và các đoàn thể quần chúng.


Xây dựng Đảng ngang tầm với Đảng cầm quyền có trọng trách lãnh
đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Nâng cao hơn nữa hiệu lực chỉ đạo và điều hành của bộ máy Đảng,
Nhà nước, thực hiện thắng lợi cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức
chiến đấu của các tổ chức Đảng, làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý
của bộ máy Nhà nước. Đẩy lùi và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành

mạnh các quan hệ xã hội và thực hiện công bằng xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã
giải đáp được những vấn đề mà lịch sử đặt ra. Bên cạnh đó Đại hội vẫn còn
có hạn chế như:
Chủ yếu bàn về kinh tế, đổi mới về chính trị còn mờ nhạt. Đổi mới
kinh tế xong vẫn có giới hạn như cho phát triển kinh tế tư bản song chỉ
khống chế một số ngành, một số lĩnh vực. Thừa nhận kinh tế thị trường
nhưng chia thị trường thành thị trường có tổ chức và thị trường không có tổ
chức, xong phấn đấu triệt tiêu thị trường không có tổ chức.
Có thể nói, Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh
dấu một bước ngoặc trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
và quá trình phát triển đường lối đổi mới của Đảng, sự chuỷển biến rất quan
trọng nhận thức về tư duy đổi mới, nhất là tưu duy kinh tế. Đường lối đó
hoàn toàn phù hợp với quy luật, với thời đại và thực tiễn Việt Nam với tinh
thần: Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đại hội
đã phân tích một cách sâu sắc thành tựu và yếu kém, nói rõ nhưng sai lầm
khuyết điểm trong hoạt động của Đảng và Nhà nước, từ đó đề ra chủ trương
đổi mới toàn diện đát nước, đưa đất nước thoát ra cuộc khủng hoảng kinh tế
xã hội. Với một quá trình tìm tòi và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng,
thời kỳ 1979 - 1986. Đảng ta đã rút ra một số kinh nghiệm:


Một là: Muốn tìm ra con đường đúng đắn để đưa đất nước phát triển
tiến lên, điều kiện trước tiên phải là nhìn vào sự thật, đánh giá đúng đắn thực
trạng đất nước. Chúng ta phải luôn tổng kết thực tiễn, tìm ra nguyên nhân và
xác định con đường thích hợp.
Thực tế cho thấy, quá trình hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta
xuất phát từ những vấn đề của thực tiễn đòi hỏi. Tổng kết phong trào
“Khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp “xé rào” trong các doanh
nghiệp, để hình thành chính sách khóan trong hợp tác xã, đổi mới cơ chế

trong quản lý các doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp, khoán 100 năm
1981. Chỉ thị 25 – CP (1981) ra đời là kết quả của quá trình bám sát và tổng
kết thực tiễn của Đảng. Tổng kết đổi mới từng phần, từng lĩnh vực thời kỳ
1979 - 1981, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại, Đảng đều bám sát thực tiễn giải quyết đúng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Đó là nguyên nhân thắng lợi của công cuộc đổi mới của nước ta, điều đó
hoàn toàn phản bác những luận điệu xuyên tạc cho rằng : Đổi mới ở Việt
Nam là sự sao chép từ bên ngoài và chịu sức ép từ bên ngoài, từ đó mà phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận công cuộc đổi mới ở nước ta.
Hai là: Trong quá trình đổi mới, phải quan tâm giải quyết đúng đắn
các mối quan hệ đó là: Mối quan hệ giữa ý Đảng với lòng dân, giữa kinh tế
với chính tri, giữa lý luận chủ nghĩa xã hội với đời sống hiện thực.
Sự nghiệp đổi mới phải được tiến hành một cách toàn diện, đồng bộ
và triệt để, nhưng phải có bước đi, cách làm thích hợp, ở giai đoạn đầu phải
tập trung sức đổi mới kinh tế, đồng thời với đổi mới kinh tế, từng bước đổi
mới chính trị. Đó là ngghệ thuật xác định hình thức, bước đi, khâu then chốt
trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Việc lựa chọn những hình thức, bước đi
cũng là sự sáng tạo cả Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mơi.
Tóm lại: Quá trình hình thành tư duy đổi mới của Đảng (1979 -1986)
là kết quả của 8 năm Đảng và nhân dân ta trăn trở, suy tư, thử nghiệm đổi


mới để tháo gỡ những khó khăn của đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế
– xã hội. Từ năm 1979 đến trước Đại hội VI (1986) là thời kỳ đổi mới từng
phần trên từng lĩnh vực riêng lẻ, chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế bước đầu đã
đạt được một số thành tựu nhất định, nhưng không vững chắc, điều đó chứng
tỏ đổi mới từng phần chưa đủ sức giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt
ra, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tìm tòi đổi mới toàn diện, đồng bộ triệt để đưa
cách mạng đi lên một cách vững chắc.
Đại hội VI của Đảng (12/ 1986) đã quyết định đổi mới toàn diện, đồng

bộ và triệt để trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành cuộc vận động
cách mạng sâu sắc trong toàng Đảng, toàn dân. Đường lối đổi mới của Đại
hội VI thể hiện rõ ý Đảng, lòng dân và nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là hoàn toàn
đúng đắn, xác định những hình thức, bước đi, cách làm phù hợp, có tác dụng
tích cực nhằm làm chuyển biến tình hình khinh tế – xã hội. Sự nghiệp đổi
mới ở nước ta, từ sau đại hội VI đến nay ngày càng phát triển vào chiều sâu,
chúng ta giành nhiều thành tựu trong giai đoạn cách mạng hiện nay, toàn
Đảng. toàn dân ta quyết kiên trì và đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, tranh thủ
thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua những khó khăn thử thách mới. Quá trình
đổi mới còn này sinh nhiều vấn đề mới phức tạp, nhưng với kinh nghiệm và
bản lĩnh vững vàng, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong lãnh
đạo tiến hành đổi mới thời kỳ (1979 – 1986) luôn có vị trí đặc biệt quan
trọng trong toàn bộ tiến trình đổi mới của cách mạng Việt Nam. Thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là một kỳ tích của những người cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt
Nam trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Đông Âu, tan rã ở Liên Xô
và tạm thời đi vào thoái trào.Thành tựu đó thể hiện rõ bản lĩnh chính trị và
trí tuệ Việt Nam trong kế thừa kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội và


khảo nghiệm sáng kiến của nhân dân. Chính các thành tựu đổi mới trong
kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học... đã làm cho chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam không những vượt qua khủng hoảng mà còn tạo ra thế mới, lực mới để
tiếp tục phát triển. Đảng ta đã tìm tòi, khảo nghiệm để đề ra và lãnh đạo thực
hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù
hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới. Chúng ta không những
hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, mà còn hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế. Có được thành tựu của công cuộc đổi mới,
kinh tế phát triển, chính trị ổn định, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế

ngày càng được nâng cao. Một lần nữa chúng ta phải khảng định thời kỳ
(1979 – 1986) là thời kỳ Đảng lãnh đạo đổi mới từng phần và cũng chính là
nền móng vững chắc của công cuộc đổi mới hiện nay. Đây chính là cơ sở để
chúng ta đấu tranh chống các quan điểm sai trái cho rằng ta đổi mới là rập
khuôn của các nước trên thế giới, hoặc đổi mới của chúng ta chỉ là ăn may.
Thực chất các quan điểm đó chỉ là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, bởi lẽ chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch chúng luôn luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng Việt
Nam, tiêu điểm đầu tiên là chúng chống phá là Đảng cộng sản Việt Nam.
Với trách nhiệm của chúng ta phải bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ thành quả của công cuộc đổi mới, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
nhân dân, phấn đấu theo mục tiêu mà toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang
thực hiện: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn mimh.

Danh mục tìa liệu tham khảo
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, H 1982.


2. Đảng cộng sản Việt Nam( 1987), Vănkiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.



×