Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC và đổi mới tư DUY CỦA ĐẢNG TA TRONG LÃNH đạo THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH tôn GIÁO TRONG LỊCH sử và HIỆN THỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.46 KB, 19 trang )

QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ ĐỔI MỚI TƯ DUY CỦA ĐẢNG TA TRONG
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRONG LỊCH SỬ VÀ
HIỆN THỰC
Tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện tượng xã hội tồn tại trong đời sống xã hội.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình từ cổ xưa cho đến ngày nay, tín ngưỡng
tôn giáo luôn có sự tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của xã hội, theo cả
hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Chính vì thế, trong lịch sử phát triển của loài
người, tín ngưỡng tôn giáo sớm được nhiều nhà tư tưởng quan tâm nghiên cứu. Đối
với Việt Nam không có chiến tranh tôn giáo diễn ra, mà chỉ diễn ra trong quá trình
đồng nguyên, đồng quy các tôn giáo trên cơ sở của tính ngưỡng tôn giáo bản địa; ở
đây đấu tranh về mặt giáo lý thần học cũng không nổi trội, mà vấn đề nổi lên là mối
quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc, giữa cộng đồng tôn giáo với toàn thể dân tộc đứng
trước nguy cơ mất còn của dân tộc ta. Đến khi Công giáo vào Việt Nam, gắn với quá
trình xâm lược của thực dân Pháp, thì vấn đề tôn giáo mới nảy sinh xung đột giữa hai
nếp sống tâm linh-văn hóa hoàn toàn khác biệt, và nhất là sự đụng đầu giữa quốc gia,
dân tộc đang có nguy cơ bị mất chủ quyền với một tổ chức tôn giáo đang cấu kết với
bọn thực dân xâm lược để thôn tính dân tộc ta. Chính hoàn cảnh lịch sử đó, để giải
quyết thành công vấn đề tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam đòi hỏi Đảng ta có quan
điểm giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng
vào thực tiễn tôn giáo Việt Nam là một vấn đề có tính chiến lược lâu dài phải trên cơ
sở chủ nghĩa Mác Lê nin tư tưởng Hồ Chí Minh . Bởi nó là một hiện tượng xã hội
thuộc đời sống tinh thần của con người, đã và đang có ảnh hưởng quan trọng đến
các vấn đề đời sống chính trị xã hội của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong
thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, khoa học đã thực
sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và tưởng chừng con người cùng với khoa
học có thể giải thích được mọi vấn đề của tự nhiên, xã hội, tư duy mà không cần
viện dẫn thần linh. Nhưng thực tế đang có nhiều vấn đề diễn ra mà chúng ta chưa
giải đáp được như những người có khả năng đặc biệt như ngoại cảm có khả năng
tiên đoán … Do đó, không ít người đã tìm đến tôn giáo để cầu mong được đấng
siêu nhiên làm chỗ dựa tinh thần. Vì Tôn giáo ở thời đại nào thì đã và đang đóng
vai trò đền bù hư ảo cho sự bất lực, yếu ớt của con người, an ủi động viên khuyến


khích, động viên con người hướng vào những lực lượng siêu nhiên, do mình tưởng


tượng ra để giải quyết sự yếu kém bất lực của mình trước những hiện tượng tự
nhiên và xã hội .
Ở nước ta hiện nay có khoảng 20 triệu đồng bào có tôn giáo. Trong đó Phật
giáo khoảng 10 triệu; Công giáo khoảng 5 đến 6 triệu; Tin Lành khoảng 44 vạn ;
Hồi giáo dưới 10 vạn; Cao Đài khoảng 1,2 triệu; Hoà Hảo khoảng 1,4 triệu. Nét
chung khá rõ là các hoạt động tôn giáo đang đi vào hoạt động bình thường, nhiều
lễ nghi được tiến hành thường xuyên, các cơ sở thờ tự được tôn tạo, sửa chữa và
xây dựng mới; kinh sách được in ấn, chức sắc tôn giáo được đào tạo, tu nghiệp ở
trong nước và nước ngoài ngày càng nhiều; các hoạt động đối ngoại, hoạt động xã
hội của tôn giáo được mở rộng; một số tín đồ khô, nhạt đạo đã sinh hoạt trở lại;
thanh thiếu niên được thu hút vào sinh hoạt tôn giáo sôi nổi hơn. Đa số chức sắc
tôn giáo, đồng bào tín đồ phấn khởi trước chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, thể hiện lòng tin với Đảng, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới, chấp hành tốt
chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Điều này thấy được khá rõ qua các
tôn giáo lớn như: Thiên chúa giáo, Phật giáo, Cao Đài…Từ khi có chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà nước, Giáo hội Thiên Chúa giáo tại Việt Nam đã hưởng ứng
tinh thần “sống phúc âm trong lòng dân tộc”. Đối với một số giáo phận trước kia
chủ trương “bất hợp tác”, cấm giáo sỹ tham gia quan hệ với chính quyền địa
phương, thì nay Giáo hội đã chủ trương quan hệ, tăng cường tiếp xúc và ủng hộ
chính quyền địa phương, tăng cường các hoạt động từ thiện. Phật giáo và một số
các tôn giáo khác cũng ngày càng tăng cường hòa nhập với đời sống xã hội hơn.
Biểu hiện thông qua việc rất nhiều các nhà sư, các vị chức sắc của các tôn giáo
tham gia tích cực vào Hội đồng nhân dân, Quốc hội, ủng hộ chính sách của Đảng
và Nhà nước. Theo số liệu thống kê của 44/64 tỉnh thành phố thì có 1171 đại biểu
hội đồng nhân dân các cấp thì trong đó đạ biểu hội đồng nhân cấp tỉnh là 74 người,
cấp huyện là 265 người, cấp xã phường là 832 người.
Song song với xu hướng tôn giáo hòa nhập với đời sống kinh tế xã hội, xu

hướng thương mại hóa các hoạt động tôn giáo đang xuất hiện và có khả năng gia
tăng. Trong đời sống tôn giáo, hiện tượng mê tín, hủ tục, diễn ra khá phổ biến, xuất
hiện những “tôn giáo mới” mà theo các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động thực
tiễn đánh giá “lành ít, dữ nhiều”. Ước tính ở nước ta hiện nay, có khoảng trên 30


giáo phái, với hơn 50 tên gọi khác nhau như: Đạo chân không, Thiên Đạo, Tân Sứ,
Đạo siêu hóa, Long Hoa Di Lặc, Vàng Chứ, Thìn Hùng…. Trong đó có trường
phái bộc lộ sự tiêu cực rõ rệt và bị dư luận xã hội lên án. Riêng đạo Tin Lành ở các
tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên có xu hướng xóa bỏ truyền thống văn hóa của
dân tộc.
Qua thực tế tôn giáo của nước ta hiện nay cho thấy: Xu thế toàn cầu hóa nền
kinh tế thị trường một số mặt đã và đang tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế đất nước, đời sống đa phần nhân dân được cải thiện, trong đó có các
tín đồ tôn giáo, bên cạnh đó cũng tạo môi trường khách quan, thuận lợi cho sự phát
triển tín ngưỡng tôn giáo và tàng trữ trong lòng nó những yếu tố tiêu cực. Cùng với
những vấn đề “dân tộc”, “dân chủ”, “nhân quyền”, vấn đề tôn giáo hiện nay đang
là một vấn đề nhạy cảm và có nhiều diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch đang
lợi dụng sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, lợi dụng toàn cầu hoá kinh tế quốc
tế, sử dụng vấn đề “tôn giáo” để tác động, can thiệp vào công việc nội bộ của nước
ta, phục vụ các ý đồ chính trị phản động của chúng. Tình trạng lợi dụng tôn giáo để
chống phá, vu khống đường lối lãnh đạo của Đảng, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc đang có xu hướng tăng lên. Do đó nghiên cứu quá trình nhận thức đổi mới tư
duy của Đảng cộng sản Việt Nam trong thực hiện chính sách tôn giáo trong lịch
sử và hiện thực có có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong giai đoạn cách mạng hiện
nay.
Tính nhất quán về quan niệm tín ngưỡng tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn
xác định vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn giáo là vấn đề chính trị quan
trọng, quan hệ đến sự phát triển của đất nước, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn

hoá, xã hội của các tầng lớp nhân dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài
đối với sự nghiệp cách mạng.


Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam là sự vận dụng
trung thành và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam
trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Sự nhất quán trong quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng cộng sản Việt
Nam thể hiện ở chỗ: từ khi thành lập cho đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam không
bao giờ xa rời quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của nhân dân; quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo;
cảnh giác và nghiêm trị những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi
ích của cách mạng.
Văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên thể hiện quan điểm của Đảng ta về tín
ngưỡng tôn giáo đó là Chỉ thị của Thường vụ Trung ương, chỉ đạo cao trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh năm 1930. Trong chỉ thị có đoạn viết: “Vì những chỗ đó đã có cao trào hay
phong trào cách mạng, thì phải lãnh đạo từng tập thể sinh hoạt hay tập đoàn của nhân
dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần dần cách mạng hoá quần chúng và lại
bảo đảm tự do tín ngưỡng của quần chúng, đập tan luận điệu phản tuyên truyền cộng
sản là vô chính phủ, vô gia đình, vô tôn giáo…”1.
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định
đường lối tự do tín ngưỡng, đoàn kết lương giáo để giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước. Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chính sách
“tín ngưỡng tự do, Lương - Giáo đoàn kết” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã
góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc .
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đường lối đại đoàn
kết toàn dân tộc, tự do tín ngưỡng đã động viên hàng chục vạn tín đồ các tôn giáo
tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Nhờ đường lối
1


Đỗ Quang Hưng. Hồ Chí Minh và nền tảng pháp luật tôn giáo ở nước ta, Tạp chí. Nghiên cứu tôn giáo, Số
3/2002,tr.3-13


đúng đắn đó mà Đảng ta đã đoàn kết được các tôn giáo, động viên các tín đồ tôn
giáo tham gia vào sự nghiệp chung của dân tộc; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù hòng chia rẽ, đối lập, lợi dụng các tôn giáo để chống phá cách mạng nước
ta.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, vấn đề tôn giáo có những nội dung mới.
Năm 1990, Bộ Chính trị (khoá VI) đã ra Nghị quyết 24 Về tăng cường công tác
tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết xác định: Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại
lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; đạo
đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Cần khắc
phục nhận thức thiển cận đối với tôn giáo và thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt
đối xử với đồng bào có đạo. Đảng chủ trương: đối với các giáo hội và tổ chức tôn
giáo nào có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích, điều
lệ phù hợp với luật pháp nhà nước, có tổ chức phù hợp và bộ máy nhân sự đảm bảo
tốt về cả hai mặt đạo, đời thì sẽ được Nhà nước xem xét trong từng trường hợp cụ
thể để cho phép hoạt động. Nghị quyết này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó
chính là cơ sở cho việc giải quyết vấn đề tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước sau này. Nó chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh vào hoàn cảnh lịch sử mới của dân tộc ta.
Sau Hội nghị tổng kết NQ 24/TW, ngày 02.7.1998, Bộ Chính trị (Khoá VIII)
đã ban hành Chỉ thị 37-CT/TW:” Về công tác tôn giáo trong tình hình mới” và
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19.4.1999:” Về các
hoạt động tôn giáo”.v.v.
Các Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X của Đảng đã tiếp tục
khẳng định những quan điểm cơ bản được nêu trong Nghị quyết 24 của Bộ Chính
trị và làm sáng tỏ thêm một số nội dung cho sát với hoàn cảnh, điều cụ thể trong

từng thời điểm lịch sử.


ở trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng
định quan điểm: “Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Chăm lo
phát triển kinh tế, văn hoá, nâng cao đời sống của đồng bào”2.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới. Sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặt ra những đòi hỏi to lớn đối với toàn
dân tộc, trong đó đồng bào các tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời.
Trong khi đó, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta đang có những diễn biến
hết sức phức tạp. Sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường làm nẩy sinh
tâm lý tín ngưỡng, tôn giáo và cả mê tín dị đoan phát sinh, phát triển; chủ nghĩa
đế quốc ra sức lợi dụng kích động các vấn đề dân tộc, tôn giáo để gây rối, can
thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, chống phá sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta… Đứng trước tình hình đó vấn đề tư duy và đổi mới tư duy về vấn
đề tôn giáo là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Quá trình đổi mới tư duy về vấn đề tôn giáo của Đảng cộng sản Việt
Nam
Việc đổi mới tư duy trên lĩnh vực tôn giáo và công tác tôn giáo được thực
hiện trong khuôn khổ đổi mới tư duy của Đảng từ Đại hội VI. Trong văn kiện Đại
hội VI ghi rõ: “Đảng và Nhà nước ta, trước sau như một, thực hành chính sách
tôn trọng, tự do tín ngưỡng. Lãnh đạo và giúp đỡ đồng bào theo tôn giáo đoàn kết
xây dựng cuộc sống mới và hăng hái tham gia bảo vệ Tổ quốc. Cảnh giác, kiên
quyết và kịp thời chống lại âm mưu, thủ đoạn của bọn đế quốc và phản động chia

2


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr.128.


rẽ đồng bào có đạo với đồng bào không có đạo, giữa đồng bào theo đạo này với
đồng bào theo đạo khác”3.
Để thực hiện quan điểm của Đảng ta về nhất quán chính sách tôn giáo, nghị
quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VI (tháng 3-1990) về đổi mới công tác quần
chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân đã nhìn nhận:
“Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân
dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân”.
Đây là một trong những cơ sở cho việc đổi mới nhận thức của Đảng về tôn giáo.
Với vấn đề đổi mới nhận thức về tôn giáo ở nước ta, đến nay ai cũng hiểu
rằng, nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khoá VI được
xem như dấu mốc thể hiện quan điểm mới của Đảng về tôn giáo và công tác tôn
giáo với ba luận điểm quan trọng có tính đột phá là: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn
tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” .
Với 3 luận điểm đó đã nhanh chóng tạo nên sự đột phá nhận thức: Phải nhìn nhận
tôn giáo như một “thực tại xã hội” và là nhu cầu của một bộ phận quần chúng, và
nó hoàn toàn có thể đồng hành với chủ nghĩa xã hội. Riêng luận đề mới mẻ về văn
hoá tôn giáo đã khơi dậy trực tiếp những suy nghĩ, hành động tích cực của quần
chúng, người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo. Khi các giá trị văn hoá đạo
đức của tôn giáo được đặt trong khuôn khổ của văn hoá dân tộc, một mặt đã thừa
nhận sự đa dạng của văn hoá dân tộc, mặc khác tạo ra thêm một con đường đoàn
kết dân tộc, tôn giáo. Khai thác tốt các giá trị văn hoá, đạo đức của tôn giáo là
cách tốt nhất để cho các tôn giáo thuận lợi hơn trong quá trình tìm về dân tộc.
Tiếp đó Nghị quyết 24 đã nêu ra 3 quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác tôn
giáo, ba nhiệm vụ, năm nguyên tắc và năm chính sách cụ thể đối với tín đồ, chức
3


Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội,1987,Tr.117


sắc, nhà tu hành, với tổ chức giáo hội, với hoạt động từ thiện của tôn giáo và hoạt
động đối ngoại và quan hệ quốc tế của tôn giáo.
Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa 6 tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII có nêu: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và các
tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng
bào có đạo, nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc
lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản các tín đồ làm
nghĩa vụ công dân”4 .
Tư tưởng nhất quán của Đảng trước sau như một, luôn quan tâm đến đời sống
của đồng bào có đạo cũng như đồng bào không có đạo cả về mặt vật chất và tinh
thần, mọi thành viên trong xã hội đề bình đẳng trước pháp luật. Hệ thống tôn giáo
truyền thống cũng như các tôn giáo ngoại sinh hay nội sinh cũng phải mang yếu tố
dân tộc để tồn tại. trên nguyên tắc “tốt đời đẹp đạo; kính chúa yêu nước; sống
phúc âm trong lòng dân tộc”.
Trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Điều
70 có ghi: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự
của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật
và chính sách của Nhà nước”5.
Kể từ sau nghị quyết 24 nói trên, Đảng ta còn có nhiều văn kiện khác khẳng
định và phát triển tư duy đổi mới về vấn đề tôn giáo, đặc biệt là chỉ thị 37-CT/TW
4
5


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb ấự thật, H. 1991, tr.78.
.Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Hà nội, 1992, tr. 36.


ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị khoá VIII về công tác tôn giáo trong tình hình mới,
một văn kiện quan trọng lần đầu tiên được đăng tải công khai trên báo nhân dân và
hàng loạt báo khác.
Nghị quyết 25 (12/3/2004) của Hội nghị Trung ương 7 (Khóa IX) về công tác
tôn giáo là sự tiếp tục đổi mới nhận thức của Đảng ta trên lĩnh vực tôn giáo. Đây là
lần đầu tiên trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Trung ương bàn chuyên đề về
công tác tôn giáo. Trên cơ sở đánh giá tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở
nước ta hiện nay. Trung ương xác định những quan điểm, chính sách đối với tôn
giáo; đề ra nhiệm vụ, những giải pháp chủ yếu và tổ chức thực hiện công tác tôn
giáo hiện nay. Cần ghi nhận con số sau đây: từ 1990 đến 2003, đã có 13 văn kiện
về các vấn đề tôn giáo gồm 2 nghị quyết, 2 chỉ thị, 9 thông báo. Trong đó Ban bí
thư ban hành một chỉ thị, 7 thông báo; Bộ Chính trị ban hành 1 nghị quyết, 1 chỉ
thị và 2 thông báo; Ban Chấp hành Trung ương ban hành 1 nghị quyết.
Điều quan trọng hơn cả là, đến nay nhận thức về vấn đề tôn giáo của cán bộ,
đảng viên và nhân dân đã có bước tiến khá dài. Một bầu không khí xã hội mới mẻ
đã lan toả, ranh giới vô hình mà khắc nghiệt về sự phân biệt “lương, giáo” mà các
thế lực đế quốc thực dân, phong kiến trước đây cố tình khoét sâu mâu thuẫn này đã
được gỡ bỏ căn bản, tạo nên những điểm sáng trong quan hệ đạo đời “tốt đời, đẹp
đạo”. Trong nghị quyết Trung ương bảy khóa IX đã xác định phương và mục đích
cơ bản của hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo là: “Nhằm tăng cường đoàn kết
đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”6

6


.Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. CTQG, Hà Nội,
2003, Tr 48.


Nhận thức tôn giáo trong Nghị quyết thể hiện quá trình tiếp tục đổi mới về
tư duy của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo. Nếu nghị quyết 24 nêu ba quan điểm chỉ
đạo thì trong nghị quyết này Đảng ta nêu tới năm quan điểm, trong đó có sự
khẳng định lại những quan điểm trước đó và có một số điểm mới bổ sung:
Một là: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Như
vậy, tín ngưỡng tôn giáo không chỉ được coi là hiện tượng xã hội còn tồn tại lâu
dài, mà còn được xác định rõ: nó “đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Ở đây Đảng ta đề cập 2 mối quan hệ giữa tôn giáo với
dân tộc và tôn giáo với chủ nghĩa xã hội. Điều này Hồ Chí Minh cũng cho rằng,
người cộng sản tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội không những không tiêu diệt tôn giáo mà còn bảo hộ tôn giáo. Lý tưởng xây
dựng xã hội của những người cộng sản có sự trùng hợp nhất định với những nhà
sáng lập ra tôn giáo. Khai thác những giá trị tích cực của các tôn giáo trước hết là
các giá trị văn hoá và đạo đức, đồng thời luôn cảnh giác những âm mưu lợi dụng
các tôn giáo và mục đích chính trị phản dân tộc và chống phá chủ nghĩa xã hội.
Hai là: Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc. Xuất phát từ nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay, từ vai trò
của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng và tính quần chúng của tôn giáo, Đảng
ta luôn chú ý tới yếu tố đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết toàn dân tộc không
phải là điểm mới trong nhận thức của Đảng, nhưng Nghị quyết Trung ương Bảy
khóa IX nhận mạnh yếu tố đoàn kết trong hoàn cảnh lịch sử mới. Song, sự tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đồng thời phải chống lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo, hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà



nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, xâm phạm đến an ninh quốc
gia.
Ba là: Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vai trò của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng, xuất phát từ tính chất quần
chúng của tôn giáo, Đảng ta hướng công tác tôn giáo vào công tác vận động quần
chúng.
Trong cách mạng giai phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch
Hồ Chí Minh tìm ra mẫu số chung, sự tương đồng giữa người có đạo và người
không có đạo để đoàn kết cùng nhau phấn đấu cho lợi ích chung đó là độc lập dân
tộc và cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho mọi người. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng
ta coi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.
Bốn là: Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị . Tôn
giáo và hoạt động tôn giáo không chỉ là giới hạn trong phạm vi đời sống tinh
thần, tâm linh của riêng đồng bào có đạo, mà hoạt động tôn giáo và công tác tôn
giáo còn liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn nữa, công tác
tôn giáo còn quan hệ đến các cấp, các ngành, các địa bàn khu dân cư, vì vậy,
mỗi bộ phận cấu thành trong hệ thống chính trị đều có tránh nhiệm làm tốt công
tác tuyên truyền giáo dục, vận động đồng bào tôn giáo thực hiện tốt chính sách
của Đảng và nhà nước về vấn đề tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.
Năm là: Về vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mỗi tín đồ tôn giáo có quyền tự do
bày tỏ niềm tin tôn giáo của mình tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy
định của pháp luật; các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động
theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Việc theo đạo, tuyền đạo cũng như mọi
hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân theo hiến pháp và pháp luật; không được lợi



dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc
người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các
cách thức truyền đạo trái phép, vị phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Đặc biệt, tháng 7/2004, dư luận trong nước và quốc tế rất quan tâm đến sự
kiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua
và được ban hành cũng như Nghị định của Chính phủ đã ban hành (3/2005)
“Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo’’.
Về mặt vĩ mô, phải nói sự đổi mới mạnh mẽ của chính sách tôn giáo cũng
được bắt nguồn từ tinh thần của Nghị quyết 24 nói trên. Trong đó, cũng là lần đầu
tiên, công tác tôn giáo vốn được coi chủ yếu là công tác đánh địch lợi dụng, nay
được coi chủ yếu là công tác vận động quần chúng (phạm trù công tác dân vận) với
luận đề quan trọng.
Chúng ta đã có những bước tiến dài trong việc thể chế hoá các quyền tự do tôn
giáo tín ngưỡng của quần chúng và các hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Từ 1991
đến nay, chúng ta luôn thể hiện quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
trên lĩnh vực quản lý tôn giáo, bằng việc ban hành hàng loạt quy định, nghị định, chỉ
thị, thông tư,…và cao nhất là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể nói hàng loạt
các văn bản pháp lý ấy đã thể hiện sinh động sự đổi mới về chính sách tôn giáo. Có
thể khái quát một số điểm sau đây:
Thứ nhất: Mối quan hệ giữa Nhà nước với các tôn giáo, mà nói đúng hơn là các
tổ chức tôn giáo (giáo hội, hội thánh, ban trị sự, hội đồng giáo sứ..” đã được cải thiện
căn bản theo hướng pháp quyền. Một mô hình Nhà nước thế tục Mác-xít, về bản chất
là nhà nước thế tục phi tôn giáo do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 234 (1955),
nay đã hiện ra rõ rệt. Mô hình này tỏ ra thích hợp với đời sống tôn giáo ở Việt Nam,
được đông đảo đồng bào có đạo và quần chúng nói chung ủng hộ và bước đầu được


thế giới nhìn nhận. Trên cả 3 khâu: theo đạo, hành đạo và quản đạo đã được thể chế
hoá và cơ bản đã phù hợp với thực tiễn.
Thứ hai: Về mối quan hệ giữa “hoạt động tôn giáo” và “công tác tôn giáo”

cũng được giải quyết tốt hơn. Mối quan hệ này vốn không hề đơn giản vì các
“hoạt động tôn giáo” vốn là lợi ích sống còn của các chủ thể tôn giáo, trong khi đó
“công tác tôn giáo” lại là vấn đề thuộc phạm trù quản lý nhà nước. Nhà nước ta
hiểu rõ những kinh nghiệm quá khứ, khi mà sự tương tác giữa 2 chủ thể “Hoạt
động tôn giáo” và “Công tác tôn giáo” diễn ra không thuận lợi dẫn đến xung đột
triệt tiêu lẫn nhau.
Thứ ba: Vận dụng kinh nghiệm của lịch sử dân tộc và quốc tế về luật pháp tôn
giáo, để sự thể chế hoá về quyền hạn và nghĩa vụ của toàn dân, trước hết là cộng
đồng các tôn giáo ngày càng thích hợp hơn. Đây cũng là nét mới trong chính sách
tôn giáo của Nhà nước ta hiện nay, trực tiếp tạo nên bầu không khí phấn khởi trong
các chức sắc và tín đồ các tôn giáo.
Có thể nói sự đổi mới chính sách tôn giáo những năm gần đây đã đem lại
hiệu quả to lớn trong việc góp phần quyết định tạo ra sự ổn định, bức tranh sinh
hoạt tôn giáo ngày càng có nhiều điểm sáng. Tất nhiên, trong những năm qua và
còn lâu dài, các thế lực thù địch vẫn luôn luôn tìm cách lợi dụng vấn đề tôn giáo
để chống phá cách mạng Việt Nam. Nhưng có thể nói xu hướng tôn giáo Việt
Nam đồng hành cùng dân tộc và Chủ nghĩa xã hội là không thể đảo ngược.
Trong giai đoạn hiện nay quan điểm và chính sách tôn giáo Đảng ta không ngừng
hoàn thiện để phù hợp với xu thế của thời đại và vì mục đích xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước, đồng thời phù hợp với luật pháp quốc tế.
Văn kiện Đại hội X đã chỉ ra rằng: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của
khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự


do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo
bình thường theo pháp luật”7.
* *
*
Trong giai đoạn hiện nay, những thế lực thù địch chống phá ở Nước ta chưa từ
bỏ việc lợi dụng tôn giáo để làm mất ổn định chính trị, gây hoang mang, chia rẽ khối

đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, việc chống địch lợi dụng tôn giáo vào mục địch
chính trị nhằm chống lại Tổ quốc vẫn là nhiệm vụ đặt ra cấp bách hiện nay. Qua
nghiên vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo và trong các văn bản, chỉ thị nghị quyết của
Đảng ta thể hiện nhất quán tư tưởng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về quan
điểm, chính sách tín ngưỡng tôn giáo. Đây là cơ sở để chúng ta phân biệt rạch ròi
giữa bản thân tôn giáo và những kẻ lợi dụng tôn giáo. Với từng tôn giáo, Nhà nước
tôn trọng niềm tin trong sáng của các tín đồ, những việc làm tốt đẹp của các tôn
giáo, nhưng không thể không phê phán, lên án những mê tín, hủ tục nằm trong tôn
giáo, cũng như những hành vi bất chính phản nước, hại dân của một số ít người
đứng đầu các tổ chức tôn giáo.
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nhận thức, và phân biệt được tín ngưỡng,
tôn giáo với hành vi vi phạn tín ngưỡng tôn giáo để có các đối sách chống lại âm
mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách
mạng nước ta trên con đường đổi mới. Hiện nay trong hoàn cảnh đất nước ta có rất
nhiều tôn giáo, đa dạng về tổ chức, khác nhau về số lượng, việc đối xử bình đẳng
đối với các tôn giáo, bỏ qua quá khứ, hướng về tương lai là việc nên làm. Không
thể và không nên có suy nghĩ và hành động nào cho thấy có sự thiên vị đối với một
tôn giáo bất kỳ. Vị trí của từng tôn giáo trong đời sống nhân dân là do chính quần
chúng nhân dân định đoạt. Nhà nước không can thiệp vào việc riêng tư của họ,
nhưng Nhà nước phải định hướng họ hoạt động theo pháp luật và xử lý nghiêm
7

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 2006,Tr122.


những trường hợp tôn giáo và tín đồ tôn giáo nào vi phạm pháp luật. Đây là công
cụ để Nhà nước quản lý điều hành xã hội theo quan điểm, lập trường của giai cấp
vô sản.
Tôn giáo là một thực thể khách quan của xã hội, của một dân tộc, và nó còn
tồn tại lâu dài. Do đó Đảng và Nhà nước ta luôn có chính sách thích hợp, chính

sách đó được quy định trong Hiến pháp và pháp luật, bao quát toàn bộ các hình
thái tôn giáo, phải được điều hành chỉ đạo bằng tổ chức thống nhất, không chỉ dưới
góc độ chính trị, an ninh, mà cả góc độ xã hội, văn hóa, đạo đức, không có sự tách
biệt, chồng chéo. Phát huy sức mạnh cả hệ thống chính trị đều có tránh nhiệm về
vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng tôn giáo để tạo khối đại đoàn kết giữa tín đồ tôn giáo
khác nhau, giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo và không có tín ngưỡng tôn
giáo sẽ được củng cố bền chặt trên cơ sở cùng nhau xây dựng một đất nước vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh sánh vai với các
cường quốc lớn trên thế giới.
Kết luận:
Công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là quan điểm và thái độ ứng xử
của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo để đáp ứng nhu cầu tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân, nhằm tăng cường đoàn kết và phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lời sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nội dung chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là kết quả của sự
trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước và tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Có thể nói, trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng ta đều đề ra chính sách tôn
giáo cụ thể cho phù hợp. Nhưng xuyên suốt mọi thời kỳ cách mạng là Đảng ta tôn


trọng quyền tự do tín ngưỡng theo và không theo tôn giáo nào của đồng bào, không
phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, đoàn kết đồng bào trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Những quan điểm đó được Đảng ta xác định là nguyên tắc chiến lược, chứ
không phải một sách lược tạm thời. Điều đó đã làm cho khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và mở rộng, tập hợp được đông đảo lực lượng cách mạng, thực
hiện thắng lợi mọi đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước trong đấu tranh giành chính quyền và xây dựng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ

nghĩa hiện nay.
Hiện nay do tác động mặt trái của cơ chế thị trường, những thách thức
không thể xem thường của toàn cầu hoá, những khó khăn của tình hình kinh tế
xã hội của đất nước, sự thoái hoá biến chất của một bộ phận cán bộ đảng viên,
sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, làm cho vấn đề tôn giáo vốn đã
phức tạp, nhạy cảm nay lại càng phức tạp, nhạy cảm hơn, nó đe doạ trực tiếp
đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và tồn vong của chế độ.
Trước tình hình đó Đảng ta đã nhận thấy, giải quyết vấn đề tôn giáo hiện nay
không chỉ là vấn đề chiến lược mà còn rất nhạy cảm, hệ trọng, cấp bách, không thể
trì hoãn xem thường. Từ nhận thức sâu sắc và thái độ nghiêm túc đó, đảng đã đè ra
những quan điểm hết sức khoa học về tôn giáo và vấn đề tôn giáo. Đảng ta không
chỉ coi tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân còn tồn tại lâu dài, mà còn
khảng định có những hạt nhân hợp lý về văn hoá và đạo đức của tôn giáo có thể kế
thừa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; để giải quyết vấn đề tôn giáo một
cách triệt để hiệu quả bền vững, không thể tuyên truyền giáo dục một cách trung
trung mà cốt lõi của nó phải là phát triển kinh tế xã hội cải thiện đời sống vật chất
tinh thần, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân; thực chất của công tác tôn giáo
không phải là đấu tranh giữa duy vật và duy tâm, vô thần hay hữu thần, mà thực
chất của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng; để đoàn kết đồng bào
có đạo với đồng bào không có đao, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau


trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì phải lấy mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” là mẫu số chung, làm điểm tương đồng; việc
xem sét đánh giá nhìn nhận vấn đề tôn giáo không chỉ đơn thuần từ góc độ chính
trị và an ninh mà còn phải nhìn nhận tôn giáo từ góc độ đạo đức, văn hoá. Chính
những quan điểm mới đó đã làm cho: Sinh hoạt tôn giáo của đồng bào được cải
thiện theo hướng ngày càng cởi mở; trong đời sống tôn giáo thì việc Đạo việc
Đời gắn bó hơn theo hướng “Đạo pháp - Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, “thong
dong phần đạo, chu tất phần đời, kính chúa yêu nước, sống phúc âm trong lòng

dân tộc” ; niềm tin của nhân dân vào Đảng được củng cố; quan hệ giữa Đảng
Nhà nước với các tổ chức tôn giáo ngày càng hiểu biết và tin cậy nhau hơn; khối
đại đoàn kết được củng cố và mở rộng; đời sống vật chất tinh thần của đồng bào
được cải thiện rõ rệt; an ninh chính trị được giữ vững. Những thành quả đó ngay
cả các thế lực thù địch cũng không thể chối cãi được.
Tuy nhiên do chúng ta còn khó khăn về kinh tế xã hội, đặc biệt là ở vùng dân
tộc thiểu số vùng xa vùng sâu; hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt ở
cơ sở ở một số nơi còn yếu kém; năng lực toàn diện của một số cán bộ làm công tác
tôn giáo chưa ngang tầm với tính phức tạp và nhạy cảm của nhiệm vụ; kẻ thù thì
chống phá quyết liệt, làm cho hiệu quả của công tác tôn giáo có nơi chưa bền vững, có
lúc bị động bất ngờ, còn tiềm ẩn yếu tố gây mất ổn định.
Từ những thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính sách tôn giáo của
Đảng trong thời gian qua, nó không chỉ để lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý
báu mà còn khảng định quan điểm chủ trương của Đảng chính sách của Nhà nước
ta về tôn giáo và công tác tôn giáo là hoàn toàn đúng. Để tiếp tục giải quyết tốt
vấn đề tôn giáo trong thời gian tới, bản thân tôi xin kiến nghị với Đảng và Nhà
nước một số vấn đề như sau:


Một là: Khi hoạch định và thực thi chính sách tôn giáo phải đặt nó trong mối
quan hệ tổng thể với chính sách dân tộc, kinh tế - xã hội, văn hoá của Đảng và Nhà
nước, thực sự gắn kết giải quyết việc “Đạo” trong toàn bộ việc “Đời”.
Hai là: Giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn với việc chống lại việc lợi dụng
tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước và dân tộc; kiên định về chiến lược, mềm dẻo
về sách lược, tăng cường đối thoại; không để bất ngờ, chủ động sử lý các tình
huống rứt điểm, không để lan rộng, không để kéo dài.
Ba là: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội nhưng hết sức phức tạp và nhạy
cảm, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. để giải quyết vấn đề tôn
giáo có hiệu quả bền vững, đòi hỏi phải có sự tham gia của tất cả các cấp các
nghành thậm trí các nghành tưởng trừng như nằm ngoài phạm vi tôn giáo, để tạo ra

một tổ chức có cơ cấu toàn diện, sức mạnh tổng hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng,
điều hành thống nhất của Nhà nước.
Bốn là: Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội một
cách thiết thực, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về mọi mặt giữa nông thôn và
thành thị, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa đồng bằng và miền núi, giữa các
bộ phận dân cư. Đầu tư một cách toàn diện cho phát triển vùng xa vùng sâu
vùng đồng bào dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn.
Năm là: Củng cố hệ thống chính trị đặc biệt là hệ thống chính trị ở cơ sở,
nhất là hệ thống chính trị ở vùng khó khăn, vùng đồng bào theo đạo, vùng trọng
điểm mà kẻ thù hay lợi dụng chống phá. Thể hiện bình đẳng tôn giáo một cách
thực chất hơn, từ đó có chính sách cụ thể, hợp lý cho phát triển đoàn viên đảng
viên, đào tạo và sử dụng quản lý cán bộ là người theo đạo.


Sáu là: phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sử dụng nhiều hình
thức biện pháp để giải quyết vấn đề tôn giáo, nhưng hết sức chú ý công tác tuyên
truyền, vận động, đặc biệt là hình thức đối thoại.



×