Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO bài GIẢNG CHI TIẾT môn CHÍNH TRỊ học CHUYÊN đề các tổ CHỨC CHÍNH TRỊ xã hội TRONG xã hội HIỆN đại và ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.07 KB, 27 trang )

Phần 1: Ý ĐỊNH BÀI GIẢNG

I. MỤC ĐÍCH
- Trang bị những kiến thức cơ bản về các tổ chức chính trị - xã hội.
- Nắm được sự hình thành phát triển, tổ chức, hoạt động; vị trí, vai trò,
chức năng và giải pháp nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
II. NỘI DUNG
1. Lý luận chung về các tổ chức chính trị - xã hội trong xã hội
hiện đại
1.1. Quan niệm, phân loại, điều kiện ra đời của tổ chức chính trị xã hội
1.2. Vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
1.3. Chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội
1.4. Phương thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội
2. Một số vấn đề về tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam
2.1. Quan niệm, sự hình thành và phát triển của các tổ chức
chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam
2.2. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội
2.3. Đặc điểm của các tổ chức chính trị - xã hội Việt Nam
2.4. Vị trí, chức năng, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
2.5. Thực trạng hoạt động và giải pháp nâng cao vai trò của các
tổ chức chính trị - xã hội trong giai đoạn hiện nay
III. THỜI GIAN: 4 tiết
IV. ĐỊA ĐIỂM: giảng đường
V. TỔ CHỨC, PHƯƠNG PHÁP:
1. Tổ chức: Lên lớp tập trung tại giảng đường.
2. Phương pháp:


2
- Phương pháp diễn giảng của giảng viên, có sử dụng trình chiếu


Powerpoint;
- Gợi mở, hướng dẫn học viên nghiên cứu tài liệu và phân tích làm rõ
một số nội dung quan trọng.
VI. VẬT CHẤT BẢO ĐẢM:
Giáo án, tập bài giảng, tài liệu tham khảo, máy vi tính.
Phần 2: THỰC HÀNH BÀI GIẢNGq

I. Thủ tục bài giảng
- Nhận báo cáo, kiểm tra công tác chuẩn bị của học viên
- Báo cáo cấp trên (nếu có).
II. Trình tự bài giảng
Thứ tự, nội dung

Thời gian

Phương pháp

Phần 1

60 phút

Kết hợp nêu vấn đề với
thuyết trình, phát vấn

Phần 2

120 phút

Kết hợp nêu vấn đề với
thuyết trình, phát vấn


Vật chất

III. Kết thúc bài giảng
- Định hướng nội dung ôn tập.
- Nhận xét kết quả học tập.
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
1.1. Quan niệm, phân loại, điều kiện ra đời của các tổ chức chính trị
- xã hội
a) Quan niệm về tổ chức chính trị - xã hội
* Nhận thức chung về tổ chức chính trị - xã hội:
Trong xã hội bao giờ cũng có một bộ phận trung tâm của xã hội là nhà nước.
Bộ phận lớn thứ hai bên cạnh là xã hội công dân. Xã hội công dân gồm các bộ
phận, tổ chức như: các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội. Đây là
các tổ chức đại diện để nhân dân tham gia vào quan hệ với nhà nước. Các tổ
chức đó là biểu hiện cụ thể của xã hội công dân.


3
Về tên gọi của các tổ chức chính trị - xã hội:
Các tổ chức chính trị - xã hội trong xã hội hiện đại, mà tiêu biểu là ở
các nước phương Tây có tên gọi khác nhau.
- Ở nhiều nước phương Tây gọi là: "các tổ chức xã hội độc lập", vì nó
độc lập với nhà nước, không do nhà nước lập nên.
- Tên gọi thứ hai: "các nhóm lợi ích"
- Tên gọi thứ ba: "các nhóm áp lực"
- Tên gọi thứ tư: "nhóm vận động hành lang".
Mặc dù tên gọi, vị trí vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị ở mỗi nước khác nhau, nhưng chúng đều thực hiện chức năng

là trực tiếp tác động, gây ảnh hưởng đến chính quyền để thực hiện mục tiêu
của nhóm xã hội nào đó.
Các tổ chức kiểu này xuất hiện ngày càng nhiều cùng với quá trình tăng
lên sự phân hóa về lợi ích giữa các nhóm dân cư, dân tộc, tôn giáo, văn hóa,
sản xuất kinh doanh... trong xã hội. Các tổ chức như vậy có thể gọi là "các tổ
chức chính trị - xã hội" như đã thường dùng ở Việt Nam, hay "các tổ chức xã
hội độc lập" theo cách gọi của một số nước phương Tây.
* Quan niệm về tổ chức chính trị - xã hội:
Đó là tổ chức được lập ra do sự tự nguyện tham gia của các thành viên,
nằm ngoài nhà nước, có vị trí quan trọng và trực tiếp tác động, ảnh hưởng
đến chính quyền để thực hiện những mục tiêu của một nhóm xã hội nào đó.
b) Phân loại các tổ chức chính trị - xã hội
Từ những cách tiếp cận khác nhau và tùy theo mỗi quốc gia, có nhiều
cách phân loại khác nhau. Một số quan điểm đồng nhất các tổ chức chính trị xã hội với xã hội dân sự, nghĩa là coi chúng đều bao gồm các tổ chức nhân
dân, các phong trào xã hội, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức nghề
nghiệp, các câu lạc bộ, nhóm thanh niên, công đoàn...
Có nước, còn đồng nhất các tổ chức xã hội độc lập với các nhóm lợi
ích, các nhóm vận động hành lang (như ở Mỹ). Ở Anh, đó là các nhóm áp lực,
bao gồm các nhóm kinh tế (hay các nhóm lợi ích) như công đoàn; các tổ chức


4
kinh tế; các tổ chức nghề nghiệp. Ở Thụy sĩ, các tổ chức xã hội được chia
thành các tổ chức nhân dân và các công ty công cộng...
Nhìn chung, hiện nay có thể phân loại các tổ chức chính trị - xã hội theo
hai cách sau:
Một là, phân loại theo nhóm
- Nhóm kinh tế:
Bao gồm công đoàn; các hiệp hội sản xuất và thương mại (các tổ chức
kinh tế theo nghề nghiệp).

+ Công đoàn là tổ chức đại điện cho công nhân, mục tiêu là cải thiện
tiền lương và điều kiện làm việc của người lao động, gây ảnh hưởng đến quan
điểm cộng đồng và chính phủ về các vấn đề kinh tế, xã hội.
+ Các tổ chức kinh tế thì quan tâm đến việc duy trì những điều kiện
chính trị, xã hội có lợi cho hoạt động của mình. Đó là hình thức đại điện cho
các tập đoàn kinh tế đa lợi ích, sử dụng sức mạnh đầu tư và khả năng tác động
đến các quốc gia khác để tác động đến các quyết định của chính phủ.
+ Các tổ chức nghề nghiệp thì thì bảo vệ lợi ích của các nhóm lao động
có nghề nghiệp khác nhau.
- Nhóm theo các vấn đề xã hội:
Bao gồm các phong trào bảo vệ môi trường, cải cách đất đai, bảo vệ
người tiêu dùng; hay các phong trào bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của những
nhóm xã hội cụ thể như người cao tuổi, nhóm cứu tế trẻ em...
- Nhóm văn hóa:
Bao gồm các tổ chức, thể chế khác nhau như tôn giáo, sắc tộc, cộng
đồng tín ngưỡng... nhằm bảo vệ các quyền, các giá trị của đời sống văn hóa,
lòng tin tôn giáo, sự trung thành và biểu tượng của chúng. Hội điện ảnh, hội
sân khấu; hội những người yêu thơ…
- Nhóm thông tin và giáo dục:


5
Bao gồm các tổ chức nhằm tạo ra và truyền bá (có thể vì mục đích lợi
nhuận hoặc không) những tri thức, thông tin, giá trị... của cộng đồng. Ví dụ:
Hội điện ảnh; hội nhà giáo; hội sân khấu; hội làm vườn.v.v.
- Nhóm theo quan điểm dựa trên cơ sở lợi ích:
Được thiết kế để thúc đẩy hoặc bảo vệ những lợi ích chung của các
thành viên, chẳng hạn như nông dân, công nhân, cựu chiến binh, giáo viên,
người nghỉ hưu...
- Nhóm lợi ích:

Nó lồng chứa trong tất cả các nhóm đã nêu trên. Về thực chất, tất cả các
nhóm đó đều là nhóm lợi ích, được hình thành đều vì lợi ích chung: tình cảm,
tư tưởng, tập đoàn, nghề nghiệp, bạn bè. Tuy nhiên, nhóm lợi ích còn được
hiểu với nghĩa là việc đòi lợi ích của mình đối với chính quyền.
Vì vậy, nhóm lợi ích được phân biệt với các nhóm khác bởi các tác động
qua lại của nó với những thể chế của nhà nước và những đảng phái đang đấu
tranh cho việc tham gia cơ cấu chính quyền, giành chính quyền hoặc đang nắm
giữ chính quyền.
- Nhóm áp lực:
Là một tổ chức thành viên muốn gây ảnh hưởng đến luật pháp; các nhà
lập pháp và các thành viên hành pháp.
Về thực chất, các nhóm áp lực cũng là để khai thác các nguồn lợi, tức là
cũng vì lợi ích. Như vậy, đôi khi một nhóm lợi ích cũng là nhóm áp lực, hoặc
lúc đầu chỉ là nhóm lợi ích nhưng sau đó trở thành nhóm áp lực. Một nhóm áp
lực có thể sử dụng các biện pháp khác nhau để gây ảnh hưởng tới luật pháp
như: có thể giành tiền hoặc thời gian trợ giúp chiến dịch tranh cử; các thành
viên của nó có thể đe dọa việc bỏ phiếu (hợp tác hoặc bất hợp tác với nhà lập
pháp); một nhóm áp lực có thể giúp cho lập pháp dễ dàng bằng cách dự thảo
các dự luật và giúp các nhà lập pháp đưa ra những cam kết thông đồng.
Hai là, phân loại theo cách so sánh các tổ chức xã hội - xã hội với
các đảng chính trị
- Các tổ chức xã hội:


6
Là những nhóm hoặc tổ chức các thành viên nhằm đạt được những mục
đích chung của tổ chức, xã hội, cộng đồng mà không cần đặt ra những mục
tiêu trực tiếp gây ảnh hưởng, tác động đến quá trình hoạch định chính sách
của nhà nước cũng như đảng phái. Chẳng hạn, hội những người làm vườn,
nuôi ong, cây cảnh, hội từ thiện, câu lạc bộ những người yêu thơ...

- Các tổ chức chính trị:
Là các đảng chính trị có mục đích hoạt động giành chính quyền, thực thi
quyền lực nhà nước. (đây là điểm khác biệt đối với các tổ chức khác).
Với mục tiêu quan trọng như vậy nên đảng chính trị được tổ chức thành
một hệ thống rất chặt chẽ, có kỷ luật, có nguyên tắc hoạt động cũng như lý
tưởng, cương lĩnh, đường lối, chiến lược một cách rõ ràng.
- Các tổ chức chính trị - xã hội:
Là những tổ chức hoạt động vì lợi ích của các nhóm, các cộng đồng xã
hội cụ thể, thông qua các phương thức gây ảnh hưởng đến chính quyền và
đảng phái (mà không đặt ra mục tiêu giành và tham gia chính quyền). Các tổ
chức chính trị - xã hội có cả hoạt động chính trị và phi chính trị.
c) Điều kiện ra đời của các tổ chức chính trị - xã hội
- Sự phát triển kinh tế thị trường và các cuộc cách mạng tư sản thế kỷ
XVII với việc áp dụng lý thuyết tự do kinh tế là căn nguyên ra đời các tổ chức
xã hội.
Như: nghiệp đoàn, nhóm trang trại và phong trào hợp tác xã những
người tiêu thụ... Nền dân chủ tư sản ở một mức độ nhất định là điều kiện để
hình thành, duy trì sự tồn tại của các tổ chức này.
- Để bảo đảm lợi ích khác nhau của các nhóm xã hội trong điều kiện
mà hiến pháp của các nước thừa nhận quyền tự do của mỗi công dân, điều đó
thúc đẩy việc hình thành các tổ chức xã hội khác nhau của người dân.
Nhà nước luôn có 2 chức năng: chức năng giai cấp – chức năng xã hội.
Tuy nhiên trên thực tế nhiều khi lợi ích của giai cấp lại đặt cao hơn lợi ích của
toàn xã hội. Vì thế, hình thành nên các tổ chức chính trị - xã hội để bảo vệ lợi
ích của các nhóm xã hội khác nhau
- Người dân tham gia tổ chức xã hội để mở rộng quyền kiểm soát hoạt
động của nhà nước - tổ chức do người dân uỷ quyền thông qua bầu cử của họ.


7

Trong xã hội hiện đại, nhà nước là do người dân ủy quyền qua bầu cử,
do vậy họ được quyền kiểm soát hoạt động của nhà nước để đáp ứng nguyện
vọng của họ. Đây là nguyên nhân để các tổ chức chính trị - xã hội xuất hiện,
trở thành người đại diện cho các nhóm lợi ích. Mặt khác, người dân chỉ có thể
được mở rộng tiếng nói, bảo vệ lợi ích khi tham gia vào một tổ chức nào đó.
1.2. Vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
- Trong xã hội hiện đại, ở mỗi hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị xã hội là cơ sở của các đảng phái, của nhà nước, là cầu nối giữa nhân dân
với chính quyền.
Các tổ chức này chính là một trong những cơ chế điều chỉnh có hiệu
quả của hệ thống chính trị các nước phát triển. Thông qua các tổ chức này,
người dân thực hiện quyền dân chủ của mình mà nhà nước đã ghi nhận.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, các tổ chức chính trị - xã hội
vừa đứng bên cạnh nhà nước, vừa đứng đối mặt với nhà nước. Một mặt,
chúng bổ sung cho nhà nước những điều nhà nước chưa làm tốt và thay thế
nhà nước để hoàn thiện việc quản lý xã hội; chúng cùng với nhà nước huy
động lực lượng, sức mạnh của xã hội để thực hiện các mục tiêu chung, hay
bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc; chúng là một yếu tố cần thiết góp phần ở
mức độ nhất định cho nền dân chủ, là diễn đàn để các công dân tham gia vào
các quá trình chính trị, xã hội. Mặt khác, chúng như là lực lượng đối trọng với
nhà nước theo nghĩa chúng phản biện nhà nước; chỉ ra những khiếm khuyết
của nhà nước; giám sát hoạt động của nhà nước, gây áp lực với nhà nước để
bảo vệ lợi ích của các thành viên.
- Các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò to lớn trong đời sống chính trị xã hội, kết nối các lợi ích và điều tiết các mâu thuẫn, các xung đột trong xã hội.
Mặc dù các tổ chức chính trị xã hội cũng có những giới hạn riêng, nhưng
chúng lại có khả năng khắc phục các giới hạn của nhà nước cũng như của thị
trường. Chúng được coi như một hệ thống "van an toàn" cho hệ thống chính trị,
bởi chúng cung cấp một phương tiện thỏa mãn nhu cầu tập hợp một cách hợp
pháp, kết nối các lợi ích và điều tiết các mâu thuẫn, các xung đột trong xã hội.



8
- Các tổ chức chính trị - xã hội không chỉ là chỗ dựa, hợp tác với nhà
nước, mà nó còn là cơ sở kiềm chế, đối trọng đối với nhà nước, giữ cho việc
thực thi quyền lực nhà nước trở nên cân bằng trong xã hội.
Các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm giữ cho việc thực thi quyền lực
của nhà nước một cách cân bằng, không thiên vị hay tạo ra đặc quyền cho một
nhóm người hay bất cứ một tầng lớp xã hội nào; thể hiện sự giám sát, phản
biện của xã hội đối với chính sách của nhà nước, tổ chức và cá nhân hoạt
động trong bộ máy nhà nước, để làm cho nhà nước đáp ứng được các yêu cầu
của các tầng lớp nhân dân.
- Các tổ chức chính trị - xã hội đáp ứng yêu cầu phi tập trung hoá
quyền lực nhà nước, chuyển một bộ phận quyền lực nhà nước cho sự tự quản
của cộng đồng, xã hội, làm cho nhà nước hoạt động ngày càng hiệu quả.
1.3. Chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội
- Chức năng đại diện
Về lý thuyết, nhà nước với chức năng công quyền là cơ quan đại điện
cho mọi công dân trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, với chức năng công
quyền, nhà nước chỉ quan tâm và có khả năng giải quyết những vấn đề chung
được ủy quyền, như duy trì trật tự chung, điều hành hoạt động chung và bảo
vệ quốc gia khỏi sự xâm hại từ bên ngoài.
Mặt khác, do bản chất giai cấp, nhà nước bị chi phối bởi lợi ích của giai
cấp thống trị. Do vậy, nhà nước bị giới hạn, không có khả năng giải quyết tốt
mọi vấn đề của lĩnh vự "tư", không thể giải quyết tốt mọi vấn đề của mọi giai
cấp, tầng lớp và cá nhân trong xã hội. Chỉ có thể thông qua các tổ chức chính
trị - xã hội của mình, nhân dân mới có điều kiện để tự giải quyết các vấn đề
của mình bằng quá trình tham gia quản lý xã hội, và đây chính là điều kiện để
mở rộng, nâng cao dân chủ trong xã hội hiện đại.
- Bổ sung và thay thế nhà nước ở một số lĩnh vực nhất định
Có những lĩnh vực mà nhà nước không thể làm được hoặc làm không
tốt. Với vai trò của mình, với tính chất đặc trưng trong phương thức tổ chức

và hoạt động, các tổ chức chính trị - xã hội có khả năng giải quyết tốt hơn.
Như vậy, nhìn tổng thể trên toàn xã hội, nhà nước có điều kiện tập trung các


9
nguồn lực có hạn của mình để thực hiện những chính sách, lĩnh vực có tầm
chiến lược hoặc thực hiện chức năng cơ bản của mình một cách hợp lý và
hiệu quả hơn.
Ví dụ: Kinh tế muốn phát triển phải có 2 bàn tay:

Nhà nước
Thị trường

Nay cần có thêm bàn tay thứ 3 là: các tổ chức chính trị - xã hội
- Chức năng vận động hành lang, gây áp lực
Các tổ chức chính trị - xã hội tác động đến cơ quan lập pháp và quá
trình lập pháp theo 3 hướng: giám sát, thúc đẩy, ngăn cản.
+ Giám sát quá trình lập pháp theo vấn đề lập pháp, tiến độ lập pháp,
nội dung lập pháp;
+ Thúc đẩy quá trình xây dựng, hoàn thiện và triển khai các quyết định
lập pháp có lợi cho mình hoặc cho những đối tượng bảo trợ cho mình;
+ Ngăn cản những chính sách, đạo luật bất lợi cho mình hoặc gây thiệt
hại cho những đối tượng bảo trợ cho mình được thông qua...
Ngoài ra, các tổ chức chính trị - xã hội còn làm trung gian giữa các các
thành viên của các ủy ban, các đảng, thậm chí giữa lập pháp và hành pháp mỗi
khi có mâu thuẫn mà bản thân những người trong cuộc không giải quyết được.
Các tổ chức chính trị - xã hội gây áp lực đối với lập pháp (dưới danh
nghĩa các hội hay các ủy ban nghiên cứu, những người có uy tín trong các tổ
chức này có vai trò quan trọng trong hoạt động hành lang); ảnh hưởng đến
quyền hành pháp (nhiều khi các đại biểu chính phủ còn biến thành "trạm" của

các tổ chức có thế lực nhất và quan trọng nhất ở tầm vóc quốc gia); áp lực đối
với tư pháp (có nước, như Mỹ, quan tòa có thể tạo thành tâm điểm của các
nhóm áp lực do hệ thống tư pháp vừa bị phi tập trung hóa, cắt rời nhau và rất
độc lập).
- Chức năng phản biện, giám sát chính quyền
Trong xã hội hiện đại, dân chủ luôn đi liền với sự kiềm chế và cân bằng
quyền lực để ngăn chặn sự lạm quyền. Các tổ chức chính trị - xã hội có chức
năng giám sát, phản biện các chính sách, hành động của chính phủ và kiểm tra
tính hiệu quả của hệ thống hành chính. Trong nhiều vấn đề có tính độc lập,


10
chính các tổ chức này đã giữ cho nó được thực hiện thông qua sự kiên trì và
áp lực đối với chính phủ và buộc chính phủ phải có trách nhiệm hơn.
1.4. Phương thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội
a) Đặc điểm tổ chức và phương thức hoạt động
- Tính quần chúng và đại chúng:
Đây là tổ chức của đông đảo các tầng lớp nhân dân ở mọi lĩnh vực khác
nhau trong xã hội.
- Tính tự nguyện, tự chủ và tự quản:
Các tổ chức chính trị - xã hội được hình thành do sự tự nguyện tham gia
của các thành viên, mọi vấn đề về tổ chức, tài chính, mục đích hoạt động đều
do sự bàn bạc và quyết định của nhóm.
- Tính phi hành chính:
Các tổ chức chính trị - xã hội không sử dụng những công cụ hành chính
của nhà nước trong tổ chức và hoạt động.
- Không sử dụng những hình thức liên kết chặt chẽ như các đảng chính
trị:
Với các đảng chính trị thường sử dụng các hình thức liên kết chặt chẽ
như: điều lệ, cương lĩnh, chương trình hành động chính trị, kỷ luật, tính tổ

chức cao, thành phần xã hội thuần nhất.
- Tính phi lợi nhuận:
Các tổ chức chính trị - xã hội không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận
như các đơn vị sản xuất kinh doanh.
- Đội ngũ cán bộ cốt cán được đào tạo, chuẩn bị theo cách riêng, phù
hợp với tính chất tổ chức, hoạt động của mỗi tổ chức.
- Chủ yếu sử dụng phương thức giáo dục, tư vấn tác động đến thành viên.
Trong các cơ chế thực thi quyền lực chính trị (cơ chế mệnh lệnh cưỡng
bức, cơ chế hệ thống thể chế, cơ chế tư vấn), thì cơ chế tư vấn là thích hợp
cho hoạt động của các tổ chức chính trị- xã hội. Tức là các hoạt động làm thay
đổi nhận thức của các đối tượng để thay đổi hành vi của họ.
b) Tài chính của các tổ chức chính trị - xã hội
- Sự đóng góp của các thành viên:


11
Là nguồn thu thường xuyên và quan trọng nhất để duy trì hoạt động của
tổ chức và trả lương cho các nhân viên chuyên trách. Ngoài ra còn một nguồn
thu quan trọng khác là từ các nhóm vận động của tổ chức.
- Từ các công ty phi lợi nhuận của tổ chức:
Các công ty này được thành lập để bảo đảm một phần tài chính cho
hoạt động của tổ chức.
- Từ sự quyên góp, tài trợ:
Đây cũng là một nguồn tài chính quan trọng. Đối với các nhóm lợi ích,
nhóm áp lực, nhóm vận động hành lang có một nguồn thu không nhỏ là sự
đóng góp của các tập đoàn kinh tế, thương mại, những người muốn thông qua
hoạt động của các nhóm này để đạt mục tiêu riêng của mình.
c) Mặt trận - hình thức tổ chức chính trị - xã hội đặc thù của một số
nước trên thế giới
Mặt trận là một hình thức tổ chức chính trị - xã hội đặc thù, khác với

các hình thức tổ chức chính trị - xã hội khác. Đây là một hình thức liên minh
chính trị từng xuất hiện ở một số nước trên thế giới từ những năm 30 của thế
kỷ XX (Ở Pháp, Tây Ban Nha năm 1934, Mặt trận nhân dân chống phát xít do
Quốc tế Cộng sản phát động năm 1935). Các hình thức mặt trận này đều tập
hợp lực lượng đấu tranh vì mục tiêu hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội và
chống chủ nghĩa phát xít. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, hình thức tập
hợp kiểu mặt trận chỉ có ở một số nước dân chủ nhân dân như Trung Quốc,
Việt Nam, Lào...
Ở Trung Quốc, Hội nghị Hiệp thương Chính trị nhân dân Trung Quốc
(chính hiệp) là một tổ chức mặt trận thống nhất rộng rãi nhất của trung Quốc,
tập hợp các tầng lớp nhân dân trong xã hội, các nhân sĩ trên mọi lĩnh vực,
thực hiện hiệp thương chính trị và chức năng giám sát, phát huy dân chủ, bàn
thảo các phương châm, chính sách lớn của nhà nước, tham gia quản lý nhà
nước. Hội nghị Hiệp thương Chính trị nhân dân Trung Quốc còn được coi là
cơ quan hiệp thương của các đảng phái, là một hình thức tổ chức quan trọng,
là diễn đàn, nơi điều hòa các mối quan hệ trong chế độ hợp tác nhiều đảng và
hiệp thương chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trung Quốc.


12
Ở Việt Nam, kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết của
dân tộc ta, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã
chủ trương đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong Mặt trận Dân
tộc Thống nhất để cùng nhau chống kẻ thù chung vì độc lập tự do của Tổ
quốc.
Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo mà đỉnh cao là
phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước,
ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
ra chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của

Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam.
Từ đó tới nay, ở mỗi thời kỳ khác nhau có những hình thức và tên gọi tổ
chức cụ thể khác nhau phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng,
nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam nơi tập hợp các giai tầng trong
xã hội vì những mục tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển. Đảng
Cộng sản Việt Nam - người chủ xướng việc hình thành Mặt trận Dân tộc
Thống nhất trong thời hiện đại - vừa là thành viên tích cực của Mặt trận vừa
bằng sự sáng tạo, đúng dắn trong đường lối, chính sách, sự gương mẫu phấn
đấu vì lợi ích chung của dân tộc đã được các thành viên của Mặt trận thừa
nhận vai trò lãnh đạo.
Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận
Dân tộc Thống nhất Việt Nam với mục tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của
khối Đại đoàn kết toàn dân phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, tự do,
hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Quan niệm, sự hình thành và phát triển của các tổ chức chính
trị - xã hội trong HTCT Việt Nam
a) Quan niệm về các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT Việt Nam
Gợi mở nêu vấn đề:
1. Nêu quan niệm về tổ chức chính trị - xã hội, kể tên một số tên gọi về tổ
chức chính trị - xã hội ở Việt Nam?


13
Tên gọi: tổ chức XH, tổ chức CT - XH, đoàn thể quần chúng, đoàn thể ND...
=> tên gọi phong phú đa dạng.
2. Mặt trận TQ là gì?
MTTQ là một tổ chức CT - XH đặc thù...
Mặt trận có: - T/c chính trị
- T/c chính trị - xã hội

- T/c xã hội
3. Quân đội có phải là tổ chức CT - XH không?
Trả lời: QĐ cũng là một tổ chức CT - XH.

***
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay gồm 3 bộ phận hợp thành:
# Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
# Đảng Cộng sản Việt Nam;
# Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam các tổ chức chính trị - xã hội gồm:
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
Là một liên minh chính trị - xã hội rộng rãi gồm gần 50 thành viên (46
thành viên), trong đó có Đảng CS Việt Nam và nhiều tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức tôn giáo, các cá nhân
tiêu biểu cho các giai cấp, dân tộc và đồng bào ta ở nước ngoài.
- Các tổ chức chính trị - xã hội trong Mặt trận: gồm Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân Việt
Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Chú ý: Các tổ chức khác còn lại trong Mặt trận TQVN dù là thành viên
của Mặt trận nhưng không phải là tổ chức chính trị - xã hội.
Như vậy, ở Việt Nam chỉ có 6 tổ chức chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất. Mọi tổ chức chính
trị - xã hội khác đều là thành viên của Mặt trận.


14
Mặt trận giai đoạn đầu có tổ chức như một nhà nước: Mặt trận Việt
Minh, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (Năm 1974, TQ đánh
Hoàng Sa Mặt trận DTGPMN phản đối).
b) Sự hình thành và phát triển của các tổ chức chính trị - xã hội

Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam có lịch sử hình thành và phát
triển gắn liền với lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam và lịch sử cách mạng
Việt Nam.
Gợi mở nghiên cứu:
1. Hội Nông dân từ 1955 đến 1975 phát triển yếu ớt, vì sao?
(từ 1958 dường như không còn tổ chức nông hội ở miền Bắc)
TL: Có HTX có vai trò như một chính quyền
Cải cách ruộng đất có nhiều sai lầm
1. Tổ chức CT - XH nào ở nước ta ra đời sau nhưng hoạt động hiệu
quả nhất?
TL: Hội cựu chiến binh

- Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám:
Những năm 20 của thế kỷ XX đã manh nha xuất hiện các tổ chức cách
mạng của quần chúng mang tính tự phát với các tên gọi khác nhau. Tổ chức
chính trị xã hội được coi là tổ chức mang tính tự giác là tiền thân của Đảng
Cộng sản, đó là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí hội) do Nguyễn Ái Quốc tổ chức ở Quảng Châu Trung
quốc năm 1925. Hội đã đề ra các nhiệm vụ cách mạng, trong đó có nhiệm vụ tổ
chức các hội như Nông hội, Công hội đỏ... Trong quá trình tiến tới thành lập
Đảng CSVN, một tổ chức chính trị - xã hội có tên là Tổng công hội đỏ Bắc kỳ
được thành lập năm 1929 theo chủ trương của Đông Dương Cộng sản Đảng.
Sau khi thành lập ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành
thiết lập và thông qua điều lệ tóm tắt của một số tổ chức chính trị - xã hội: Công
hội đỏ (Tổng Liên đoàn lao đông Việt Nam, có điều lệ riêng, thành lập:
28/7/1929), Nông hội đỏ (Hội Nông dân Việt Nam, thành lập: 14/10/1930), Hội
phụ nữ giải phóng (Hội Phụ nữ Việt Nam, thành lập: 20/10/1930), Đoàn Thanh
niên Cộng sản (Đoàn Thanh niên cộng sản HCM, thành lập 26/3/1931), Hội phản
đế đồng minh (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành lập: 18/11/1930). Các tổ chức



15
chính trị - xã hội này dã phát triển nhanh chóng ngay sau khi thành lập. Trong các
tổ chức chính trị - xã hội trên, Hội phản đế đồng minh là tổ chức liên minh của các
tổ chức chính trị - xã hội, hình thức tổ chức quần chúng rộng rãi nhất.
Năm 1941, để phù hợp với mục tiêu cứu quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội lấy tên mới. Mặt trận lấy tên là Mặt trận Việt Minh. Các tổ chức chính trị xã hội khác trong Mặt trận cũng mang tên cứu quốc: Hội công nhân cứu quốc,
đoàn thanh niên cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc.
- Trong kháng chiến chống Pháp:
Các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục phát triển rộng rãi và đa dạng
trong điều kiện hệ thống chính trị kiểu mới có một chính quyền dân chủ nhân
dân.
Cùng với việc duy trì Mặt trận Việt Minh tập hợp lực lượng chống
Pháp, một tổ chức chính trị - xã hội mới đã ra đời đó là Hội Liên hiệp quốc
dân Việt Nam, được thành lập ngày 24/5/1946. Đầu năm 1951, hai tổ chức Mặt
trận Việt Minh và Hội Liên hiệp quốc dân thống nhất lại và lấy tên là Mặt trận
Liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt. Ngoài tổ chức Mặt trận, một
số tổ chức chính trị - xã hội thời kỳ này cũng được đổi tên để phù hợp với hoàn
cảnh mới (Hội công nhân cứu quốc đổi thành Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam (7/1946), Hội Phụ nữ cứu quốc đổi thành Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam).
- Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ:
Giai đoạn này các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục phát triển trong
hoàn cảnh xây dựng CNXH ở miền Bắc và thực hiện kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Ở miền Bắc, ngày 10/9/1955 Mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam đại
hội và đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Công đoàn là một tổ chức
chính trị - xã hội phát triển mạnh vào thời kỳ này, bởi đây là thời kỳ gắn với
nhiệm vụ công nghiệp hoá ở miền Bắc, giai cấp công nhân có sự phát triển mới
cả về số lượng và chất lượng. Đại hội Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam

(8/1961) quyết định đổi tên thành Tổng Công đoàn lao động Việt Nam. Thời kỳ
này Đoàn Thanh niên cứu quốc đổi thành Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam.


16
Ở miền Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cũng được hình thành và
phát triển đáp ứng yêu cầu của cách mạng miền Nam. Ngày 20/12/1960, Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam được thành lập. Đây là một tổ chức chính
trị - xã hội rộng lớn tập hợp của 20 tổ chức chính trị - xã hội, đảng phái, tôn
giáo như: Hội Lao động giải phóng, Hội Nông dân giải phóng, Đoàn Thanh
niên cách mạng miền Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng... Ngoài tổ chức
Mặt trận, ngày 20/4/1968 các đại biểu giới trí thức và công thương miền Nam
đã họp đại hội và thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà
bình miền Nam Việt Nam để thu hút rộng rãi các tổ chức và cá nhân có tính
thần yêu nước, chống Mỹ và tay sai, tán tán thành hoà bình, trung lập, nhưng
không đứng vào hàng ngũ Mặt trận Dân tộc giải phóng. Ngày 6/6/1969, Liên
minh cùng Mặt trận Dân tộc giải phóng thành lập Chính phủ cách mạng lâm
thời miền Nam Việt Nam. Với việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời
miền Nam Việt Nam, Mặt trận được củng cố vững chắc hơn, trở thành một tổ
chức chính trị - xã hội rộng lớn tập hợp các tổ chức chính trị - xã hội khác,
củng cố khối đại đoàn kết trong cách mạng ở miền Nam.
- Sau giải phóng miền Nam đến trước đổi mới (1986):
Thời kỳ này, các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hoạt động trong
điều kiện thống nhất nước nhà, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với
việc đổi tên mới, lập ra một chính phủ thống nhất, các tổ chức chính trị - xã
hội đã lần lượt thống nhất lại giữa hai miền và đổi tên mới. Tháng 2/1977,
diễn ra Đại hội Mặt trận thống nhất và lấy tên chung là Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Trước đó, Hội Phụ nữ hai miền cũng hợp nhất thành Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam; tổ chức công đoàn hai miền cũng hợp nhất thành Tổng Công
đoàn Việt Nam. Đoàn Thanh niên hai miền hợp nhất lại, lúc đầu lấy tên là

Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh, sau đổi lại là Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh. Tổ chức Nông hội không tồn tại sau cải cách ruộng
đất, nay được khôi phục lại. Ngày 27/9/1979, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 78 về
tổ chức Hội Nông dân tập thể Việt Nam.
- Giai đoạn từ đổi mới đến nay:
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, các tổ chức chính trị - xã hội đã
phát triển với quy mô sâu rộng hơn. Tổ chức bộ máy và phương thức hoạt
động của các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều sự đổi mới theo hướng khắc


17
phục dần tình trạng hành chính, quan liêu, thụ động, tiếp tục phát huy khối đại
đoàn kết tập hợp được đông đảo quần chúng vào các tổ chức chính trị - xã
hội, các tổ chức xã hội. Số lượng thành viên trong Mặt trận Tổ quốc này càng
được tăng lên, đến nay có gần tổ chức 50 thành viên với cơ cấu Uỷ ban Mặt
trận có đủ 54 dân tộc, 6 tôn giáo và nhiều cá nhân tiêu biểu trong các tầng lớp
nhân dân.
Cùng với Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội khác cũng có những
đổi mới. Tổng Công đoàn Việt Nam đổi tên thành Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam. Tổ chức Hội nông dân tập thể được củng cố lại và đổi tên thành
Hội Nông dân Việt Nam (1988) phù hợp với tình hình nông thôn, nông dân
trong thời kỳ mới. Trong thời kỳ đổi mới, Hội cựu chiến binh được thành lập
(1989) có nhiều ấn tượng với những đóng góp thiết thực và có vai trò quan
trọng trong hệ thống chính trị. Đến nay Hội đã có 1,9 triệu hội viên ở mười
nghìn tổ chức cơ sở trong cả nước.
Kết luận rút ra:
+ Ở Việt Nam quá trình hình thành các tổ chức chính trị - xã hội gắn
với qua trình ra đời, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
+ Các tổ chức chính trị - xã hội khá đa dạng phong phú, trong từng giai

đoạn cách mạng tùy theo yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, các tổ chức chính trị xã hội đều có sự thay đổi quy mô, tên gọi và phát triển chức, năng nhiệm vụ
cụ thể.
2.2. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội
a) Hệ thống tổ chức
Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam gồm 6 tổ chức:
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
- Hội Nông dân Việt Nam
- Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
- Hội Cựu chiến binh Việt Nam.


18
Trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng
lớn nhất, đại điện quyền làm chủ của nhân dân. Đây là tổ chức chính trị - xã
hội đặc thù, là "liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị,
các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam
sinh sống ở nước ngoài"1. Thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm:
tổ chức chính trị là Đảng CSVN; các tổ chức chính trị - xã hội; các tổ chức xã
hội; Quân đội NDVN; các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, tầng lớp XH,
các dân tộc, tôn giáo, người VN ở nước ngoài.
Việc phân loại các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội trong
số thành viên của Mặt trận nêu trên chỉ là tương đối.
Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hầu hết tổ chức thành bốn cấp:
Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
ở mỗi cấp có Uỷ ban Mặt trận TQVN là cơ quan chấp hành giữa hai kỳ đại hội
của Mặt trận, do đại hội đại biểu Mặt trận cấp đó hiệp thương cử ra. Dưới Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã có Ban công tác Mặt trận của khu dân cư.

Đối với các tổ chức chính trị - xã hội khác, ở mỗi cấp có Ban chấp hành
do đại hội đại biểu các cấp bầu ra, thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng tổ
chức mình, chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới thực hiện nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và của tổ chức cấp trên; kiến nghị, đề xuất và phối hợp với các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội khác để giải quyết những vấn đề liên
quan đến công tác của tổ chức mình.
b) Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
- Theo 2 nguyên tắc cơ bản: (1) Tập trung dân chủ;
(2) Hiệp thương dân chủ
Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động.
Khi phối hợp và thống nhất hành động, các tổ chức chính trị - xã hội là thành

1

Mặt trận TQVN, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VII (phần Điều lệ), Nxb. CTQG, H. 2010, tr. 73.


19
viên của Mặt trận tuân theo Điều lệ của Mặt trận, đồng thời vẫn giữ tính độc
lập của tổ chức mình.
Các tổ chức chính trị - xã hội khác trong Mặt trận thực hiện theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc bao trùm, chi phối hợp toàn bộ cấu
trúc, quan hệ cơ chế tổ chức và vận hành của hệ thống chính trị. (Trung Quốc
+ Indonexia theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ)
c) Phương thức hoạt động
- Hoạt động trên cơ sở tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống
nhất hành động giữa các tổ chức thành viên trong Mặt trận Tổ quốc.
Mục tiêu của hiệp thương dân chủ là đi đến thoả thuận chương trình
hành dộng chung và các thành viên của mặt trận có trách nhiệm giúp đỡ nhau

trong quá trình thực hiện nội dung thoả thuận đó.
- Vận động, thuyết phục, tập hợp quần chúng tự nguyện tham gia.
- Kết hợp công tác vận động quần chúng với công tác quản lý của Nhà nước.
- Kết hợp lực lượng chuyên trách với không chuyên trách.
- Hoạt động đa dạng, linh hoạt trên cơ sở kinh phí từ ngân sách Nhà
nước, các nguồn tài trợ và đóng góp của các thành viên, hội viên.
4.2.3. Đặc điểm của các tổ chức chính trị - xã hội Việt Nam
- Do đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo.
Sự ra đời và phát triển của các tổ chức này đều gắn liền với sự ra đời và
trưởng thành của Đảng do Hồ chí Minh sáng lập. Đối với Mặt trận, Đảng
không chỉ là người lãnh đạo mà còn là thành viên của Mặt trận, một tổ chức
rộng lớn, tập hợp mọi tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Từ
đặc điểm đó cho thấy Đảng không thể lãnh đạo Mặt trận giống như lãnh đạo
các tổ chức chính trị - xã hội khác mà Đảng không phải là thành viên trong đó.
- Được tổ chức rộng khắp theo các cấp hành chính từ Trung ương đến
cơ sở.
Các tổ chức này không chỉ có mặt ở 4 cấp chính quyền, mà còn có mặt
trong nhiều đơn vị, cơ quan hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp. Ngay cả
trong một tổ chức chính trị - xã hội nào đó cũng có thể có mặt các tổ chức
chính trị - xã hội khác nhau. Các tổ chức chính trị - hội tổ chức đan xen nhau,
lồng vào nhau tạo thành khối liên hệ chặt chẽ.


20
- Thường có chức năng chính trị nổi trội hơn chức năng xã hội (nhất là
trong giai đoạn đầu).
Trong những giai đoạn nhất định, có tổ chức chính trị - xã hội như Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn đóng vai trò như một tổ chức chính
quyền nhà nước. Tính nổi trội về chính trị trong tổ chức và hoạt động của các
tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam còn thể hiện rất rõ trong việc đội ngũ

cán bộ trong các tổ chức này hưởng lương từ ngân sách nhà nước và bản thân
lương của đội ngũ này được xếp vào ngạch bậc công chức nhà nước.
Các tổ chức chính trị - xã hội có chức chính trị, có chức năng xã hội,
nhưng chức năng xã hội ngày càng nhiều, trong lúc chức năng chính trị ngày
càng mờ nhật dần.
- Mặt trận Tổ quốc là tổ chức chính trị - xã hội đặc thù.
Bởi nó là liên minh giai cấp về chính trị - xã hội; được tổ chức từ trung
ương xuống cơ sở; được hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước.
2.4. Vị trí, chức năng, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
a) Vị trí của các tổ chức chính trị - xã hội
- Các tổ chức chính trị - xã hội có vị trí quan trọng, là một trong 3 bộ
phận cơ bản cấu thành hệ thống chính trị Việt Nam.
- Các tổ chức chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; là nơi phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
b) Chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội
- Chức năng đại điện, bảo vệ lợi ích của các thành viên, hội viên
Đây là đòi hỏi tất yếu của các tổ chức chính trị - xã hội, bởi mục đích
hoạt động của chúng trước hết là vì lợi ích của tổ chức hay nhóm của mình.
Trong các tổ chức chính trị, mặt trận là tổ chức rộng rãi nhất, không có hội
viên nhưng có trách nhiệm bảo vệ lợi ích các thành viên trong liên minh. Còn
mỗi thành viên có trách nhiệm bảo vệ lợi ích thiết thực của mỗi hội viên, làm
cho lợi ích của mỗi thành viên, hội viên không đối lập với lợi ích chung của
đất nước của xã hội.
- Tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí
về chính trị và tinh thần trong nhân dân


21
Đây là chức năng, nhiệm vụ hàng đầu của các tổ chức chính trị - xã hội
mà đặc biệt là tổ chức Mặt trận.

Hiến pháp năm 1992 quy định: Phát huy truyền thống đoàn kết toàn
dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tinh thần trong nhân dân".
Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng nêu rõ: Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng
cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân.
- Tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Chức năng này đã được xác định từ rất sớm, song chỉ sau thời kỳ đổi
mới, cùng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thì chức năng này
mới được xác định rõ ràng hơn trong hệ thống pháp luật.
Hiến pháp 1992 quy định: Nhiệm vụ của các tổ chức chính trị - xã hội
là "động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp và pháp luật".
- Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân
Việc tham gia xây dựng chính quyền được thể hiện ở các công việc sau:
+ Tham gia công tác bầu cử;
+ Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật;
+ Tham gia tố tụng, tuyển chọn Thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm Toà án
nhân dân.
- Giám sát và phản biện xã hội
Chức năng giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội đã được quy định
trong Hiến pháp và Luật Mặt trận TQVN năm 1999.
Chức năng phản biện xã hội chưa được quy định trong Hiến pháp và
pháp luật, nhưng chủ trương này đã được Đảng ta nêu ra trong những năm
gần đây. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: "Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách,
tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả,
thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội"2.
Hỏi:
1. Tại sao Việt Nam hiện nay lại coi trọng chức năng phản biện xã hội?
2


Đảng CSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQH, H. 2011, tr.87.


22
TL: Vì chúng ta một đảng cầm quyền để khắc phục tính độc quyền của Đảng;
để bảo đảm dân chủ hơn, phát huy được vai trò của mọi tầng lớp nhân dân.
Nguyễn Cao Kỳ cho rằng: “Ở Việt Nam đảng độc quyền là đúng vì Việt Nam
có tổ chức Mặt trận là người phản biện lại Đảng nên không cần phải có đảng khác
để phản biện và làm đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam”
Đây là ý kiến khách quan và đúng với thực tế.
Vì ở Sinh ga po cũng 1 đảng nhưng phát triển rất mạnh.
2. Các tổ chức chính trị - xã hội tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác
với các nước trên thế giới?
TL: Thực chất, đây là hình thức hoạt động "đối ngoại nhân dân" của các tổ chức
chính trị - xã hội trong điều kiện đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế của nước ta.

c) Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội thể hiện ở hai điểm cơ bản:
- Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tạo sự đồng thuận xã
hội để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng.
Đây là vai trò quan trọng nhất của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị Việt Nam.
- Đại điện, bảo vệ lợi ích và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Đại hội X của Đảng xác định, các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam
không chỉ có vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân mà còn có
vai trò "đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân".
2.5. Thực trạng hoạt động và giải pháp nâng cao vai trò của các tổ
chức chính trị - xã hội trong giai đoạn hiện nay

a) Thực trạng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội
* Những kết quả đạt được:
Qua hơn 20 năm đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây, tổ chức và
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều đổi mới. Vị trí, vai trò
của các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được khẳng định và nâng cao trong
đời sống xã hội. Kết quả được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau:


23
- Các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt Mặt trận có nhiều hình thức
tập hợp quần chúng vào các tổ chức, với nhiều sáng kiến xoá đói giảm nghèo,
tương trợ lẫn nhau, tích cực bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các thành viên,
hội viên, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân.
- Các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều thành tích trong phát động các
phong trào thi đua, các cuộc vận động, phát huy mọi nguồn lực thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ phát triển đất nước.
- Các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là Mặt trận tích cực tham gia
đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân.
Biểu hiện như tuyên truyền vận động nhân dân tham gia xây dựng và
thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước; tham gia
tổ chức các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; giám sát các
hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, công chức nhà nước với
sự đổi mới cách làm thiết thực hơn.
- Coi trọng hơn công tác xây dựng, củng cố tổ chức, đào tạo bồi dưỡng
cán bộ và đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức.
* Những mặt hạn chế:
- Hệ thống tổ chức từ trên xuống dưới theo 4 cấp như hiện nay tỏ ra
quá rườm rà và mang nặng tính hành chính, làm cho hoạt động của các tổ
chức thiếu tính chủ động, sáng tạo.

Tình trạng hành chính hoá, cánh tay nối dài của Đảng và chính quyền
=> không độc lập được => không giám sát, phản biện được.
{Vụ Đoàn Văn Vươn: các tổ chức chính trị - xã hội không lên tiếng (chỉ
có Hội nuôi trồng thuỷ sản lên tiếng.
UB kiểm tra Đảng do cấp uỷ bầu, dưới quyền cấp uỷ => không độc lập
được => không kiểm tra được}
- Đội ngũ cán bộ của Uỷ ban Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội
còn yếu về năng lực và thiếu về số lượng, không ổn định, đặc biệt là ở địa
phương cơ sở; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa cơ bản và có hệ


24
thống; công tác đãi ngộ với cán bộ làm công tác ở các tổ chức này còn thiếu
hợp lý.
- Việc tập hợp nhân dân vào các tổ chức chính trị - xã hội còn nhiều
hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
và khu vực có đời sống kinh tế khó khăn.
Nội dung, hình thức hoạt động còn nghèo nàn; chưa chú ý chức năng
bảo vệ lợi ích của các thành viên, hội viên; chưa thực sự là tổ chức hấp dẫn
đối với quần chúng, một số nơi, một số tổ chức hoạt động dường như bó hẹp
ở bộ phận chuyên trách.
- Các tổ chức chính trị - xã hội chưa làm tốt công tác tuyên truyền giáo
dục pháp luật trong nhân dân; chưa huy động được đông đảo nhân dân tham
gia phong trào đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Hoạt động
còn mang tính phong trào bề nổi, thiếu chiều sâu.
- Hoạt động giám sát còn nhiều yếu kém, bước đầu mới chỉ chủ yếu ở
cơ sở. Hoạt động phản biện xã hội chưa được triển khai thực hiện cụ thể
trong hệ thống chính trị.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
Nguyên nhân chính của những hạn chế trên chủ yếu là do phương thức

lãnh đạo của đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội còn bất cập; nhiều
cấp uỷ đảng và chính quyền chưa nhận thức sâu sắc về đại đoàn kết dân tộc và
vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong thời kỳ đổi mới, còn xem nhẹ
hoạt độngcủa các tổ chức chính trị - xã hội, chưa thực hiện nghiêm túc Luật
Mặt trận TQVN; còn thiếu cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội
thành viên thực thi quyền và trách nhiệm do Luật quy định.
b) Giải pháp nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội hiện
nay
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Bác Hồ: - Lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân.
- Đảng cầm quyền đảng phải hoá thân vào chính quyền mới
bảo đảm cầm quyền
Do vậy:


25
+ Cần nâng cao chất lượng các định hướng trong chủ trương đường lối
lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chức chính tri - xã hội về các mặt
chính trị, tư tưởng, nội dung, phương thức hoạt động, tổ chức và cán bộ.
+ Thể chế hoá kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng về dân vận,
về tổ chức chính trị - xã hội thành văn bản pháp quy của Nhà nước.
+ Đảng phải tiến hành công tác quần chúng bằng chính sức mạnh của
Đảng, bằng sự gắn bó với dân, bằng sự gương mẫu của từng đảng viên trong
mọi công việc theo khẩu hiệu: "đảng viên đi trước, làng nước theo sau".
- Tăng cường sự phối hợp của Nhà nước đối với các tổ chức chính trị xã hội.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, cần thể chế
hoá các nghị quyết, quan điểm của Đảng bằng các văn bản mang tính pháp lý
của Nhà nước.
- Tiếp tục đổi mới bộ máy cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ

chức chính trị - xã hội
+ Đổi mới về công tác cán bộ:
Hiện nay tổ chức bộ máy của các tổ chức chính trị - xã hội đều theo mô
hình cơ quan nhà nước nên hoạt động thường mang tính hành chính hơn là
tính chất của các đoàn thể nhân dân. Vì vậy, cần tinh giản gọn nhẹ hơn bằng
cách bỏ bớt cấp trung gian và các ban bệ mang tính hình thức. Tập trung kiện
toàn tổ chức, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Cần phát huy vai trò của các cá nhân
tiêu biểu, những người có uy tín trong các tầng lớp dân cư đối với tổ chức và
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội. Đối với tổ chức Mặt trận, cần
hình thành một cách hợp lý đội ngũ cán bộ chuyên trách, mở rộng đội ngũ
cộng tác viên, các chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực.
Đổi mới tổ chức bộ máy các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng
không nên quá gò bó, theo khuôn sáo nhất định, không chạy theo số lượng
thành viên, hội viên, đoàn viên. Bảo đảm các hội viên tham gia tổ chức hoàn
toàn tự nguyện theo nhu cầu của bản thân họ.
+ Đổi mới phương thức hoạt động:
Các tổ chức chính trị - xã hội cần đổi mới phương thức hoạt động của
mình theo hướng:


×