Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN đặc điểm, CHỨC NĂNG PHƯƠNG THỨC LÃNH đạo của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM và vấn đề xây DỰNG ĐẢNG VŨNG MẠNH về CHÍNH TRỊ, tư TƯỞNG, tổ CHỨC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.23 KB, 20 trang )

1

ĐẶC ĐIỂM, CHỨC NĂNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VỮNG MẠNH
VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG, TỔ CHỨC HIỆN NAY

MỞ ĐẦU

Đảng cộng sản là một tổ chức độc lập về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
nắm quyền lãnh đạo cách mạng, gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn trung thành và vận
dụng sáng tạo lý luận học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
cộng sản vào thực tiễn đất nước, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, đáp ứng
yêu cầu lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của nhân và của dân tộc, nên đã quy
tụ được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, đấu tranh giành
thắng lợi to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay.
Từ sau thắng lợi của cách mạng Tháng 8 năm 1945, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã trở thành đảng cầm quyền, nhất là trong hơn 25 năm đổi mới vừa qua,
Đảng ta với vị thế là đảng cầm quyền đã tích lũy và làm phong phú hơn những
kinh nghiệm của mình. Song, thực tế cầm quyền của Đảng vẫn đang đặt ra
không ít vấn đề cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Có nhiều điểm rất mới
được chế định từ giai đoạn đất nước mở cửa, hội nhập quốc tế, phát triển nền
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, cần tiếp tục luận giải, tổng kết
và phát triển nhằm không ngừng nâng cao vị trí, vai trò và năng lực lãnh đạo của
Đảng ta ngang tầm nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
1. Trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền có nhiều đặc điểm chi
phối hoạt động xây dựng và lãnh đạo của Đảng.
Nhiệm vụ chính trị của Đảng thay đổi căn bản: Khi đã đấu tranh lật đổ chế
độ cũ, giành được chính quyền, thiết lập được sự thống trị của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đối với toàn bộ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng


cộng sản tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới và


2

bảo vệ những thành quả cách mạng đã đạt được. Khi đã có chính quyền, giai cấp
công nhân từ địa vị nô lệ, cùng với nhân dân lao động lên nắm giữ vai trò làm
chủ đất nước. Khi đó nhiệm vụ của Đảng, của giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động thay đổi căn bản so với trước khi chưa giành được chính
quyền. Nhiệm vụ tổ chức xây dựng và quản lý đất nước là một nhiệm vụ có nội
dung đa dạng, phong phú, rộng lớn và tính chất mới mẻ, phức tạp, khác với nhiệm
vụ giành chính quyền. Theo V.I Lênin, đây là thời kỳ chủ nghĩa xã hội từ lĩnh vực
lý luận chuyển sang lĩnh vực thực tiễn, nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ
chủ yếu và trung tâm. Vì vậy, đòi hỏi phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản
cũng phải đổi mới để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Đảng cầm quyền, trọng trách của Đảng trước vận mệnh của toàn dân tộc rất
to lớn, xây dựng xã hội phát triển toàn diện, đất nước giàu mạnh, nhân dân tự do,
ấm no hạnh phúc. Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội rất khó khăn, gian khổ,
lâu dài, đặt ra những yêu cầu mới. Trước đây, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là đấu
tranh lật đổ chính quyền cũ của giai cấp bóc lột thì hiện nay nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng là lãnh đạo xây dựng chính quyền mới của giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động, phát huy vai trò của chính quyền trong xây dựng, phát triển
kinh tế - xã hội, bảo vệ và phát triển đất nước.
Có nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân là
công cụ để quản lý và điều hành đất nước: Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là
công cụ sắc bén để Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội. Thông
qua các hoạt động của Nhà nước mà quan điểm, đường lối, chính sách lớn của
Đảng được cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Để đảm
bảo cho Nhà nước phát huy hiệu lực, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân phải có sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Vì vậy, tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng không đối lập mà thống nhất với nâng cao quyền lực của Nhà
nước đối với việc quản lý và điều hành đất nước. Thông qua sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước mà Đảng củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng
với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo Nhà nước là điều


3

kiện cơ bản khẳng định địa vị cầm quyền của Đảng. Thông qua việc lựa chọn
đội ngũ đảng viên của Đảng bố trí vào làm việc, giữ hầu hết các cương vị chủ
chốt trong các cơ quan Nhà nước, để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng cầm
quyền. Tuy nhiên, khi có chức, có quyền đội ngũ cán bộ, đảng viên nếu thiếu tu
dưỡng, rèn luyện sẽ dẫn đến quan liêu, hách dịch, xa rời quần chúng, tham ô,
tham nhũng, thoái hoá biến chất, làm suy yếu Đảng và Nhà nước.
Phương pháp lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi khác trước: Đảng cộng
sản cầm quyền lãnh đạo đất nước khi mà nhiệm vụ chính trị có sự thay đổi và sự
ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thì phương pháp lãnh đạo của Đảng cũng
có nhiều thay đổi. V.I Lênin đã chỉ rõ: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải
giải quyết những nhiệm vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử
dụng những phương pháp của ngày hôm qua”1. Có nghĩa là khi có chính quyền,
Đảng phải biết loại trừ khỏi “cẩm nang” của mình những phương pháp, hình
thức lãnh đạo không phù hợp. Nhiệm vụ xây dựng đòi hỏi phải sáng tạo nhiều
phương pháp, hình thức mới ngày càng phong phú như: kết hợp giáo dục chính
trị tư tưởng với khuyến khích vật chất; kết hợp giữa giáo dục với hành chính và
cưỡng bức; kết hợp giữa công tác tư tưởng, công tác tổ chức.
* Cùng với những đặc điểm chung của các Đảng cộng sản, với Đảng
Cộng sản Việt Nam còn có những đặc điểm riêng:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trưởng thành, lãnh đạo chính quyền gắn
liền với chiến tranh cách mạng lâu dài
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, từ đó Đảng ta trở thành

Đảng cầm quyền. Nhưng do phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp, cho
nên từ 1954 – 1975 Đảng ta lãnh đạo toàn dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến
lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến tranh giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước. Sau 30/4/1975 Đảng ta mới có điều kiện
tập trung lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng lại bị hai cuộc chiến
tranh ở biên giới Tây Nam và phía Bắc chi phối. Quá trình ra đời và trưởng
1

V.I Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr 398.


4

thành của Đảng ta gắn liền với chiến tranh cách mạng lâu dài. Đảng ta được tôi
luyện trong lò lửa chiến tranh cách mạng, Đảng có bản lĩnh chính trị kiên định với
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có nhiều tri thức và kinh nghiệm lãnh
đạo chiến tranh; có đội ngũ cán bộ và đảng viên được thử thách và rèn luyện trong
chiến tranh cách mạng. Tuy nhiên, Đảng còn thiếu kiến thức kinh nghiệm lãnh đạo
phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu
của tình hình mới, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về sự lãnh đạo của Đảng và công
tác xây dựng Đảng”2.
Đảng ta cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền sản
xuất nhỏ, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng
Đảng ta lãnh đạo đất nước bước vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội
từ đặc điểm nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến. Cơ sở hạ
tầng đất nước bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội nhưng lại rất khó khăn, yếu kém về cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất
công nghiệp. Những năm 1990 của thế kỷ XX chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên

Xô và các nước Đông Âu tan rã, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bao
vây cấm vận, tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, đòi hỏi năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta phải kiên cường, bền bỉ, sáng tạo mới
có thể đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta đi tới thắng lợi. Kinh
nghiệm qua hơn 25 năm đổi mới cho thấy, mọi đường lối, chủ trương, chính
sách lớn của Đảng phải khơi dậy và phát huy được tiềm năng lớn về tài nguyên,
lao động và truyền thống vốn có của dân tộc Việt Nam, phát huy được sức mạnh
toàn dân tộc, đồng thời phải nhanh chóng nắm bắt được xu thế của thời đại,
tranh thủ sự giúp đỡ và hợp tác quốc tế, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức Để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi, phát triển đất nước theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa.
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, Tr 262


5

2. Chức năng, phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chức năng của Đảng là chức năng lãnh đạo, khác với chức năng quản lý
của Nhà nước. Xác định rõ chức năng để không biến Đảng thành cơ quan quyền
lực Nhà nước, làm thay Nhà nước. Đảng không có quyền lực Nhà nước nhưng
Đảng có quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị của Đảng được thiết lập bằng
vị trí, vai trò, chức năng của Đảng trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân; bằng bản lĩnh, lập trường, quan điểm khoa học và cách mạng của
Đảng, bằng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; bằng cơ sở chính trị xã hội của Đảng, bằng những lợi ích mà Đảng mang lại cho quần chúng nhân
dân lao động.
Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là tổ chức quyền lực như Nhà nước,
nhưng để lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị thì
Đảng phải có quyền lực chính trị. Sự lãnh đạo chính trị của Đảng tác động đến

toàn bộ hệ thống để bảo đảm giữ vững quyền lực chính trị của nhân dân. Một
nguyên tắc đó là Đảng không chia sẻ quyền lãnh đạo chính trị cho bất cứ một
đảng phái hay cá nhân nào. Điều đó rất quan trọng, quyết định sự tồn vong của
Đảng và chế độ. Mọi mưu toan đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập đều
nhằm mục đích chia sẻ và loại bỏ quyền lãnh đạo chính trị của Đảng trong xã
hội. Chính vì vậy, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng cũng phải giữ vững quyền
lãnh đạo chính trị và chức năng lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội.
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Đảng ta lãnh đạo nhà nước và
xã hội. Trong điều kiện Đảng cầm quyền phải phân biệt rõ hai chức năng, hai
phương thức: lãnh đạo và quản lý nhà nước vừa phải phối hợp thống nhất chúng
trong hoạt động của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và sự quản
lý của nhà nước chỉ khác nhau ở phương thức tổ chức và hoạt động, nhưng đều
thống nhất ở mục tiêu cao cả. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan
điểm, chủ trương, các nghị quyết, quyết định, nguyên tắc giải quyết các vấn đề
trọng đại của đất nước; xử lý các vấn đề cụ thể nhưng có ý nghĩa chính trị quan
trọng, quan hệ đến nhiều tầng lớp, những vấn đề phức tạp trong quan hệ quốc tế.


6

Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm,
chủ trương chính sách lớn của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các
chương trình, mục tiêu lớn của Nhà nước, bảo đảm cho nghị quyết của Đảng đi
vào cuộc sống một cách nhanh nhất và đầy đủ. Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức
hệ thống chính trị phù hợp với nhiệm vụ mới, bảo đảm xây dựng được một nhà
nước có hiệu lực, hiệu quả cao. Đảng lãnh đạo Nhà nước và các đoàn thể thông
qua việc thống nhất lãnh đạo và quản lý công tác tổ chức cán bộ và đội ngũ cán
bộ chủ chốt công tác trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể, đồng thời tôn
trọng phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, phát huy
mọi sáng kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Đảng đề ra các quan điểm, chủ trương về công tác cán bộ trên tất cả các khâu
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ. Đồng thời Đảng quyết
định những chính sách lớn về cán bộ. Đảng trực tiếp bố trí và quản lý các cán bộ
của các tổ chức đảng trong các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể (Đảng đoàn, ban
cán sự đảng). Đối với các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác thì Đảng chỉ giới
thiệu nhân sự có đủ tiêu chuẩn để các tổ chức đó lựa chọn, quyết định. Đảng tôn
trọng cơ chế bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ của Nhà nước cũng
như của các tổ chức khác, không gò ép, áp đặt.
Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, đủ
năng lực và hoạt động có hiệu quả, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân: chăm lo xây dựng và củng cố các đoàn thể chính trị - xã hội đủ sức tập hợp
rộng rãi quần chúng nhân dân và phát huy có hiệu quả quyền làm chủ của họ
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng đề ra các quan điểm, nguyên tắc, tư
tưởng chỉ đạo việc xây dựng tổ chức và hoạt động của các tổ chức ấy. Đảng
không can thiệp vào công việc tổ chức cụ thể của các thành viên khác trong hệ
thống chính trị. Kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo bằng tổ chức với lãnh đạo qua
các cá nhân đảng viên theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên.


7

Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, tổ chức
công luận, hướng dẫn công luận để tạo ý chí chung. Đảng kiểm tra, giám sát
hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua tổ chức đảng, đảng viên, các ban của
đảng; đồng thời lãnh đạo công tác thanh tra của nhà nước; lãnh đạo tổ chức động
viên quần chúng kiểm tra, giám sát công việc và hoạt động của nhà nước; phát
hiện các mặt tốt để phát huy, mặt yếu kém, tiêu cực để uốn nắn. Thông qua kiểm
tra, tổng kết kinh nghiệm để bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương chính
sách của đảng và nhà nước.

Để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, Đảng phải có trí tuệ ngang
tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới. Hoạch định đường lối đúng đắn, có năng lực thể
chế hóa đường lối, chủ trương thành pháp luật, chính sách. Lãnh đạo xây dựng
được một Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Xây dựng được đội ngũ cán bộ cầm quyền có phẩm chất đạo đức tốt, có năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo và quản lý cao để làm cho đường
lối đó thành hiện thực. Phát huy được sức mạnh của các thành viên trong hệ
thống chính trị.
3. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây
dựng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng cần phải có
đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, giải quyết chính xác những vấn đề
thực tiễn đặt ra. Nhưng để có đường lối đúng đắn trong hoàn cảnh bình thường
đã khó, ở những bước ngoặt lịch sử, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, khu vực có
những diễn biến nhanh chóng và phức tạp như hiện nay lại càng khó khăn hơn
nhiều. Bởi vậy, vấn đề đặt ra và trở thành yêu cầu bức thiết hiện nay là phải tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng chỉnh đốn Đảng trên tất
cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhằm đảm bảo cho Đảng xứng đáng
với vai trò một Đảng cầm quyền, đưa cách mạng việt nam không ngừng phát
triển trong thời kỳ mới.


8

* Về mặt chính trị, tư tưởng
Đây là vấn đề cốt tử, vấn đề bao trùm quan trọng hàng đầu, quyết định
nhất tới toàn bộ hoạt động của Đảng, cũng như toàn bộ công tác xây dựng Đảng
hiện nay, nhằm bảo đảm cho Đảng luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đứng trên lập trường giai cấp để có

cương lĩnh, đường lối chích trị đúng đắn cho mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát
triển của cách mạng, đáp ứng yêu cầu lịch sử, tạo sự đoàn kết thống nhất tư
tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân.
Điểm quan trọng hàng đầu để độc lập về chính trị, tư tưởng là giữ vững và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực trí
tuệ, năng lực hoạch định đường lối và tổ chức thực tiễn, rèn luyện đạo đức cách
mạng chống chủ nghĩa cá nhân. Đây là thuộc tính cơ bản nhất, là vấn đề bao
trùm của Đảng, có ý nghĩa quyết định nhất đối với vai trò, vị trí, chức năng,
nhiệm vụ và các mối quan hệ của Đảng, là vấn đề có tính nguyên tắc với tất cả
các Đảng mác xít chân chính. Điều đó càng quan trọng đối với Đảng ta, một
Đảng ra đời và trưởng thành ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông
nghiệp chậm phát triển, số lượng giai cấp công nhân khi Đảng mới ra đời chỉ
hơn 1% dân số, trong khi đó nông dân chiếm hơn 90%. Vì thế việc vạch ra
đường lối đúng và bảo đảm cho đường lối ấy thực hiện thắng lợi có liên quan
đến nhiều mặt trong việc giữ vững sự lãnh đạo của Đảng.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được biểu hiện tập trung ở nền
tảng tư tưởng, ở mục tiêu lý tưởng, đường lối chiến lược, sách lược, ở nguyên
tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng. Bản chất đó còn được biểu hiện ở phẩm chất
năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên và mỗi quan hệ Đảng với nhân dân,
Đảng với quan hệ quốc tế. Tất cả những vấn đề đó đặt ra nếu không nhận rõ và
khảng định bản chất giai cấp, không có biện pháp tích cực bồi dưỡng giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của Đảng thì Đảng sẽ bị biến chất. Vì thế, giữ vững
bản chất giai câp công nhân, tính tiền phong của Đảng là nội dung xuyên suốt có
ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng


9

hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời là biện pháp cơ bản cấp bách để nâng

cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm lành
mạnh hóa đời sống kinh tế-xã hội, chống những tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường và các hoạt động chống phá của kẻ địch.
Hiện nay đất nước ta đang chuyển sang giai đoạn mới, Đảng ta đang đứng
trước thử thách về bản lĩnh chính trị, uy tín, năng lực lãnh đạo của mình. Trong
những năm qua công tác xây dựng Đảng có nhiều kết quả tốt, nhưng cũng có
nhiều điểm yếu bất cập như: phương pháp lãnh đạo, năng lực quản lí của một số
cấp ủy đảng còn yếu kém, trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, mà đặc biệt
là sự sa sút về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một số cán bộ đảng viên đang là
vấn đề nổi cộm gây ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và xói mòn
lòng tin đối với Đảng, điều này đã được đánh giá rõ trong các nghị quyết của
Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI).
Sự thoái hóa về tư tưởng và lập trường chính trị hiện nay là sự biểu hiện ở
sự phủ nhận những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác- lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Sự phủ nhận về mặt lí luận tất yếu sẽ có những quan điểm sai lầm phản
động, nguyên nhân sự thoái hóa đó là nhận thức lí luận còn hạn chế, do không
được đào tạo bồi dưỡng đầy đủ, kịp thời, khi chuyển sang kinh tế thị trường có
sự thiếu hụt căn bản về kiến thức, trình độ năng lực... song nguyên nhân cơ bản
của sự thoái hóa biến chất trước hết và chủ yếu là do nhận thức, do lập trường
giai cấp không vững, thiếu kiên quyết và triệt để, còn để chủ nghĩa cá nhân len
lỏi, trong khi đó lại kém tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng, đến nay có môi
trường thuận lợi, chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy che khất lí tưởng chính trị, lập
trường giai cấp. Như vậy, bản chất giai cấp công nhân của Đảng quyết định đến
tính độc lập, nền tảng tư tưởng và việc xây dựng đường lối chính trị của Đảng,
tác động đến hoạt động của Đảng, do vậy vấn đề quan trọng là phải giữ vững và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Song trong công tác xây


10


dựng Đảng bao gồm tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức. Do đó không chỉ
xây Đảng về chính trị, tư tưởng mà còn xây dựng về mặt tổ chức Đảng.
Trong mỗi kỳ đại hội, Đảng ta đều xác định các chủ trương, biện pháp xây
dựng Đảng. Gần đây nhất là Đại hội XI của Đảng khẳng định, trong những năm
tới cần “tăng cường xây dựng Đảng về chính trị” 3, tập trung vào những vấn đề
chủ yếu: “kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng
sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ
của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ
chất các cấp; không dao động trong bất kỳ tình huống nào. Kiên định đường lối
đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô
nguyên tắc...”4. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, tập
trung vào những nội dung chủ yếu: “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội,
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong
quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước...tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức,
nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tuyên
truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”5.
Để thực hiện đạt hiệu quả những nội dung chủ yếu nêu trên, tăng cường
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí
tuệ của Đảng trong điều kiện hiện nay, cần thực hiện tốt những giải pháp chủ
yếu sau đây:
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí
tuệ của Đảng. Bản lĩnh chính trị của Đảng là khả năng và ý chí kiên định chính
trị của Đảng trước mọi hoàn cảnh, nhất là trước những khó khăn, phức tạp, Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 255.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 255.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 255-257.

3
4


11

vững vàng đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, lãnh đạo phát huy vai trò của
Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị để tiến hành công cuộc đổi
mới thành công. Trình độ trí tuệ của Đảng là tổng hợp các tri thức mà Đảng đạt
được trong từng giai đoạn, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giành
thắng lợi. Đó là tổng hợp các tri thức chủ yếu như: lý luận chính trị, kinh tế,
khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh, khoa học xã hội và nhân văn ...
Những tri thức ấy phải được vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Bản lĩnh
chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng quan hệ mật thiết với nhau và là một trong
những yếu tố quan trọng của xây dựng Đảng.
Trong công cuộc đổi mới phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mở cửa, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, bản
lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng là một vấn đề đặc biệt quan trọng đối
với thắng lợi của công cuộc đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó đảm bảo cho Đảng vừa kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu, con đường xã hội chủ
nghĩa đã chọn, vừa đề ra đường lối, giải pháp đúng đắn và sáng tạo, bình tĩnh,
sáng suốt xử lý một cách khoa học, hiệu quả các tình huống phức tạp xuất hiện
trong thực tiễn, lãnh đạo công cuộc đổi mới giành thắng lợi.
Bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng được tạo nên bởi các nhân
tố chủ yếu như: trình độ về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đây
là nhân tố cốt lõi; trình độ về các khoa học khác như: các quy luật phát triển của
xã hội, quy luật kinh tế, kinh tế thị trường, thế giới đương đại, thông lệ quốc tế,
khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lãnh đạo, quản lý, tâm lý học, khoa học
và công nghệ, quốc phòng, an ninh…; trách nhiệm cao cả của Đảng trước nhân

dân, đất nước, dân tộc và tình thương yêu, gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân
dân; sự rèn luyện bền bỉ, dẻo dai của Đảng trong thực tiễn cách mạng, sự đối
mặt và vượt qua những khó khăn thách thức trong quá trình lãnh đạo cách mạng
của Đảng.


12

Để nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần thực hiện tốt
những nội dung như:
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không giáo
điều, máy móc; kiên định con đường xã hội chủ nghĩa và mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và điều kiện cụ thể hiện nay của nước ta. Cần tổ chức
nghiên cứu một cách hệ thống, cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhận thức lại những vấn đề chủ yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, chỉ ra một cách rõ ràng, khoa học, khách quan những vấn đề của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã được thực tiễn vượt qua. Tăng cường phê phán những
tư tưởng, ý kiến phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết
đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận. Nghiên cứu lý
luận theo hướng tăng cường dân chủ, tôn trọng những ý kiến cá nhân, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa khoa học và chính trị. Tiếp tục đổi mới toàn diện
công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống trường Đảng, mà trọng tâm là
đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung phương pháp học tập và giảng dạy
theo hướng nâng cao tính thiết thực hiệu quả. Đối với công tác tư tưởng cần đổi
mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, phương pháp công tác tư tưởng trong Đảng

theo hướng đa dạng, phong phú, thiết thực, gắn với thực tiễn, với cơ sở. Nâng
cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, đẩy mạnh sinh hoạt theo
chuyên đề, khắc phục một bước cơ bản tình trạng nghèo về nội dung, đơn điệu
về hình thức, chất lượng thấp của sinh hoạt chi bộ; nâng cao tính giáo dục của
sinh hoạt chi bộ. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận,
củng cố, nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác lý luận, tư
tưởng, tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ tư tưởng, lý luận, nhất là cán


13

bộ chủ chốt. Đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả việc phòng chống suy thoái về
tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tăng cường bảo vệ
đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đấu tranh không khoan nhượng các quan điểm sai trái, thù địch.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ việc xây dựng và tổ chức thực hiện các nghị
quyết của Đảng, ngày càng hoàn thiện đường lối đổi mới.
Các nghị quyết của Đảng được xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi,
sẽ ngày càng làm sáng tỏ những vấn đề mới trong thực tiễn đổi mới, bổ sung và
làm cho đường lối đổi mới của Đảng ngày càng hoàn thiện. Những hoạt động
này được đổi mới mạnh mẽ, có hiệu quả là nhân tố quan trọng nhất quyết định
thành tựu xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng; vị thế và năng lực lãnh đạo của
Đảng được khẳng định và nâng lên. Để đạt được điều này, cần:
Đổi mới việc xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên các cấp, nhất là cấp chiến
lược. Đây là những cán bộ có thẩm quyền xây dựng, ban hành và chỉ đạo tổ
chức thực hiện các nghị quyết của các tổ chức đảng ở các cấp. Những cán bộ
này phải hội đủ các tiêu chuẩn đã được xác định. Trong đó, cần đặc biệt coi
trọng và nhấn mạnh về bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực tư duy, kinh
nghiệm tổ chức thực tiễn, phong cách làm việc khoa học, đoàn kết nội bộ, phẩm
chất đạo đức, lối sống, những cán bộ cấp chiến lược phải có tầm nhìn và sự nhạy

bén trong phát hiện và đề xuất những vấn đề chiến lược. Những tiêu chuẩn này
phải được thể hiện trên thực tế bằng hiệu quả công việc và được thực tiễn kiểm
nghiệm.
Trên cơ sở tiêu chuẩn đã quy định những cán bộ phải được lựa chọn thật
sự dân chủ; dân chủ trong giới thiệu, bỏ phiếu tín nhiệm, thảo luận tạo sự nhất
trí cao trong Đại hội Đảng các cấp và trong tiến hành công tác cán bộ của Đảng.
Xây dựng và thực hiện quy chế ra nghị quyết của Đảng, bảo vệ quyền của những
người có ý kiến thiểu số, trên cơ sở nhận thức sâu sắc nguyên tắc tập trung dân
chủ. Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp nhuần nhuyễn, đan
xen vào nhau giữa tập trung và dân chủ, tạo thành nguyên tắc tập trung dân chủ,


14

nó đòi hỏi rất cao ở tính khoa học, tính công khai khi thực hiện nguyên tắc. Quy
chế này phải được xây dựng một cách khoa học đảm bảo công khai, minh bạch
thông tin về những nội dung của nghị quyết sẽ ban hành cho cấp uỷ viên khi
thảo luận và biểu quyết. Hiện tại đã có quy định về quyền được bảo lưu ý kiến
thuộc về thiểu số, song chưa có cơ chế thực hiện. Cần coi trọng xây dựng và
thực hiện cơ chế này, chú ý việc phản biện và kiểm nghiệm một cách khách
quan và khoa học các ý kiến của thiểu số để xác định khả năng đúng đắn.
Trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng cần thực hiện nghiêm chỉnh
nguyên tắc tập trung dân trong chỉ đạo cụ thể hóa, thể chế hóa các nghị quyết
của Đảng và trong qúa trình tổ chức thực hiện, nhất là trong xử lý những vấn đề
nảy sinh trong thực tiễn. Đồng thời, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho các
cấp, cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ trì các cấp; thực hiện tốt việc giao nhiệm
vụ, quyền hạn đến đâu thì xác định trách nhiệm cá nhân đến đó; mọi nội dung
trong thực hiện nghị quyết của Đảng ở địa phương phải có người phụ trách và
chịu trách nhiệm cá nhân; khẩn trương xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát,
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp về thực

hiện nghị quyết của Đảng.
Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan, cán bộ nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân để thực hiện tốt các nghị quyết
của Đảng, coi trọng tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để nâng cao năng
lực lãnh đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng có hiệu quả.
* Về mặt tổ chức
Công tác tổ chức của Đảng là vấn đề lớn, có vị trí quan trọng của nó. Tổ
chức là diều kiện vật chất bảo đảm cho tư tưởng được củng cố, biến thành hành
động, thành hiện thực. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì công tác tổ chức hết sức quan trọng, nó bao gồm công tác
cán bộ, công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, tổ chức cơ sở đảng, phương thức
lãnh đạo của Đảng... Thực hiện tốt công tác tổ chức làm cho Đảng thành một tổ
chức độc lập, vững mạnh, bảo đảm cho việc thực hiện đường lối và nhiệm vụ


15

chính trị của Đảng, cho sự thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng.
Công tác cán bộ là vấn đề rất hệ trọng của công tác xây dựng Đảng, nhất
là trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” 6. Thấm nhuần tư tưởng của người trong
mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ; đặc biệt
trong sự nghiệp đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ rõ: “Đổi mới cán bộ
các cấp là một mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy
các cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng” 7, tiếp tục tư tưởng đó Nghị quyết
Trung ương 3 (khóa VII) đã vạch ra “chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nước”. Đây thực sự là bước chuyển biến mạnh mẽ về công tác
cán bộ của Đảng, nó khảng định vị trí của công tác cán bộ là khâu then chốt
trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là nguyên nhân của những nguyên nhân.

Từ thực trạng công tác tổ chức cán bộ chậm đổi mới chưa đáp ứng yêu
cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của nhà nước trong
thời kỳ mới. Đại hội IX xác định: “tiếp tục đổi mới công tác cán bộ” với nội
dung cơ bản là: xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo và
quản lí ở các cấp vững mạnh về chính trị, tư tưởng, gương mẫu về đạo đức lối
sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực thực tiễn sáng tạo, gắn bó với nhân dân,
có chính sách phát hiện tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng người
có đức có tài.
Về công tác xây dựng đội ngũ Đảng viên, đảng ta nhận thức đảng viên là
cầu nối giữa Đảng với quần chúng, là lực lượng tiên phong trong việc tổ chức
hướng dẫn tập hợp quần chúng thực hiện đường lối, chủ chương, chính sánh của
Đảng, pháp luật Nhà nước. Đội ngũ Đảng viên còn là tấm gương sáng về đạo
đức, lối sống để quần chúng noi theo. Vì vậy, chăm lo xây dựng đội ngũ đảng
viên trong sạch vững mạnh đóng vai trò đặc biệt quan trọng, là yêu cầu cấp bách
có ý nghĩa sâu sắc đối với sự tồn tại, phát triển của Đảng, đồng thời còn là nội
6
7

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H1995, tập 5, tr 269.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb CTQG, H. 1986, Tr 132.


16

dung cơ bản của xây dựng Đảng về tổ chức, nhằm củng cố hàng ngũ của Đảng,
tăng cường tính thống nhất và sức chiến đấu của Đảng, mở rộng hoạt động lãnh
đạo của Đảng ở tất cả các thành phần kinh tế, trực tiếp quyết định sự lãnh đạo
của Đảng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đa dạng
hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, đội ngũ đảng viên hàng ngày, hàng giờ

chịu sự tác động của nhiều yếu tố phức tạp. Đại hội VIII của Đảng nhận định:
“một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lí
tưởng, mất cảnh giác, giảm xút ý chí, kém tổ chức kỷ luật, xa đọa về đạo đức lối
sống, một số thoái hóa về chính trị. Tuy rất ít nhưng trong hoạt động của họ gây
hậu quả hết sức sâu”8, Đại hội IX tiếp tục chỉ rõ: “về công tác giáo dục, rèn
luyện đội ngũ đảng viên, chưa ngăn chạn đầy lùi được sự thái hóa về tư tưởng
chính trị và đạo đức lối sống” 9, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đánh giá:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị
trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa
vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn
cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc. Do đó, phải
tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm tính tiền phong gương mẫu của đảng viên.
Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với các
tầng lớp nhân dân lao động; là nơi trực tiếp vận động, tổ chức quần chúng phấn
đấu thực hiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước; đồng thời là
nơi trực tiếp xây dựng, quản lí đội ngũ đảng viên. Nghị quyết Trung ương 3
(khóa VII) nhấn mạnh: “Phải đặc biệt chú ý coi trọng củng cố các tổ chức Đảng
nhất là ở những địa bàn và lĩnh vực chủ yếu về kinh tế chính trị”, việc “củng cố
tổ chức tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng”
đã trở thành một trong mười nhiện vụ của công xây dựng chỉnh đốn Đảng mà
8
9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H. 1996, Tr 137.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, Tr 138.


17


Nghị quyết Trung ương 6 (lần2) khóa VIII đã chỉ ra. Đại hội IX của Đảng xác
định phải tiếp tục: “Xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở Đảng” 10 với nội dung
vừa cơ bản lâu dài vừa cấp bách là: Tất cả các đảng bộ, chi bộ đều phải phấn đấu
thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo, các cấp ủy cấp trên phải tập
trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ chi bộ yếu kém, kịp thời kiện toàn cấp ủy và
tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều khó khăn, mất đoàn kết, quan tâm đúng
mức đến công tác xây dựng Đảng ở các vùng đồng bào theo đạo, dân tộc thiểu
số. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ. Phân công hướng dẫn kiểm tra
đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu, giữ mỗi
liên hệ với quần chúng ở nơi công tác, với chi bộ và nhân dân nơi cư trú. Đổi
mới việc phân tích đánh giá chất lượng đảng viên, các tổ chức cơ sở Đảng. Phát
triển Đảng theo đúng tiêu chuẩn. Đại hội XI của Đảng xác định: "Tiếp tục đổi
mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị" 11. Thực hiện tốt
những vấn đề này, sẽ làm cho Đảng luôn tuân thủ những nguyên lí của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã vạch ra. Thấm nhuần sâu sắc vị trí,
vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở Đảng, sẽ là cơ sở bảo đảm thực hiện đúng
các nguyên tắc về xây dựng Đảng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các hình thức phương pháp
Đảng sử dụng để đưa nội dung yêu cầu lãnh đạo vào thực tiễn và biến nó thành
hiện thực. Vì vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng mang tính khoa học và tính
nghệ thuật cao, có ý nghĩa quan trọng đến chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng. Thực tế đó, cùng với sự biến đổi của yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
trong thời kỳ mới, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc phương
thức lãnh đạo của Đảng sát với từng loại đối tượng, từng lĩnh vực hoạt động của
các tổ chức và hoạt động xã hội. Đại hội Đảng IX xác định cần phải: Tăng
cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Để
làm tốt việc này trước hết phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng với toàn bộ
hoạt động quản lí của nhà nước và hoạt động của các đoàn thể nhân dân, tổ chức
10

11

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, Tr 142.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, Tr 258.


18

xã hội. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc lãnh đạo của Đảng thực sự có
hiệu quả khi Đảng có phương thức lãnh đạo thích hợp, phương thức đó phải vừa
bảo đảm giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy được vai
trò của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thông chính trị, tạo ra sức mạnh tổng
hợp đẩy mạnh sự phát triển trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Phương thức lãnh
đạo của Đảng còn phải đảm bảo phát huy dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của
nhân dân. Cùng với việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ và làm rõ chức năng
nhiệm vụ, phương thức lãnh đạo hoạt động giữa Đảng và Nhà nước, vai trò lãnh
đạo của Đảng còn thể hiện Đảng phải thường xuyên củng cố mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng, Nhà nước với các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cơ bản thường xuyên, là nhiện vụ
cấp bách trong giai đọan hiện nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá XI)
về "một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đã chỉ rõ những điểm
yếu trong công tác xây dựng Đảng ta thời gian qua, nguyên nhân và những biện
pháp khắc phục. Để thực hiện tốt công tác xây dựng đảng theo tinh thần Nghị
quyết, đòi hỏi sự nỗ lực cao độ của toàn Đảng, toàn dân của mọi cấp, mọi ngành,
của mọi đảng viên, của cả hệ thống chính trị. Đồng thời phải tổ chức thực hiện
một cách chặt chẽ, nghiêm túc, kiên trì thì mới có hiệu quả. Do đó, đòi hỏi phải
nhận thức đầy đủ sâu sắc, đồng thời trung thành và vận dụng sáng tạo các
nguyên lý, nguyên tắc trong xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ xây dựng, củng cố, chỉnh đốn Đảng, làm
cho Đảng trong sạch, vững mạnh cần tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ

vững và tăng cường bản chất và tính tiền phong của Đảng, xây dựng Đảng thực
sự trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao phẩm chất
đạo đức cán bộ, đảng viên, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên
hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng việt Nam trong giai đoạn mới. Xứng đáng là lực lượng tiên
phong, lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH - HĐH, xây dựng


19

dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Đảng ta không thể hoàn thành nhiện vụ chính trị của mình nếu không
đoàn kết thống nhất trong Đảng, đoàn kết sẽ tạo ra sức mạnh, vượt khó khăn trở
ngại trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, như Hồ Chí Minh đã dạy: Đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ
trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con
ngươi của mắt mình.
Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự phát triển liên tục và sự
bền vững của chế độ, của đất nước. Thực hiện trẻ hóa, kết hợp tốt ba độ tuổi,
bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa và phát triển đội ngũ cán bộ. Bồi dưỡng cán
bộ toàn diện, cả về phẩm chất, trình độ, năng lực, trước hết là đội ngũ chủ chốt ở
các cấp. Rèn luyện đội ngũ cán bộ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, thấm nhuần và quán triệt tư tưởng
Hồ Chí Minh về quan điểm quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng và làm
tốt công tác dân vận.
Với trách nhiệm là một cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang, việc
không ngừng nghiên cứu, kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức cách mạng, hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao, đó cũng chính là góp phần vào xây dựng Đảng

ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức hiện nay.

Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã
hội Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng
phải thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn, xây dựng đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng. Đây là yêu cầu
khách quan, quy luật xây dựng và phát triển của Đảng. Thực tiễn đã chứng minh
bằng sự lớn mạnh, trưởng thành và sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta


20

trong đấu tranh cách mạng giành chính quyền, giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhất là trong những năm
đổi mới đất nước vừa qua cho thấy bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, tính độc lập, tự
chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam càng thể hiện rõ trong kiên định đường lối
cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, song luôn phát
triển sáng tạo trong cầm quyền lãnh đạo đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc... Để xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng
vững mạnh, Đảng phải có những cơ chế tổ chức, hoạt động, lãnh đạo Nhà nước
và xã hội phù hợp với sự phát triển của đất nước. Càng đòi hỏi phải không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của toàn Đảng, tăng cường
dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê
bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng ... xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực tốt. Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước Việt Nam và các tổ chức trong hệ thống chính
trị để đáp ứng yêu cầu cầm quyền trong giai đoạn mới của cách mạng.




×