TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC NÂNG CAO
Đề tài:
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ ĐỔI MỚI
PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
1
MỞ ĐẦU
Phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền là hệ thống các phương
pháp, hình thức mà Đảng vận dụng để tác động vào các lực lượng, các tổ chức
nhằm thực hiên tốt nội dung lãnh đạo.
Lúc chưa có chính quyền thì sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu trên một số
lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, nhưng khi Đảng cầm quyền thì hang
chục lĩnh vực mới xuất hiện như: kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học,
công nghệ…Đặc biệt với việc xuất hiện Nhà nước đòi hỏi Đảng phải xác định
nội dung và phương thức lãnh đạo đúng đắn.
Nội dung lãnh đạo của Đảng bao gồm những quyết định và chỉ đạo
thực hiện các quyết định về đường lối, chủ trương, chính sách, về các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tư tưởng…Khi có nội dung lãnh đạo đúng đắn thì
phương thức lãnh đạo phù hợp là một nhân tố quyết định đảm bảo chất lượng,
hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Thực tế cho thấy, có đường lối đúng, có tổ chức
hợp lý mà không có phương thức lãnh đạo phù hợp thì hiệu quả lãnh đạo thấp,
thậm chí có trường hợp làm vô hiệu hóa cả đường lối và chủ trương.
Phương thức lãnh đạo của Đảng sẽ thay đổi khi hoàn cảnh, điều kiện
thay đổi, khi tình hình cách mạng thay đổi. Ngày nay, sự nghiệp đổi mới toàn
diện và sâu sắc về kinh tế - xã hội, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước về hệ thống chính trị của đất nước đòi hỏi phải đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng sao cho phù hợp.
NỘI DUNG
2
Nhận thức rõ tính chất cấp bách của vấn đề đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng nhằm đáp ứng nhu cầu to lớn của thời kỳ đổi mới, Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần XI (1/2011) tiếp tục nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng” (tr.264). Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải nắm vững và quán triệt các quan điểm chỉ đạo,
phải nhận thức rõ những yếu tố có liên quan và phải phù hợp với từng đối
tượng
1.Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội
1.1.Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đảng ta là đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội, nhưng
không phải là cơ quan quyền lực Nhà nước; quyền lực của Đảng khác với
quyền lực Nhà nước. Sự khác nhau đó quy định những điểm khác biệt về
chức năng, nhiệm vụ, phương thức và phương pháp hoạt động giữa Đảng và
Nhà nước, giữa Đảng với các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội khác.
Nếu không phân biệt rõ ràng, thấu đáo những khác biệt đó và đặc biệt
là không kiên quyết, mạnh dạn chuyển biến từ đổi mới nhận thức sang đổi
mới tổ chức và hoạt động của Đảng và cả Nhà nước thì không tránh khỏi tình
trạng đã xảy ra là “Nhà nước hoá Đảng” và “hình thức hoá Nhà nước” làm
cho Đảng trở nên hành chính hoá, quan liêu hoá kiểu Nhà nước và Nhà nước
thì không có thực quyền, vừa thụ động vừa trì trệ, xơ cứng trong quản lý.
Thước đo hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng phải được thể hiện ở sức mạnh, hiệu
lực thực tế của Nhà nước. Để quản lý, Nhà nước buộc phải dùng đến sức
mạnh của tổ chức và hành chính cũng như sức mạnh cưỡng chế của luật pháp.
Thứ nhất: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, Nghị quyết, bằng
công tác tổ chức cán bộ và kiểm tra việc Nhà nước thực hiện chấp hành
đường lối, nghị quyết như thế nào, thông qua tổ chức Đảng trong các cơ quan
Nhà nước và thông qua các cơ quan chuyên trách của hệ thống Đảng. Mục
3
tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là phát huy vai trò của Nhà nước
trong việc thể chế hoá, tổ chức thực hiện có hiệu quả những quan điểm chỉ
đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại. Mục tiêu quản lý của Nhà nước là biến toàn bộ quan điểm
chỉ đạo của Đảng trên các phương diện tương ứng nói trên trở thành hiện
thực.
Thứ hai: Mục tiêu lãnh đạo của Đảng và mục tiêu quản lý của Nhà
nước có nội dung tương tự như nhau, nhưng nội dung phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và nội dung quản lý của Nhà nước nhằm đạt mục
tiêu đó lại có nhiều điểm khác nhau. Đảng không trực tiếp giải quyết các công
việc của Nhà nước. Nhà nước bằng quyền lực của mình có nhiệm vụ “bảo
đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân,
nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân,
xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Thứ ba: Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng khác với hệ thống tổ chức
bộ máy của Nhà nước. Hiện nay, cả hai hệ thống này đều đang đứng trước
yêu cầu bức xúc phải đổi mới theo yêu cầu dân chủ - pháp quyền, trong sạch,
vững mạnh, chống quan liêu tham nhũng có hiệu quả. Đảng đổi mới cơ chế
lãnh đạo của mình đối với Nhà nước trên cơ sở tự chỉnh đốn Đảng, thực hiện
dân chủ trong Đảng, “phải kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng ở tất cả các
cấp từ Trung ương đến cơ sở” theo hướng tinh gọn và tinh nhuệ, thể hiện thật
rõ tính đặc thù của lãnh đạo chính trị. Sử dụng các chuyên gia giỏi vào công
việc được chuyên môn hoá là một trong những cách tốt nhất để khắc phục
tình trạng “thừa” bộ máy mà “thiếu” hoạt động, như tình hình đã xảy ra.
Thứ tư: Đòi hỏi bức xúc hiện nay đối với Nhà nước trên con đường
tiến tới Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tạo lập một hệ thống pháp
luật đồng bộ, cải cách bộ máy hành chính nhà nước bảo đảm trong sạch, vững
mạnh, hiệu lực và hiệu quả với đội ngũ công chức được đào tạo cơ bản, tinh
4
thông chuyên môn nghiệp vụ, tận tuỵ mẫn cán, am hiểu pháp luật và tôn trọng
pháp luật, có chế độ công vụ, kỷ luật và đạo đức công chức được đề cao.
Thứ năm: Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả phương thức lãnh đạo của
Đảng cần đổi mới tổ chức bộ máy Đảng và nhà nước cùng đội ngũ cán bộ,
công chức, nâng cao mặt bằng dân trí, nhất là tri thức pháp luật; nâng cao vai
trò của các cơ quan có chức năng thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng,
tổ chức thực hiện pháp luật; nâng cao chất lượng của các ban đảng có chức
năng tư vấn trong việc chỉ đạo của Đảng đối với các cơ quan nhà nước tương
ứng.
Thứ sáu: Tiếp tục xây dựng Đảng trong tình hình mới, nâng cao năng
lực lãnh đạo, chất lượng và hiệu quả thực tế của các nghị quyết, xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là đội ngũ tiên phong trong sự nghiệp mới, mỗi
cán bộ, đảng viên thực sự là hạt nhân lãnh đạo, là tấm gương có sức lôi cuốn,
tập hợp nhân dân trong tiến trình thực hiện các mục tiêu của đổi mới kinh tế,
cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong
cải cách tư pháp, trong thực hiện huy động sức mạnh của khối đoàn kết toàn
dân.
Thứ bảy: Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, những quan
hệ cơ bản, nhất là quan hệ lãnh đạo và quản lý, phải được thể chế hoá - cả về
quyền hạn lẫn trách nhiệm. Đảng vừa là một bộ phận cấu thành hệ thống
chính trị, vừa là người lãnh đạo hệ thống đó. Đảng là người lãnh đạo xây
dựng Hiến pháp và pháp luật, nhưng Đảng cũng là một tổ chức chính trị, một
bộ phận hữu cơ của xã hội; do đó, trong tổ chức và hoạt động của mình, Đảng
phải tuân thủ đúng pháp luật, đảng viên và các tổ chức Đảng không được
đứng trên, đứng ngoài pháp luật. Hơn nữa, sự hoạt động của các tổ chức đảng
và đảng viên không phải chỉ chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước mà còn
chịu sự kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân và các tổ chức xã hội.
Nhu cầu thể chế hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
nói chung và hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng xuất phát từ đòi hỏi
5
khách quan của nền kinh tế thị trường, xã hội công dân ngày càng phát triển,
tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước ngày càng trở nên chuyên nghiệp,
hiện đại, nhu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội ngày càng cao… Thể chế hoá
vai trò và phương thức lãnh đạo của Đảng còn có ý nghĩa đề cao trách nhiệm
của Đảng bằng pháp luật trước nhân dân. Nhưng hiện nay, trong Hiến pháp
chỉ mới ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nói
chung (Điều 4). Do đó, các quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng về tổ chức bộ
máy, nội dung và mục tiêu căn bản trong hoạt động Nhà nước cần phải được
thể chế hoá, công khai hoá và triển khai thực hiện bằng Nhà nước theo hệ
chuẩn pháp luật đã xác định. Hệ thống quy phạm đó phải xác định rõ thẩm
quyền, phạm vi và trách nhiệm… lãnh đạo của Đảng, nhiệm vụ của Nhà nước
trong quan hệ với chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng.
Đại hội XI của Đảng đã tiếp tục khẳng định nội dung đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đồng thời nêu rõ: “Tập trung rà
soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy
chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng
Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo của các cơ quan quản lý
Nhà nước”. Đó chính là sự đổi mới nhằm phát triển và tiếp tục hoàn thiện
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
1.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội
Xuất phát từ thực tiễn 80 năm qua, cùng với việc xác lập vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với toàn xã hội, vấn đề phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với các tổ chức chính trị xã hội mà đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc từng bước
được đổi mới bằng việc xác định nguyên tắc Đảng vừa là tổ chức thành viên
của Mặt trận vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Đảng thực hiện sự lãnh đạo của
mình thông qua công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức: Đảng lãnh đạo thông
qua đường lối, chủ trương đúng đắn được cụ thể hóa bằng các chỉ thị, nghị
6
quyết, kết luận… nhằm định hướng cho hoạt động của Mặt trận phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của dân tộc trong từng thời kỳ.
Thứ nhất: Sự lãnh đạo của Đảng không phải là áp đặt, chỉ thị, ra lệnh
mà là hiệp thương dân chủ, là vận động để phát huy tính tích cực chủ động
của Mặt trận. Đảng đem chủ trương, đường lối của Đảng tuyên truyền, giới
thiệu, bàn bạc, kiến nghị với Mặt trận để thỏa thuận tạo sự nhất trí, tự giác tự
nguyện, phối hợp hành động giữa các tổ chức và cá nhân thành viên. Đảng
chăm lo bồi dưỡng, đào tạo cán bộ và giới thiệu đảng viên vào tổ chức bộ
máy của Mặt trận. Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận,
thông qua đại diện cấp ủy tham gia Mặt trận, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng hoạt động trong tổ chức Mặt trận.
Thứ hai: Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn thể hiện
qua việc chỉ đạo tăng cường công tác dân vận của chính quyền, đa dạng hóa
các hình thức tập hợp quần chúng, làm chuyển biến về công tác quần chúng
của cả hệ thống chính trị. Nhiều cấp ủy Đảng, đảng viên sát được cơ sở, gần
dân, nắm được dân hơn, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân được tăng
cường, niềm tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố.
Thứ ba: Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
nhiệm vụ đoàn kết toàn dân; củng cố các tổ chức, các đoàn thể chính trị, xã
hội trong Mặt trận để phát huy vai trò chủ động sáng tạo, tích cực của nhân
dân tham gia vào công việc của Nhà nước, nâng cao đời sống, văn hóa, tinh
thần…Cụ thể:
Đoàn thanh niên phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức
và giáo dục thanh niên và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Công đoàn phải trở thành trường học quản lý nhà nước, quản lý kinh tế
và văn hóa của giai cấp công nhân nước ta.
7
Hội Liên hiệp phụ nữ phải là lực lượng mạnh mẽ, giúp Đảng động viên,
tổ chức, lãnh đạo phụ nữ tiến lên chủ nghĩa xã hội…
Như vậy, các tổ chức quần chúng cần có sự đổi mới về nội dung và
phương thức hoạt động sao cho phù hợp với nền kinh tế thị trường trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư: Thực hiện dân chủ, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ
của dân là điểm quy tụ các chính sách, biện pháp xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam. Tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền dân
chủ XHCN được bổ sung, phát triển qua quá trình tiến triển của công cuộc đổi
mới, qua các Đại hội Đảng và các Nghị quyết của Đảng trong gần 20 năm qua
đã tác động lớn đến nhận thức và hành động của các tổ chức và cá nhân trong
hệ thống chính trị của nước ta, đến Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân.
Từ những nhận thức, tư tưởng ngày càng rõ và sâu về dân chủ và thực
hành dân chủ, về quyền làm chủ của dân, về Nhà nước pháp quyền XHCN, về
mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước với dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ
sung những quan niệm, chính sách, chủ trương về đại đoàn kết dân tộc, tiếp
tục mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, về chức năng, vị trí của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân, về đa dạng hóa các hình thức tập hợp, vận
động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, về nâng cao chất lượng công
tác dân vận và Mặt trận trong thời kỳ mới.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động, đoàn
kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đại diện cho
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đoàn viên, hội viên;
tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước, tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã
hội, thực hiện giám sát xã hội, phản biện xã hội.
Để thực hành dân chủ, Đảng và Nhà nước, cả hệ thống chính trị hoạt
động thật sự vì dân, gắn bó với dân, đề ra và quyết định các chính sách, chủ
8
trương xuất phát từ nguyện vọng và trí tuệ của dân, tôn trọng và lắng nghe ý
kiến của dân, chịu sự giám sát và kiểm tra thường xuyên của dân, tạo những
điều kiện thiết thực cho dân thực hiện được, phát huy được quyền làm chủ.
Thứ năm: Đảng đề ra chủ trương cụ thể nhằm phát huy tinh thần đại
đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vì Mặt trận Tổ quốc là một bộ
phận của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Mặt trận
Tổ quốc có sứ mệnh đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp nhân dân Việt Nam,
không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc, ý thức hệ khác nhau để cùng
phấn đấu vì mục đích chính trị chung. Chính do sự thỏa thuận, nhất trí với
nhau về mục tiêu chính trị cao quý mà các đoàn thể nhân dân, các cá nhân tiêu
biểu trong xã hội cùng với tổ chức chính trị giữ vị trí lãnh đạo là Đảng Cộng
sản Việt Nam tự nguyện gạt những sự khác biệt sang một bên, cùng nhau xây
dựng Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, hình ảnh cụ thể của đại đoàn kết
toàn dân tộc. Giờ đây tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, yêu Tổ quốc Việt
Nam mong muốn và phấn đấu cho một nước Việt Nam hùng cường, giàu
mạnh, cho đất nước và con người Việt Nam mãi mãi được "độc lập, tự do,
hạnh phúc" đều là thành viên của Mặt trận Tổ quốc.
Nghị quyết 07 Bộ Chính trị ngày 17 – 11 – 1993 về đại đoàn kết dân
tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất đẫ khẳng định: MTTQVN cần
được củng cố và mở rộng về tổ chức và hoạt động để thực sự là một tổ chức
để tập hợp khối đoàn kết toàn dân, nơi thể hiện nguyện vọng và ý chí của các
tầng lớp nhân dân, nơi thống nhất hành động giữa các thành vien tham gia với
chính quyền trong việc giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, trong
việc thực hiện dân chủ, đổi mới xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng
của các tầng lớp nhân dân, tham gia xây dựng, giám sát, bảo vệ chính quyền,
tham gia quản lý xã hội, thực hiện các nhiệm vụ văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng; tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân, Đảng và Nhà
nước.
9
Trong thực tế, không có một phương thức lãnh đạo cứng nhắc. Tùy
theo đối tượng lãnh đạo mà có phương thức lãnh đạo thích hợp. Có phương
thức lãnh đạo chung cho toàn Đảng và phương thức lãnh đạo cụ thể từng cấp,
từng lĩnh vực đối với từng tổ chức. Có phương thức lãnh đạo của Đảng, đoàn
thể và xã hội đồng thời cũng có phương thức lãnh đạo trong nội bộ Đảng, nội
bộ các tổ chức chính trị xã hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải
tiến hành đồng bộ trên tất cả các phương diện.
Tuy nhiên, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị-xã hội hiện nay vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Tổ
chức và hoạt động của hệ thống dân vận cấp ủy còn chậm được đổi mới, tăng
cường so với nhu cầu phát triển của đất nước nói chung và đối tượng cần tập
hợp, vận động nói riêng.
Nội dung, phương thức tập hợp, vận động quần chúng của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể còn hạn chế, nhất là đối với khu vực kinh tế tư nhân,
doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng có đông đồng bào có đạo. Ở nhiều nơi, cán bộ, đảng viên kém nhạy bén,
chưa đi sâu, đi sát quần chúng nhân dân, chưa chủ động nghiên cứu, dự báo,
lường trước được tình hình phức tạp có thể nảy sinh, những mâu thuẫn nội bộ,
bất hòa trong nhân dân để phản ánh, tham mưu, đề xuất kịp thời với cấp ủy
đảng, chính quyền để giải quyết. Ở không ít nơi, Ban Dân vận cấp ủy, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chưa làm tốt việc phối, kết hợp chặt chẽ
trong việc giám sát các cấp, các ngành thực hiện chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng, Nhà nước về công tác tập hợp, vận động quần chúng nhân dân
và những chủ trương, chính sách liên quan thiết thực đến quyền lợi chính
đáng của nhân dân. Ở không ít nơi, cấp ủy, chính quyền còn coi nhẹ công tác
dân vận; chưa quan tâm đầy đủ sâu sắc đến công tác dân vận; chưa cử những
cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực làm công tác dân vận; thiếu
những chính sách, chế độ tạo điều kiện, khuyến khích, động viên cán bộ làm
công tác dân vận, nhất là ở cơ sở.
10
Sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân có lúc có nơi còn chồng chéo, lúng túng, sự phối hợp có khi thiếu
thống nhất, đồng bộ. Công tác tham mưu của Ban Dân vận cấp ủy nhiều khi
chưa thật trúng và chưa kịp thời; vẫn còn tình trạng “khoán trắng” việc đổi
mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng cho Ban Dân vận cấp ủy. Cơ cấu
tổ chức của các cơ quan đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã
hội ở các cấp vẫn còn chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ; thẩm
quyền và trách nhiệm của cá nhân, tổ chức chưa thật rõ ràng…chưa đáp ứng
được yêu cầu trong tình hình mới.
2. Một số giải phápnhằm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với
Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội có chất lượng
Ở nước ta, ngay từ năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề xây
dựng, “cait tiến” cách lãnh đạo của Đảng. Tháng 10 năm 1947, Người viết
cuốn Sửa đổi lối làm việc, chỉ rõ cách lãnh đạo của Đảng:
“1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng…
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát cho đúng thì cũng
phải có quần chúng mới giúp được”
Người yêu cầu cán bộ đảng viên phải sửa đối lối làm việc cho phù hợp
với nhiệm vụ Đảng cầm quyền.
Để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới, cần tập trung thực hiện tốt
một số giải pháp sau:
2.1. Đối với Nhà nước:
Đổi mới phương thức lãnh đạo phải bắt đầu từ đổi mới tư duy và cách
thức lãnh đạo trong bước chuyển đổi từ mô hình công nghiệp hóa hiện nay
sang mô hình phát triển bền vững. Đường lối lãnh đạo của Đảng phải được
thể chế hóa bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chỉ với thể chế ấy,
11
Đảng mới thực hiện năng lực là đảng cầm quyền trong chế độ dân chủ; nhân
dân mới thực hiện quyền làm chủ bằng thể chế; Nhà nước mới là của dân
trong xây dựng và quản lý nền kinh tế, xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ
có thể chế như thế mới phản ánh đúng tư tưởng Hồ Chí Minh "Trăm điều phải
có thần linh pháp quyền" mà Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên của Nhà nước ta
(Luật sư Vũ Đình Hòe) gọi là Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh.
Thứ nhất: Tạo sự thống nhất tư duy, nâng cao nhận thức và năng lực
lãnh đạo của Đảng
Muốn thành công trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thì
việc quan trọng đầu tiên là phải thống nhất về tư duy, nhận thức và nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới. Có thống nhất về tư duy mới
có thể thống nhất về hành động cách mạng. Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng có nghĩa là Đảng phải tự đổi mới để Đảng có đủ trình độ, khả năng
lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần đổi mới quy trình ban
hành các chỉ thị, Nghị quyết, chủ trương, chính sách, có cơ chế kiểm tra, đánh
giá, có chế tài bảo đảm thực hiện thành công những chủ trương ấy.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi cấp ủy đảng có trình
độ năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách, đường
lối, chỉ thị của Đảng. Để thực hiện tốt Đảng phải tăng cường tuyên truyền
giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên bằng nhiều hình thức.
Thứ hai: Đổi mới cơ chế, tổ chức bộ máy của Đảng và cả hệ thống
chính trị.
Thực trạng hiện nay cho thấy cơ chế hoạt động và tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị dù đã qua nhiều lần thay đổi nhưng vẫn còn cồng kềnh, bất
hợp lý. Chức năng, nhiệm vụ chưa được phân công rõ rang, còn chồng chéo
giẫm lên nhau. Vì vậy, bộ máy hoạt động kém hiệu quả.
12
Từ đó, Đảng khắc phục tình hình đó bằng cách nhanh chóng đổi mới cơ
chế tổ chức, sắp xếp lại, kiện toàn đổi mới tổ chức bộ máy trong hệ thống
chính trị, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội.
Đổi mới cơ chế tổ chức cho phù hợp với phương thức lãnh đạo mới.
Tiếp tục cải tiến bộ máy theo hướng nhanh gọn, nâng cao hiệu quả tinh thần
Nghị quyết Đại hội XI.
Thứ ba: Xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực và phong
cách lãnh đạo tốt.
Người thực hiện phương thức lãnh đạo là cán bộ. Cán bộ vừa là chủ thể
vừa là đối tượng của phương thức lãnh đạo. Vì vậy, cần xác định tiêu chuẩn
các chức danh cán bộ, đánh giá thực chất cán bộ. Trên cơ sở đó, lựa chọn, bố
trí, đề bạt cán bộ đúng người, đúng việc, đúng chỗ. Đồng thời có biện pháp xử
lý nghiêm minh, giải quyết kịp thời để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với
một số cán bộ đảng viên có chức có quyền đã lợi dụng chức quyền để trù dập,
ức hiếp quần chúng nhân dân. Kỷ luật những cán bộ đứng đầu chuyên quyền,
độc đoán, quan liêu, cục bộ địa phương đã tác động xấu đến tình hình nội bộ
như bè phái, mất đoàn kết…
Thứ tư: Đổi mới chế độ chính sách, lề lối làm việc, cải cách hành chính
gắn chặt với việc thực hiên dân chủ trong Đảng và trong xã hội, tạo cơ hội
cho nhân dân xây dựng Đảng và lấy phục vụ nhân dân làm mục tiêu hoạt
động.
Đổi mới quy trình, nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng, cải
tiến và nâng cao chất lượng công tác thông tin; xây dựng cơ chế, chính sách
yêu đãi phù hợp để thu hút được trí tuệ của xã hội, phục vụ cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
13
Tình hình, nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính tri và toàn xã hội. Đó là
nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay của Đảng ta.
2.2. Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội khác:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị về vai trò,
vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Xây dựng và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, khối đại đoàn kết
toàn dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của toàn dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng chứ không chỉ là nhiệm vụ của Mặt trận. Chính sách Mặt trận phải
được quán triệt trong các tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước ở các ngành, các
cấp. Công tác dân vận và mặt trận của Nhà nước thể hiện trong việc hoạch
định và thi hành chính sách, pháp luật, ở cơ cấu thành phần các cơ quan dân
cử và cơ quan quản lý nhà nước, ở hoạt động trực tiếp của cán bộ lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước, ở ý thức phục vụ nhân dân, hành động cụ thể của cán
bộ, công chức khi thi hành công vụ. Chính sách và pháp luật đúng, hợp lòng
dân là điều kiện cơ bản để Mặt trận và các đoàn thể tuyên truyền vận động có
kết quả. Vì thế, Mặt trận Tổ quốc cần chủ động thúc đẩy, góp sức vào việc
tăng cường sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan nhà nước.
Thứ hai, các cấp ủy Đảng cần đổi mới hơn nữa việc xây dựng và ban
hành các Nghị quyết, chương trình hành động, các chỉ thị, kết luận… sát với
tình hình thực tế trong từng giai đoạn để định hướng nhiệm vụ cho Mặt trận
Tổ quốc hoạt động, chọn những nhiệm vụ có ý nghĩa thiết thực, mang tính đột
phá để chỉ đạo thực hiện; phát huy tính chủ động sáng tạo của Mặt trận Tổ
quốc trong tham mưu xây dựng các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành
động và kế hoạch tổ chức thực hiện; chú trọng xây dựng Nghị quyết chuyên
đề
14
Thứ ba, quan tâm công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử
dụng cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đảm bảo tiêu chuẩn theo quy
định, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; khắc phục tình trạng cán
bộ năng lực yếu, khó sắp xếp công việc hoặc cán bộ chờ giải quyết chế độ bố
trí làm lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; thực hiện chủ trương luân
chuyển cán bộ Mặt trận, các đoàn thể sang công tác cơ quan Đảng, Nhà nước
và ngược lại.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên và toàn xã hội; phát huy
tính tiền phong gương mẫu của đảng viên trong tham gia và vận động các
thành viên trong gia đình tích cực tham gia sinh hoạt và làm nòng cốt trong
các tổ chức đoàn thể nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân tham gia xây
dựng Đảng.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc thông qua giao ban định kỳ giữa Thường trực
cấp ủy với hệ thống dân vận; qua những cuộc làm việc trực tiếp để nghe phản
ánh tình hình tư tưởng, tâm trạng của các tầng lớp nhân dân, những kiến nghị,
đề xuất của Mặt trận và các tổ chức thành viên, trên cơ sở đó chỉ đạo giải
quyết kịp thời những vấn đề bức xúc trong nhân dân, đồng thời định hướng
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc sát hợp với tình hình thực tế. Các cấp ủy
Đảng cần chú trọng công tác sơ, tổng kết rút kinh nghiệm, xây dựng các mô
hình, điển hình trong công tác xây dựng Mặt trận Tổ quốc; các cấp chính
quyền cần phải có cơ chế rõ ràng, cơ chế đó phải được thể chế thành văn bản
pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc các cấp thực hiện chức
năng giám sát và phản biện xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải thực hiện và phát huy đầy đủ tính chất,
vai trò và trách nhiệm của mình, góp ý kiến với Nhà nước một cách chủ động
từ khi đề ra chủ trương, chuẩn bị quyết định và tổ chức thi hành các quyết
định, thực hiện vai trò phản biện xã hội đối với các đề án, dự án về chủ
15
trương, chính sách, pháp luật. Mặt trận cần tập trung sức làm tốt những việc
mà Mặt trận có thế mạnh thực sự và chỉ Mặt trận mới có thể làm tốt, không
phân tán lực lượng hoặc không trùng lặp với hoạt động của các tổ chức khác.
Thứ sáu: Thể chế hóa mối quan hệ giữa tổ chức đảng với tổ chức nhà
nước và tổ chức xã hội nhằm phát huy vai trò và hiệu quả của mỗi tổ chức
trong mối quan hệ với nhau của một hệ thống. Nhờ đó, đảng cầm quyền bằng
một hệ thống gồm các bộ phận không tách rời nhau, mà hỗ trợ nhau cùng phát
triển. Tổ chức đảng nằm trong hệ thống đó để phát huy vai trò và trách nhiệm
của mình. Nên thay đổi quan niệm và phương pháp trong hoạch định đường
lối, chính sách. Hoạch định chính sách kinh tế phải xuất phát từ nhu cầu phát
triển của doanh nghiệp, chứ không phải chỉ căn cứ vào yêu cầu quản lý của
các bộ, ngành. Hoạch định chính sách xã hội phải xuất phát từ nhu cầu an sinh
xã hội có lợi cho phát triển bền vững. Hoạch định chính sách giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ phải xuất phát từ nhu cầu xây dựng lực lượng sản
xuất hiện đại và tổ chức, quản lý có hiệu quả. Phương pháp hoạch định đường
lối, chính sách nên chuyển mạnh sang nghiên cứu dựa trên số liệu chính xác
về kinh tế - xã hội và xu thế phát triển của thế giới, phân tích rõ những tác
động tích cực và tiêu cực rồi mới hình thành đường lối, chính sách.
16
KẾT LUẬN
Khi Đảng ta là đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội thì
vấn đề phong cách lãnh đạo, một yếu tố của phương thức lãnh đạo, cầm
quyền, rất cần được coi trọng. Bởi vì, khác với thời kỳ chưa nắm chính quyền,
với chế độ nhất nguyên của một Đảng cầm quyền thì việc phòng ngừa và đấu
tranh chống quan liêu đã trở thành một nhiệm vụ không thể thiếu được.
Về bản chất, tệ quan liêu trong Đảng, trong bộ máy nhà nước là sự xa
rời thực tế, xa rời quần chúng nhân dân, tách mình ra khỏi nhân dân, xa rời
mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra rằng, bệnh quan
liêu là không đi sâu, đi sát phong trào, không nắm được tình hình cụ thể, thích
ngồi bàn giấy hơn là đi xuống thực tiễn, thích dùng mệnh lệnh hành chính hơn
là kiên nhẫn giáo dục thuyết phục quần chúng một cách có lý, có tình, chỉ biết
khai hội, mốt chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến
chốn.Vì vậy, đởi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
các tổ chức chính trị xã hội là hết sức cần thiết.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng không chỉ nhằm bảo đảm yêu
cầu xét từ phía lãnh đạo của Đảng, mà quan trọng hơn là phát huy cao tính
chủ động, sảng tạo của Nhà nước và mỗi đoàn thể trong việc thực hiện chức
năng xã hội của mình. Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả tức là Đảng mạnh, Đảng lãnh đạo có kết quả. Sự
lãnh đạo cua Đảng nhằm làm cho Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội
17
phát huy cao vai trò tổ chức, quản lý, quyền và năng lực làm chủ của nhân
dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Xây dựng Đảng, Giáo
trình xây dựng Đảng, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2003.
2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXB Chính trị Quốc gia, năm 2006.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB Chính trị Quốc gia, năm 2011.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, NXB Chính trị Quốc gia, năm 1991.
5. PGS.TS Đinh Xuân Lý, Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới (1986-2011), NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội
6. Nguyễn Văn Vĩnh , Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, NXB Lý luận chính trị, Hà
Nội, năm 2007.
7. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (đồng chủ
biên), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986-2005,
(sách tham khảo), tập II.
8. Phan Xuân Sơn, Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ cơ sở
hiện nay, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội
18
MỤC LỤC
19