Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH sử ĐẢNG ĐẢNG LÃNH đạo CHIẾN TRANH NHÂN dân địa PHƯƠNG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG mỹ, cứu nước (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.94 KB, 41 trang )

MÔN: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

NỘI DUNG
Đảng lãnh đạo chiến tranh nhân dân địa phương trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954-1975)
MỞ ĐẦU
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta đã kết thúc toàn
thắng và trọn vẹn cách đây hơn 30 năm. Chiến công thắng Mỹ là thiên anh hùng
ca vĩ đại nhất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta,
đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa Tổ quốc ta vào kỷ
nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Để đánh thắng nước đế quốc giàu
mạnh nhất trong phe đế quốc, Đảng ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về
đường lối, phương pháp cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh, phương
châm và chủ trương chỉ đạo chiến lược của một cuộc chiến tranh nhân dân vừa
mang tính chất giải phóng, vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc. Điểm nổi lên
trong chỉ đạo chiến tranh của Đảng là tổ chức chỉ đạo chiến tranh nhân đãn ở địa
phương, kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh du kích (CTDK) trong khởi nghĩa vũ
trang trước và trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1946 - 1954) được kế thừa và phát triển lên trình độ cao, vô
cùng phong phú, đa dạng. Đấy là một sáng tạo lớn của nhân dân và lực lượng vũ
trang ta dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng ta trong chiến tranh nhân dân chống Mỹ
(1954 - 1975). Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng đã vận dụng
đường lối cách mạng, đường lối chiến tranh nhân dân, tư tưởng quân sự của Chủ
tịch Hồ Chí Minh để chỉ đạo phát triển chiến tranh nhân dân địa phương
(CTNDĐP), đồng thời đã kế thừa và phát triển truyền thống dân tộc, kinh nghiệm
Cách mạng tháng Tám năm 1945 kháng chiến chống thực dân Pháp đã được đưa
lên trình độ cao và vai trò chiến lược của CTNDĐP trong kháng chiến chống Mỹ.
Mặt khác, Đảng đã phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, Đảng bộ
cơ sở trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện phương thức tiến hành CTNDĐP, trên
cơ sở đó xác định ý nghĩa thiết thực của những bài học kinh nghiệm về lãnh đạo,



chỉ đạo CTNDĐP trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với nhiệm vụ xây dựng
nền quốc phòng toàn dân ở địa phương, công tác quốc phòng

ở các bộ, ngành,

đơn vị cơ sở của Nhà nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
NỘI DUNG
1. Tính chất, đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1.1. Tính chất của cuộc chiến tranh
Thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, kết thúc bằng
chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, một chiến công oanh liệt làm chấn động địa
cầu giải phóng một nửa đất nước, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân
cũ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nhưng sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân cả nước ta chưa hoàn thành.
Do tình hình so sánh lực lượng giữa ta và địch và tình hình chính trị thế giới
phức tạp lúc bấy giờ, theo tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương, nước
ta tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước đầu
được xây dựng theo hướng xã hội chủ nghĩa. Miền Nam còn bị đế quốc Mỹ
thống trị dưới hình thức chủ nghĩa thực dân mới.
Về phía địch: âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là tiêu diệt bằng được phong
trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu
dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của
Mỹ, lập một phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam
Châu Á. Đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ để tiến công miền Bắc, tiền đồn
của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Châu Á, hòng đẩy lùi chủ nghĩa xã
hội ở vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa. Năm đời Tổng
thống Mỹ kế tiếp nhau đã theo đuổi âm mưu ấy bằng con đường chiến tranh,
ngoan cố bám lấy chính sách thực dân mới và lao vào những cuộc phiêu lưu

quân sự chống Việt Nam. Vì vậy đất nước ta trở thành nơi thử thách sức mạnh


và uy tín của đế quốc Hoa Kỳ như chính bản thân giới cầm quyền Mỹ đã xác
nhận, chiến tranh xâm lược Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong chiến
lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ. Mỹ muốn chứng tỏ rằng lực
lượng quân sự và kinh tế khổng lồ của họ có thể khuất phục nước ta, từ đó đè
bẹp phong trào giải phóng dân tộc và chặn đứng bước tiến của chủ nghĩa xã hội
ở các khu vực trên thế giới.
Về phía ta: Mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến
lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no hạnh
phúc và phồn vinh là nguyện vọng thiêng liêng, là sự nghiệp chính nghĩa của
nhân dân ta. Đó cũng là mục tiêu lâu dài của cách mạng nước ta phù hợp với quy
luật phát triển của xã hội nước ta. Sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, ta mới chỉ
giải phóng được một nửa nước. Miền Nam nước ta vẫn còn phải dưới ách thống
trị chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Đất nước ta còn bị chia cắt. Nhất thiết chúng
ta phải đẩy mạnh cách mạng để hoàn thành cho kỳ được mục tiêu đó. Toàn thể
dân tộc Việt Nam trước sau như một, muốn sống trong hòa bình để xây dựng đất
nước. Đế quốc Mỹ chủ trương dùng chiến tranh để đàn áp và tiêu diệt cách mạng
nước ta. Chúng ta không có con đường nào khác là buộc phải tiến hành cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai để giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước, tiếp tục hoàn thành mục tiêu bất di
bất dịch của cách mạng nước ta là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước, đưa cả nước tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Trải qua gần 21 năm, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
ta đã diễn ra trong những điều kiện cụ thể với những tính chất khác với các cuộc
chiến tranh cách mạng khác trên thế giới và có những phát triển mới so với cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp trước đó. CTNDĐP là một trong 2 phương
thức tiến hành chiến tranh và là một bộ phận quan trọng của cuộc kháng chiến
chống Mỹ ở miền Nam, chịu ảnh hưởng tác động chung bởi các tính chất và đặc

điểm của cuộc kháng chiến chống Mỹ.


Tính chất cuộc chiến tranh là chiến tranh chính nghĩa chống chiến tranh xâm lược
thực dân mới của đế quốc Mỹ:

nhìn chung cả quá trình lâu dài của cuộc chiến tranh,

lúc chưa có quân đội Mỹ cũng như lúc đã có quân đội Mỹ, dù cho ngụy quân,
ngụy quyền có nêu chiêu bài “quốc gia dân chủ” đi nữa thì chúng vẫn là lực
lượng tay sai của đế quốc Mỹ, là công cụ tiến hành chiến tranh xâm lược thực
dân mới của Mỹ theo chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”. Tính chất
bao trùm nhất về phía địch vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân giấu mặt, trá
hình. Chúng tiến hành chiến tranh xâm lược toàn diện, coi trọng cả các mặt quân
sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tâm lý, xã hội, nhưng biện pháp chủ
yếu và xuyên suốt vẫn là quân sự, dùng bạo lực để đàn áp nhân dân ta và xâm
lược nước ta. Nhân dân ta phải tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, chiến

tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện với trình độ phát triển cao, chống lại và đánh
thắng cuộc chiến tranh xâm lược dã man tàn khốc nhất của đế quốc Mỹ trong
thế kỷ này.
Đặc điểm lớn nhất của cuộc chiến tranh nhân dân này là phương pháp cách
mạng và phương thức tiến hành chiến tranh của ta thống nhất là một. Chúng ta
tấn công địch bằng cả quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp tấn công quân sự
với nổi dậy của quần chúng, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ, từ khởi
nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, song vẫn tiếp tục kết
hợp chiến tranh cách mạng với khởi nghĩa vũ trang trong quá trình chiến tranh.
Kết hợp khởi nghĩa từng phần với chiến tranh du kích cục bộ, đồng khởi với
CTDK rộng khắp, kết hợp CTNDĐP và chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực,
lấy CTNDĐP làm cơ sở.

Tính chất nổi bật nhất của cuộc đụng đầu lịch sử này là chiến tranh chính
nghĩa chống xâm lược với nội dung đấu tranh giai cấp rất quyết liệt. Về phía
địch đấy là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Mỹ, kẻ bóc lột
lớn nhất thế giới. Về phía ta là chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược để
giành nền độc lập dân tộc. Đánh thắng đế quốc Mỹ và bọn tay sai đại diện cho


giai cấp phong kiến và tư sản mại bản quan liêu quân phiệt, đấy là cuộc đấu
tranh “ai thắng ai” giữa 2 thế lực, cách mạng và phản cách mạng, giữa một bên
muốn thúc đẩy miền Nam Việt Nam tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa và một
bên muốn kìm hãm miền Nam trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Ở miền
Nam, cuộc đấu tranh giai cấp cực kỳ quyết liệt, nhân dân ta không những
phải đương đầu với quân xâm lược Mỹ hung bạo mà hàng ngày, hàng giờ
phải chống lại bọn ác ôn phản động khét tiếng với ý thức phục thù giai cấp, hận

thù cách mạng, chống phá cách mạng điên cuồng, với khẩu hiệu của chúng là:
“đạp lên oán thù để thực thi dân chủ”.
Cuộc chiến tranh vừa mang tính chất giải phóng dân tộc, vừa mang tính chất
bảo vệ Tổ quốc.

Sau kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,

giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đất nước ta tạm thời chia làm 2 miền với 2 chế

độ xã hội khác nhau. Miền Bắc từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam trở
thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Sau khi chiếm miền Nam năm 1954,
đế quốc Mỹ lần lượt triển khai biện pháp chiến lược tố
chiến lược chiến tranh trên bộ ở

cộng, diệt cộng tiếp đó là các


miền Nam, đồng thời từng bước leo thang chiến tranh

phá hoại ra miền Bắc, từ chiến lược phá hoại bí mật đến chiến tranh phá hoại
công khai chủ yếu bằng không quân, hải quân. Cuộc chiến tranh phá hoại này
nằm trong một chiến lược chiến tranh chung của đế quốc Mỹ đối với nước ta.
Chiến tranh xâm lược thực dân mới nhằm một mục tiêu bao trùm là chống phá
cả 2 miền đất nước, hòng đè bẹp và tiêu diệt cách mạng Việt Nam. Do đó cuộc kháng chiến
chống Mỹ là một cuộc chiến tranh cứu nước của toàn thể dân tộc ta, của cả nước
ta, không thể chia rời

Nam - Bắc. Cùng một lúc ta phải làm 2 nhiệm vụ chiến

lược nhằm

mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc để
đưa cả nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Có kiên quyết chiến đấu
để giải phóng miền Nam mới bảo vệ được miền Bắc và có bảo vệ vững chắc
được miền Bắc mới có điều kiện về mọi mặt để giải phóng miền Nam thống
nhất Tổ quốc.


Công

tác

quân sự địa phương, CTNDĐP miền Bắc

hợp với bộ đội chủ lực (chủ


yếu là

vừa

phải độc lập và phối

không quân, hải quân) chiến đấu bảo vệ miền

Bắc, vừa phải làm nhiệm vụ tổ chức động viên sức người, sức của của các địa
phương, các ngành Nhà nước chi viện tiền tuyến lớn giải phóng miền Nam.
CTNDĐP miền Nam vừa phải độc lập và phối hợp với bộ đội chủ lực giải phóng
địa phương mình góp phần giải phóng miền Nam, vừa góp phần bảo vệ miền Bắc.
Tính chất kế thừa và luôn luôn phát triển
Kháng chiến chống Mỹ là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go, quyết liệt và phức
tạp, để thực hiện được ý đồ chiến lược, cả địch và ta đều thực hiện tính chất kế
thừa và phát triển trong quá trình chiến tranh. Về phía địch, ngay từ đầu đế quốc
Mỹ đã dầy công nghiên cứu kế thừa kinh nghiệm chống CTDK của Pháp ở Việt
Nam. Kinh nghiệm chống du kích ở một số nước trên thế giới. Chúng đặt thành
-học thuyết “chống nổi dậy”, “chống du kích” với nhiều lực lượng, nhiều biện
pháp để đánh phá cách mạng. Thất bại chiến lược chiến tranh này, chúng lại rút
kinh nghiệm đề ra chiến lược chiến tranh khác, đánh phá ta với mức cao hơn,
quyết liệt hơn, xảo quyệt hơn. Về phía ta, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ,
ta đã có kinh nghiệm truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, kinh nghiệm
Cách mạng tháng Tám năm 1945, kinh nghiệm kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 - 1954). Tư tưởng “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay
cường bạo”, cả nước chung sức đánh giặc từ đời xa xưa, mỗi người dân là một
chiến sĩ, mỗi làng bản là một pháo đài, đánh địch cả bằng vũ khí thô sơ và hiện
đại, kết hợp CTDK với chiến tranh chính quy... Trong kháng chiến chống Pháp
đã được vận dụng rất sáng tạo, phát triển về chất. Chiến tranh nhân dân chống
Mỹ đã kế thừa kinh nghiệm cũ phát triển đến trình độ cao. CTNDĐP là biểu

hiện cụ thể của trình độ cao đó. CTNDĐP trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
mang đầy đủ tính chất toàn dân, toàn diện, tự lực tự cường rất cao có thể nói không có
kinh nghiệm

Cách

mạng tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống Pháp (1946 -

1954) thì cũng không có Chiến tranh nhân dân nói chung và CTNDĐP nói riêng
phát triển cao như vừa qua.


1.2. Đặc điểm chủ yếu của cuộc kháng chiến chống Mỹ
Đặc điểm lớn nhất là đất nước ta tạm thời chia làm 2 miền, tiến hành đ ồng
thời 2 nhiệm vụ chiến lược cách mạng khác nhau, song đấy là cuộc chiến tranh của cả nước do
một Đảng lãnh đạo, một dân tộc, một qụân đội tiến hành.

Cả nước Việt Nam, toàn thể dân

tộc Việt Nam dồn sức để đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ,
cả nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sau khi làm Cách
mạng tháng Tám thành công, kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Ta có miền Bắc
hoàn toàn giải phóng bước đầu được xây dựng theo hướng xã hội chủ nghĩa, làm
căn cứ địa

vững chắc cho cách

mạng cả nước. Đảng ta có

kinh


nghiệm lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, chiên tranh nhân
dân với 2 phương thức tiến hành chiến tranh, CTNDĐP và

chiến tranh

chính quy, có lãnh tụ tối cao anh minh là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Nhân dân
từ Nam chí

Bắc đều được rèn luyện trong khói lửa chiến tranh. Sau khi đánh

thắng thực dân Pháp với chiến thắng Điện Biên Phủ oanh liệt, dân tộc Việt Nam
càng được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhiều dân tộc trên thế giới. Song ta cũng gặp
nhiều khó khăn mới trong việc ổn định, củng cố miền Bắc và chuyển thế đấu
tranh của cách mạng miền Nam. Thời gian đầu, miền Bắc vừa phải khôi phục
kinh tế,

vừa phải tập trung giải quyết vấn đề thổ phỉ, chống cưỡng ép di cư,

chống biệt kích, chống bạo loạn và sửa

chữa sai lầm trong cải cách ruộng

đất, chỉnh đốn tổ chức... Đồng bào và chiến sĩ miền Nam vấp nhiều trở ngại trong
quá trình chuyển thế đấu tranh của cách mạng, trước sự đánh phá dã man tàn bạo
của Mỹ - Diệm. Mấy năm đầu (1954 - 1958) lực lượng cách mạng miền Nam bị
tổn thất lớn, một bộ phận quan trọng cán bộ, Đảng viên, cốt cán trung kiên, quần
chúng cách mạng bị khủng bố khốc liệt, bị sát hại, tra tấn, tù đày, nhiều nơi không
còn cơ sở... Lúc này, về mặt quốc tế, bên cạnh thuận lợi cơ bản là dựa được vào



thế tiến công mạnh mẽ của ba trào lưu cách mạng đang cuồn cuộn dâng cao, ta
tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ ngày càng rộng lớn của nhân dân thế giới để
tăng cường thế và lực của mình, nhưng sự bất đồng giữa các nước xã hội chủ
nghĩa cũng tạo nên những tiêu cực mà đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng để leo thang
chiến tranh và đeo đuổi ý đồ xâm lược của họ đối với đất nước ta.
Ta là một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, phải đương đầu và đánh thắng
một nước đế quốc to, có tiềm lực kinh tế và quân sự hùng mạnh. Dân số cả nước ta chỉ

bằng 1/6, giá trị tổng sản phẩm hàng năm (của miền Bắc) chỉ bằng 1/1000 của
nước Mỹ. Đặc biệt lực lượng so sánh về quân sự giữa ta và Mỹ, nhất là những

năm đầu, còn chênh lệch lớn. Ta ít hơn địch về số lượng cả quân chủ lực, quân
địa phương và yếu hơn địch về vật chất kỹ thuật, đặc biệt là vũ khí, khí tài,
phương tiện chiến tranh của Mỹ huy động vào cuộc chiến tranh nhiều hơn ta về
số lượng, hiện đại hơn ta về chất lượng. Mỹ đã đưa những người được gọi là tài
ba nhất nước Mỹ để điều khiển cuộc chiến tranh này, huy động hàng trăm viện
khoa học, hàng ngàn trung tâm nghiên cứu về chiến tranh... để nghiên cứu về âm
mưu và chiến lược chống phá cách mạng, chống phá chiến tranh nhân dân nói
chung và CTNDĐP nói riêng ở cả 2 miền Nam Bắc nước ta. Có thể nói cùng với
việc động viên tới mức cao nhất các lực lượng vật chất, các phương tiện, vũ khí
hiện đại (trừ vũ khí nguyên tử), giới cầm quyền Mỹ đã huy động và sử dụng
những tinh túy nhất về trí tuệ, khoa học kỹ thuật vào cuộc chiến tranh này.
Trong tình hình so sánh lực lượng như vậy, rõ ràng ta phải đánh lâu dài thực
hiện lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng
đông, lấy yếu chống mạnh về vũ khí kỹ thuật, lấy thô sơ kết hợp với hiện đại để
đánh thắng trang bị

hiện đại và siêu hiện đại của Mỹ. Ta phát huy sức mạnh tổng


hợp của toàn dân, của các lực lượng, nhất là sức mạnh tổng hợp tại chỗ của
CTNDĐP. CTNDĐP phải kiên cường

trụ bám, chiến đấu cài thế xen kẽ với địch,

phá thế phân vùng chia tuyến, hòng đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc
chúng phải đánh theo cách đánh của, ta, phải sa lầy và thất bại. Đấy là thử thách


lớn chưa từng có, đòi hỏi

Đảng ta và toàn thể nhân dân ta phải có quyết tâm cao, ý

chí bền vững phi thường, trí thông minh sáng tạo rất

lớn,

khoa học quân sự và

nghệ thuật quân sự phát triển vượt bậc thì mới có thể đương đầu và đánh thắng kẻ
thù đông, mạnh, hung hãn.

Cả hai bên ta và địch đều phải vừa đánh, vừa tìm hiểu đối phương: về

phía địch, đế quốc Mỹ tuy có dã tâm xâm lược nước ta, đã dốc cố gắng chiến
tranh rất lớn, nhưng do nhiều nguyên nhân trong và ngoài nước, chủ yếu là do
lực lượng so sánh trên phạm vi toàn thế giới: lúc bấy giờ không có lợi cho Mỹ.
Do Việt Nam ở xa nước Mỹ hàng vạn dặm, nên trong quá trình chiến tranh xâm
lược, chúng phải vừa đánh vừa thăm dò, vừa đánh vừa thí nghiệm các chiến
lược, chiến thuật chiến tranh mới, nhất là thí nghiệm các biện pháp chiến lược

“chống nổi dậy”, “chống' du kích”, “chiến tranh du kích chống du kích”, “chiến
tranh giành dân”,
V.V..

“chiến tranh lãnh thổ”, “ chiến lược bí mật phá hoại miền Bắc”

Thực hành chiến lược leo thang từng bước, khi bị thất bại buộc phải xuống

thang chiến tranh (từ sau tết Mậu Thân 1968) thì chúng lại vừa xuống thang rút
dần quân Mỹ về nước, vừa phản kích điên cuồng mở rộng chiến tranh ra toàn cõi
Đông Dương hòng cứu vãn thất bại và giành thế mạnh trong cuộc đàm phán ở
Paris, mãi đến mùa xuân năm 1975 mới chịu thất bại hoàn toàn. Về phía ta, ngay
từ đầu ta đã kiên định quyết tâm chiến lược đánh Mỹ và thắng Mỹ để giải phóng
miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Ta thấy âm mưu xâm
lược của Mỹ, nhưng chưa hiểu hết chiến lược, chiến thuật và thủ đoạn của
chúng, chưa đánh giá hết chỗ mạnh, chỗ yếu cụ thể của chúng trên thực tế chiến
trường, chưa có kinh nghiệm đánh Mỹ, mỗi khi Mỹ - ngụy áp dụng biện pháp
chiến lược, thủ đoạn mới (trực thăng vận, thiết xa vận, ấp chiến lược, bình
định...) ta thường gặp lúng túng, khó khăn, tổn thất. Khi Mỹ đưa quân tham
chiến, nhiều cán bộ, chiến sĩ ta băn khoăn trăn trở, ta đánh với Mỹ thế nào? Có
tiếp tục đấu tranh chính trị được nữa không? ... Trước những vấn đề mới đặt ra,


Đảng ta, nhất là các Đảng bộ địa phương đã lãnh đạo nhân dân, các lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang địa phương đánh thử và đấu tranh thử với địch để
tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm đánh bại từng biện pháp chiến lược, thủ
đoạn chiến thuật mới của chúng, tháo gỡ khó khăn đưa phong trào cách mạng
nói chung và CTNDĐP nói riêng tiến lên. Trên đây là những vấn đề lớn liên
quan đến nguồn gốc, bản chất và tính chất đặc điểm của cuộc chiến tranh. Đó
cũng là điều kiện khách quan và chủ quan, bối cảnh trong nước và quốc tế của

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chi phối nhiều mặt về phương châm, chủ
trương chiến lược của Đảng đối

với cuộc chiến tranh nhân dân nói chung và

sự chỉ đạo quá trình phát triển CTNDĐP nói riêng trên cả 2 miền Nam

trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

Bắc,

nước.

2. Quá trình chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương

trong

kháng chiến chống Mỹ cứu nước (19541975)


2.1

Quá trình chỉ đạo chiến tranh nhân

dân địa phương ở miền Nam (19541975)
* Giai đoạn từ 1954 đến năm 1960
Đế quốc Mỹ cùng chính quyền Sài Gòn ra sức diệt Đảng, diệt cơ sở chính trị
và lực lượng vũ trang kháng chiến còn lại hòng triệt phá mầm mống chiến tranh
nhân dân. Chiến tranh nhân dân địa phương miền Nam hình thành và phát triển
trong phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, cùng với đấu tranh chính trị,

khởi nghĩa từng phần, đồng khởi, đánh bại quốc sách “tố cộng” của địch. Trong
giai đoạn này sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với chiến tranh nhân dân địa
phương ở miền Nam được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết như: 8-1956,
Lê Duẩn soạn thảo “Đề cương văn hóa Việt Nam”;Nghị quyết trung ương
15(1/1959)... trên cơ sở đó có thể khái quát những điểm nổi bật như sau:
Dự kiến khả năng có thể xảy ra ngay trước khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ
1954, Đảng ta đã có chủ trương đúng đắn, sáng tạo, giữ nguyên tại chỗ hầu như
toàn bộ Đảng viên, cán bộ, du kích, hội viên đoàn thể quần chúng cốt cán trung
kiên... ở cơ sở và bí mật chọn để lại một bộ phận lực lượng vũ trang cất giấu một
khối lượng vũ khí đạn dược, sẵn sàng làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh
chính trị, đấu tranh vũ trang ở địa phương, cơ sở, chủ động đối phó với khả năng
và tình huống xấu nhất.
Trong quá trình lãnh đạo đấu tranh (1954 - 1958), việc chỉ đạo duy trì, củng
cố căn cứ cũ, xây dựng căn cứ mới, hành lang mới, bí mật xây dựng, phát triển
lực lượng vũ trang, cơ sở ngầm... đã tạo những điều kiện rất cơ bản cho phong
trào đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ phát triển thành khởi nghĩa từng phần,
chiến tranh nhân dân địa phương cục bộ tiến lên đồng khởi đánh bại quốc sách tố


cộng của địch làm phá sản hình thức thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ. Từ
thực tiễn nóng bỏng của cuộc đấu tranh, nhất là những lúc khó khăn, đen tối nhất,
Đảng viên, cán bộ, cốt cán trung kiên của Đảng ở cơ sở, địa phương luôn đứng ở
vị trí tiền phong để lãnh đạo quần chúng đấu tranh; đã khơi dậy được lòng căm
thù cao độ của nhân dân đối với lũ giặc cướp nước và bán nước vùng lên đấu
tranh với nhiều hình thức, phương pháp cực kỳ khôn khéo, thông minh, phong
phú, sáng tạo. Quần chúng đã khéo lợi dụng thế hợp pháp, kết hợp hợp pháp nửa
hợp pháp với bất hợp pháp, chính trị với vũ trang để diệt ác ôn, bảo vệ cơ sở, bảo vệ căn
cứ..., biến đường lối của Đảng thành hiện thực. Thực tiễn đấu tranh đó lại trở
thành những gợi ý giúp Đảng nghiên cứu, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương,
phương pháp cách mạng.Tuy nhiên trong lúc cách mạng miền Nam đang vô cùng

khó khăn, nhiều nơi chưa biết lợi dụng thế hợp pháp để đấu tranh hạn chế tội ác
của địch, hoặc co thủ hữu khuynh, đấu tranh chưa khôn khéo, chưa biết phân hóa
địch, cô lập bọn nòng cốt và đầu sỏ ác ôn, bộc lộ lực lượng... nên tổn thất lớn. Khi cách mạng

đã chuyển hẳn sang thế tiến công, khởi nghĩa từng phần và chiến tranh nhân dân
địa phương cục bộ lan rộng, vẫn có nơi chưa mạnh dạn phát động quần chúng
đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị khiến phong trào ở đó phát
triển chậm.
* Giai đoạn từ năm 1961đến năm 1965
Đế quốc Mỹ cùng chính quyền Sài Gòn thi hành chiến lược “chiến tranh
đặc biệt”, ra sức càn quét gom dân lập ấp chiến lược, thực hiện các kế hoạch
bình định miền Nam. ta phát triển chiến tranh nhân dân địa phương lên trình độ
cao, kết hợp chặt chẽ lực lượng quân sự và lực lượng chính trị tại chỗ được sự
phối hợp của các đòn chủ lực của quân khu, miền đã đóng vai trò có ý nghĩa
quyết định trong việc đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của địch.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với chiến tranh nhân dân địa phương
trong giai đoạn thể hiện ở một số văn kiện nghị, quyết như: Nghị quyết Bộ
Chính trị 2/1962; tháng 11-1962 Hội nghị chiến tranh du kích Miền lần thứ nhất
phát động thi đua bắn máy bay, diệt xe cơ giới; Hội nghị trung ương 9


12/1963... tất cả những văn kiện này cùng với sự chỉ đạo thực tiễn của Đảng đã
nổi lên mấy điểm chính như sau:
Đảng đã đề ra chủ trương, phương châm đúng đắn sáng tạo, kịp thời giải
quyết nhận thức, tư tưởng, xác định phương hướng xây dựng, phát triển chiến tranh

nhân dân địa phương. Trong lúc địch hung hăng, bước đầu thực hiện thuận lợi kế
hoạch lập ấp chiến lược, Đảng đã sáng suốt chỉ rõ “ấp chiến lược lại trở thành chỗ
yếu của địch, nơi mà ta dễ đánh chúng” (NQ BCT 12-1962 và NQ 9B/TƯ 111963). Với sự chỉ đạo chiến lược chính xác, Đảng xác định “phá ấp chiến lược
phá thế kìm kẹp của địch, đấy là một nhiệm vụ cấp bách đồng thời là nhiệm vụ

lâu dài” (NQ BCT 2-1962) và “chống càn và phá ấp chiến lược trở thành hình
thức và nội dung chủ yếu của ta ở vùng rừng núi và nông thôn miền Nam (NQ
BCT 12-1962). Nắm vững quy luật phát triển của chiến tranh cách mạng, Đảng
khẳng định “Hiện nay phải đặt trọng tâm vào việc xây dựng chủ lực trên cơ sở
phát triển mạnh du kích và bộ đội địa phương” (NQ-9B/TƯ 11-1963). Quán triệt
và vận dụng sáng tạo các chỉ thị, nghị quyết và kinh nghiệm ở các hội nghị chiến
tranh nhân dân địa phương, các cấp ủy Đảng, cấp chỉ huy ở chiến trường, địa
phương, đã tập trung sự chỉ đạo vào chống càn quét, kết hợp “ba mũi”, “ba
vùng”, “ba bám”; đồng thời tích cực xây dựng lực lượng địa phương, góp phần
xây dựng bộ đội chủ lực lớn mạnh, tạo nên cao trào phá ấp chiến lược.
Thiếu sót lúc đầu của nhiều địa phương là chưa thấy hết âm mưu, thủ đoạn
nguy hiểm của chính sách lập ấp chiến lược; không bám trụ được địa phương;
lúng túng trong chỉ đạo chống càn, phá ấp chiến lược, nhất là trước chiến thuật
“trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch; có nơi xuất hiện tư tưởng hữu khuynh
né tránh, có nơi khuynh hướng thiên về dùng quân sự để phá ấp chiến lược.
Tuy nhiên, sau khi giải quyết được vấn đề bám trụ và vận dụng tốt hơn
phương châm “hai chân, ba vùng” thì phong trào chiến tranh nhân dân địa
phương nhanh chóng hồi phục và phát triển thuận lợi.
* Giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1968


Đế quốc Mỹ cùng chính quyền Sài Gòn thi hành chiến lược “chiến tranh
cục bộ” ra sức “tìm diệt” và “bình định”. Chiến tranh nhân dân địa phương cùng
với đấu tranh chính trị, tác chiến tập trung trực tiếp đương đầu và đánh thắng
quân đội viễn chinh Mỹ tiến lên thực hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết
Mậu Thân - xuân 1968, góp phần hết sức quan trọng đánh thắng chiến lược
“chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.
Nhân dân và các lực lượng địa phương ở miền Nam phải trực tiếp đương
đầu với quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc Mỹ, nhưng chiến tranh nhân dân địa
phương vẫn phát triển cùng với tác chiến tập trung vươn lên trình độ cao, thực

hiệti xuất sắc các chủ trương chiến lược của Đảng. Lực lượng vũ trang địa
phương vận dụng linh hoạt 8 nguyên tắc chỉ đạo tác chiến du kích và 6 phương
thức tác chiến chiến lược tiêu hao tiêu diệt cả trên bộ, dưới nước, giữ vững thế
trận đánh địch tại chỗ; cùng bộ đội chủ lực tạo thế, tạo lực thực hiện thắng lợi
cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân - xuân 1968, góp phần hết sức
quan trọng đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ, làm phá sản
chiến lược “chiến tranh cục bộ” của chúng. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối
với chiến tranh nhân dân địa phương trong giai đoạn này nổi lên những điểm
chính như sau:
Trước tình hình đối tượng tác chiến đã thay đổi, hàng chục vạn quân Mỹ ồ
ạt kéo vào miền Nam, Đảng ta vẫn bình tĩnh, sáng suốt, kiên trì phương châm
kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đẩy mạnh chiến tranh nhân
dân địa phương trong điều kiện mới, giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh
địch bằng “2 chân, 3 mũi” trên cả 3 vùng chiến lược, động viên sâu rộng quyết
tâm và khí thế đánh Mỹ trong nhân dân và các lực lượng địa phương. Đảng đã
dự kiến đúng và chủ động chuẩn bị, chỉ đạo các địa phương sẵn sàng đánh thắng
cả quân Mỹ, nếu chúng vào trực tiếp xâm lược.
Các chiến trường và địa phương ở miền Nam đã quán triệt quyết tâm đánh
Mỹ và tư tưởng chiến lược tiến công, nỗ lực cao độ, vận dụng và thực hiện triệt để


các chủ trương, phương châm, biện pháp tác chiến và xây dựng lực lượng, phát
triển phong trào chiến tranh nhân dân địa phương lớn mạnh vượt bậc. Lực lượng
vũ trang địa phương đã đi đầu và chiến thắng oanh liệt trong trận đầu đánh Mỹ (ở Núi Thành),
cùng với lực lượng chính trị, bộ đội tập trung liên tiếp đánh bại 2 cuộc phản công
chiến lược của địch; làm tốt nhiệm vụ căng kéo, buộc địch phải phân tán một phần
lực lượng đối phó với chiến tranh nhân dân địa phương.
Trong giai đoạn này, tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực và chiến tranh
nhân dân địa phương đã dựa vào nhau cùng phát triển. Vai trò tiêu diệt lớn của
chủ lực


có ý nghĩa quyết định nhưng chiến

tranh nhân dân

địa phương vẫn hết sức quan trọng, giữ vai trò

chủ yếu trong chống bình định, tạo thế tạo lực tại chỗ đưa chiến tranh vào bên
trong thành thị, sau đó đã trụ bám đánh địch phản kích, giữ thế cho các đợt tổng
tiến công và nổi dậy tiếp theo. Ngoài những khuyết điểm do chỉ đạo chiến

lược chung chi phối, nổi lên trong sự chỉ đạo của các chiến trường và địa
phương là bộc lộ lực lượng mật, nhất là ở trong thành thị và vùng ven, khiến
quần chúng mất thế đầu tranh hợp pháp, rất khó khăn cho các lực lượng địa
phương trụ bám đánh địch, phản kích từ sau tết Mậu Thân. Mũi chính trị, binh
vận chưa theo kịp đòn vũ trang. Ba mũi giáp công tiêu diệt, bức hàng đồn bốt và
lực lượng kìm kẹp của địch ở cơ sở còn ít, hiệu lực hạn chế.
* Giai đoạn từ năm 1969-1973
Đế quốc Mỹ cùng chính quyền Sài Gòn thi hành chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”, rút dần quân Mỹ nhưng dồn sức bình định nông thôn miền Nam.
chiến tranh nhân dân địa phương miền Nam kiên cường trụ bám, giữ thế, tạo
lực, tạo thế mới, góp phần hết sức quan trọng vào thắng lợi chung của cuộc tiến
công chiến lược 1972 giành thắng lợi quyết định.


Cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân - Xuân 1968 của ta đã làm
phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, tạo một bước ngoặt
quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhưng do ta không kịp thời chuyển
hướng tiến công sau tết Mậu Thân, bỏ lỏng vùng nông thôn, nên địch đã tập
trung lực lượng phản công quyết liệt, chiếm lại phần lớn địa bàn đã mất, vơ vét

thêm nhân, vật lực, củng cố được ngụy quân, ngụy quyền... vùng giải phóng bị
đánh

phá rất ác liệt. Cơ sở cách mạng bị tổn thất, ở nhiều vùng nông thôn đồng

bằng ta bị mất dân, mất thế, phong trào chiến tranh nhân dân địa phương sa sút,
gặp vô vàn khó khăn khi bước sang giai đoạn mới chống chiến lược “Việt
hỏa chiến tranh”.

Nam

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với chiến tranh nhân dân địa

phương miền Nam trong giai đoạn này nổi lên những điểm chính như sau:
Đã tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo vào nhiệm vụ trung tâm chống bình định
nông thôn; tiến hành các biện pháp có hiệu quả để chiến tranh nhân dân địa
phương đứng vững tại chỗ, từng bước khôi phục, phát triển phong trào trong điều
kiện hết sức gay go của những năm đầu của giai đoạn. Đặc biệt, đã chỉ đạo kết
hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương - đấu tranh chính trị tác chiến của
các binh đoàn chủ lực, phát huy vai trò đánh tiêu diệt lớn của các binh đoàn chủ
lực hỗ trợ và tạo điều kiện, thời cơ cho chiến tranh nhân dân địa phương khôi
phục và phát triển phong trào. Ý thức chấp hành nghiêm chỉnh, triệt để đường lối
chính trị quân sự của Đảng với sự nỗ lực rất cao và sự vận dụng sáng tạo của các
chiến trường, địa phương đã tạo nên sức mạnh tổng hợp tại chỗ, kiên cường bám
trụ chiến trường đứng vững tại địa phương duy trì tiếng súng liên tục và giành
thắng lợi trong quá trình tiến công cũng như đánh trả địch phản kích tái chiếm,
lấn chiếm. Các địa phương đã tích cực tranh thủ thời cơ khi lực lượng lớn của
địch hành quân mở rộng chiến tranh xâm lược sang Cam-pu-chia, Lào hoặc lo đối
phó với ta ở trọng điểm chiến dịch, tiến hành các đợt hoạt động tác chiến để mở
vùng mở mảng. Trình độ tổ chức và chỉ huy, chỉ đạo, đợt

pháp chiến đấu và hiệu suất

hoạt động tác chiến, phương

chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương có bước phát


triển mới, nhất là các đơn vị tinh nhuệ trong bộ đội địa phương, du kích.
Khuyết, nhược điểm chủ yếu của ta là chưa thấy hết những cố gắng mới,
thủ đoạn mới, tính chất tàn bạo đến tột cùng của địch trong “chiến tranh giành
dân”, “chiến tranh hủy diệt”; nắm không chắc phương châm 3 vùng, chuyển
hướng tiến công về nông thôn không kịp thời; chưa khắc phục được tình trạng
mở được mảng được vùng trong đợt nhưng khó giữ sau khi địch phản kích.
* Giai đoạn từ năm 1973 đến năm 1975
Mỹ tiếp tục chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, sử dụng Ngụy quân,
Ngụy quyền tiến hành cuộc chiến tranh lấn chiếm và bình định. Chiến tranh
nhân dân địa phương Miền Nam góp phần hết sức quan trọng đánh bại “chiến
tranh lãnh thổ” của địch; tạo lực, tạo thế, tạo thời cơ; phối hợp với các binh
đoàn chủ lực thực hành tổng tiến công và nổi dậy kết thúc thắng lợi trọn vẹn
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Từ đầu năm 1973, theo Hiệp định Paris về Việt Nam, Mỹ phải rút hết quân
Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam vào ngày 293-1973, nhưng Mỹ vẫn âm mưu tiếp tục dùng ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn
làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến
miền Nam thành một nước với chế độ “quốc gia” thân Mỹ, thực chất vẫn là một
thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Mục tiêu trước mắt của Mỹ là đẩy mạnh “chiến
tranh lãnh thổ” (tên gọi bao quát chương trình lấn chiếm vùng giải phóng và
bình định vùng kiểm soát) nhằm xóa thế “da báo” trên chiến trường, tiến tới xóa
bỏ thực tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, loại Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa
miền Nam ra khỏi đời sống chính trị ở miền Nam. Để thực hiện mục tiêu này,

Mỹ tăng cường viện trợ ồ ạt tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy ,
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với chiến tranh nhân dân địa phương trong
giai đoạn này nổi lên mấy điểm như sau:
Kịp thời phát hiện, uốn nắn nhận thức, tư tưởng lệch lạc về đường lối,


phương pháp cách mạng. Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 và sự chỉ đạo sắc
sảo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã nhanh chóng xoay chuyển tình
thế, giành và giữ vững quyền chủ động trên chiến trường; quyện chặt chiến
tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực; tạo thế
mới, lực mới, thực hành tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi hoàn toàn,
trọn vẹn. Các cấp ủy Đảng, cấp chỉ huy ở chiến trường và địa phương đã quán
triệt quyết tâm chiến lược, vận dụng linh hoạt phương châm, phương thức ở địa
phương mình; dốc sức chuẩn bị tốt cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Đặc biệt, các địa phương đã chú trọng phát triển vượt bậc dân quân du kích, xây
dựng bộ đội địa phương thành những “đơn vị mạnh”; nhạy bén chớp thời cơ, độc
lập hoặc kết hợp chặt chẽ giữa địa phương với chủ lực, tiến công với nổi dậy để

giải phóng địa phương, góp phần giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.
Chỉ 2 ngày đêm sau khi ngụy quyền Trung ương đầu hàng, đồng bằng sông Cửu
Long đã hoàn toàn giải phóng. Mấy tháng đầu sau Hiệp định Paris, trong chỉ
dạo thực hiện, nhiều nơi chưa thấu suốt tinh thần chỉ đạo của Trung ương,
không nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, tư tưởng chiến lược tiến công,
đã mất cảnh giác, mơ hồ muốn xả hơi... để địch lợi dụng thực hiện được kế
hoạch lấn chiếm, bình định, khiến lực lượng ta có tổn thất phải đến gần cuối
năm 1973 phong trào mới được khôi phục.
2.2 Quá trình chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương ở miền Bắc
(1954-1975)
Đi đôi với chiến tranh xâm lược thực dân mới ở miền Nam, đế quốc Mỹ
tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân và hải quân đối

với miền Bắc nước ta. Công tác quân sự địa phương, chiến tranh nhân dân địa
phương miền Bắc phát huy vai trò chiến lược trong nhiệm vụ chống chiến tranh
phá hoại, tham gia xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1954 - 1975). Với chiến thắng Điện Biên Phủ,
nhân dân ta kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp. Cách mạng Việt


Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Do nền kinh tế nghèo nàn,
lạc hậu, lại bị tàn phá nặng nề sau 9 năm kháng chiến, miền Bắc mới giải phóng
đã phải đương đầu với nạn đói lan tràn trên 200 xã thuộc các tỉnh đồng bằng
sông Hồng, vùng trung du Bắc Bộ và Khu 4. Đồng thời, miền Bắc vừa phải đối
phó với những âm mưu, hoạt động phá hoại của địch để mau chóng ổn định tình
hình, vừa phải tiến hành những công việc cấp bách nhằm khôi phục, phát triển
kinh tế, tổ chức cuộc sống mới, tiếp tục cuộc đấu tranh hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước. Khó khăn chồng chất. Dưới sự lãnh
đạo tập trung thống nhất của Đảng, nhân dân ta vừa ra sức khắc phục hậu quả
chiến tranh, xây dựng bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vừa đấu tranh đòi địch
thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơ-ne-vơ, hết lòng hết sức chi viện miền
Nam, tích cực giúp cách mạng Lào và cách mạng Cam-pu-chia. Đó là những đặc
điểm chính chi phối trực tiếp công tác quân sự địa phương, chiến tranh nhân dân
địa phương miền Bắc khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sự phát triển
của công tác quân sự địa phương, chiến tranh nhân dân địa phương trên miền
Bắc có thể chia thành 2 thời kỳ:
* Giai đoạn 1954 – 1965:
Đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược bí mật phá hoại miền Bắc. công tác quân
sự địa phương miền Bắc tham gia khôi phục, phát triển kinh tế, xây dựng quân
đội, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ hậu phương lớn, chi viện tiền
tuyến lớn.
Xuất phát từ quan điểm coi miền Bắc là nguồn gốc là đầu não lãnh đạo

cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, đế quốc Mỹ luôn gắn chặt chủ trương
phá hoại miền Bắc với các chủ trương, biện pháp tiến hành chiến tranh xâm
lược miền Nam, coi phá hoại miền Bắc là một bộ phận quan trọng không thể
thiếu của chiến tranh xâm lược miền Nam.
Từ tháng 7-1954 đến giữa năm 1960, để thực hiện ý đồ gây mất ổn định


chính trị xã hội trong nội địa miền Bắc, đế quốc Mỹ chủ trương tiến hành các kế
hoạch bí mật phá hoại miền Bắc, dưới hình thức phá hoại vũ trang kết hợp với
hoạt động chống phá cách mạng của bọn phản động tại chỗ. Mục tiêu phá hoại
tập trung chủ yếu vào các đường giao thông, các phương tiện vận tải, kho tàng.
Thủ đoạn của chúng là tung những tổ đặc vụ ra miền Bắc. Sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng đối với công tác quân sự địa phương, chiến tranh nhân dân địa phương
miền Bắc trong thời kỳ này nổi lên những điểm chính như sau:
Ưu điểm lớn nhất là đã phát huy vai trò chiến lược của lực lượng vũ trang
địa phương, công tác quân sự địa phương, chiến tranh nhân dân địa phương trong
nhiệm vụ trấn áp lực lượng phản cách mạng, chống cưỡng ép di cư, diệt biệt kích
thổ phỉ... làm thất bại chiến tranh phá hoại bí mật của địch hòng gây “chiến tranh
du kích” trong lòng miền Bắc. Đồng thời đã chủ động lãnh đạo, chỉ đạo công tác
chuẩn bị mọi mặt của các địa phương, bộ, ngành Nhà nước, góp phần đánh thắng
hiệp đầu chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân, hải quân của đế quốc
Mỹ, ổn định tình hình, chi viện miền Nam ngày càng lớn. Bước đầu đã lãnh đạo,
chỉ đạo có kết quả chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng

ở địa phương và

trong các bộ, ngành Nhà nước, chuẩn bị tốt kế hoạch chuyển miền Bắc vào thời
chiến. Đã thể chế hóa một bước công tác quân sự địa phương, công tác quân sự

ở các bộ, ngành Nhà nước thành cơ chế “Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức

thực hiện, cơ quan quân sự làm tham mưu”, cơ sở quan trọng cho việc hoàn chỉnh
cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng địa phương sau này.
Khuyết điểm chính của lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện là trong những năm từ
1954 đến 1958 không kịp thời xác định vị trí, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức công tác
quân sự địa

phương, lực lượng dân quân tự vệ trong tình hình mới, nảy sinh những

nhận thức, quan điểm lệch lạc trong một số Đảng viên, cán bộ chủ chốt

ở địa

phương, bộ, ngành Nhà nước. Khi địch bắt đầu chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng


không quân, hải quân, sự chỉ đạo công tác phòng tránh sơ tán của một số nơi chưa
kiên quyết, chưa có tổ chức chặt chẽ để gây tổn thất lẽ ra có thể hạn chế được.
* Giai đoạn từ 1965 đến 1975
Đế quốc Mỹ công khai đẩy mạnh chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không
quân, hải quân đánh phá miền Bắc hòng tạo thế mạnh ép ta thương lượng theo
điều kiện của Mỹ. chiến tranh nhân dân địa phương, công tác quân sự địa phương
miền Bắc tích cực chống chiến tranh phá hoại bảo vệ miền Bắc, tham gia khôi
phục, phát triển kinh tế chi viện giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác quân sự địa phương, chiến
tranh nhân dân địa phương chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền
Bắc thời kỳ này nổi lên những điểm chính như sau:
Đảng, Nhà nước ta đã dự kiến đúng âm mưu, thủ đoạn chiến tranh phá
hoại của địch, kịp thời đề ra những chủ trương, phương châm đúng đắn, sáng
tạo, chủ động tổ chức và chỉ đạo các địa phương, bộ, ngành, Nhà nước tiến
hành những biện pháp chuẩn bị và kịp thời chuyển sang thời chiến, tổ chức

phòng tránh, đánh địch bảo đãm giao thông có hiệu quả. Điểm nổi bật là trên
dưới một lòng, cả nước một ý chí, thống nhất tư tưởng và hành động, phối hợp
hiệp đồng chặt chẽ từ các ngành, các cấp ở Trung ương đến cơ sở; giải quyết tốt
mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, đoàn kết các dân tộc, tôn giáo,
đoàn thể cách mạng. Đó là cơ sở vững chắc tạo nên sức mạnh vật chất và trí tuệ
to lớn. Quyết tâm vững chắc, càng ác liệt, quần chúng càng hăng hái, tin tưởng,
kiên quyết chiến đấu. Trong quá trình chỉ đạo, Đảng, Nhà nước rất coi trọng
công tác tổng kết, phổ biến kinh nghiệm phòng không nhân dân, động viên sức
mạnh khoa học kỹ thuật phục vụ yêu cầu đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, đã
chủ trương mạnh dạn trang bị súng máy, pháo phòng không cho dân quân tự vệ,
sử dụng lực lượng vũ trang địa phương bảo vệ vùng ven biển thay chủ lực
chuyển dần vào chiến đấu ở phía Nam hầu như giao toàn bộ nhiệm vụ bảo vệ
hậu phương lớn miền Bắc cho các lực lượng địa phương khi các binh đoàn chủ


lực chuyển vào giải quyết miền Nam (Xuân 1975). Chủ trương quân sự hóa, vũ
trang hóa toàn dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng đã tạo điều kiện thuận lợi
phát triển công tác quân sự địa phương, chiến tranh nhân dân địa phương lên
một bước mới rất cao, phát huy vai trò chiến lược của dân quân tự vệ trong mọi
hoạt động chống chiến tranh phá hoại ở cơ sở. Các địa phương, bộ, ngành Nhà
nước chấp hành rất nghiêm nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, tích cực
chủ động và vận dụng sáng tạo phù hợp với mỗi địa phương, ngành. Đặc biệt,
đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất và chiến đấu, phát huy hiệu lực
chính quyền và tổ chức sản xuất tập thể nhất là vai trò hợp tác xã nông nghiệp
đã phát huy tác dụng rất lớn trong mọi hoạt động ở cơ sở.
Tuy nhiên, những ưu điểm trên chưa phải đã phát huy được ngay từ đầu
mà phải qua một quá trình rút kinh nghiệm, nhất là ở cấp tổ chức thực hiện, vẫn
còn biểu hiện chưa chấp hành thật nghiêm chỉnh lệnh phòng không sơ tán ở một
số ngành, một số địa phương, cơ sở. Việc kiểm tra, đôn đốc có lúc thiếu kiên
quyết, chưa kịp thời, còn chủ quan sơ hở, nhất là đôn đốc sơ tán trong chiến

dịch tập kích đường không chiến lược của không quân Mỹ 12 ngày đêm cuối
năm 1972 ở Hà Nội, Hải Phòng và khuyết điểm để thoát bọn biệt kích Mỹ đổ bộ
trực thăng xuống thị xã Sơn Tây hòng cướp tù binh phi công (tháng 11-1970).
3. Nhận xét và bài học kinh nghiệm chủ yếu về lãnh đạo, chỉ đạo chiến
tranh nhân dân địa phương trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước
3.1

Nhận xét

về lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương trong

kháng chiến chống Mỹ cứu nước
* Ưu điểm
Một là, Đảng đã nắm vững quy luật cách mạng, quy luật chiến tranh và
đấu tranh vũ trang cách mạng, xác định vai trò, vị trí chiến lược quan trọng
của chiến tranh nhân dân địa phương, chỉ đạo phát triển đưa lên trình độ cao
trong quá trình phát triển của cuộc chiến tranh.
Trong chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, xuất phát từ quan


điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, con người là nhân tố quyết định,
đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, của ta và từ kinh nghiêm lịch sử,
Đảng đã đưa chiến tranh du kích từ hình thức đấu tranh vũ trang của quần chúng
trong phạm trù nghệ thuật quân sự lên thành phương thức đấu tranh cách mạng
của quần chúng để giành và giữ chính quyền. Chiến tranh nhân dân với nội dung,
hình thức, phương thức đấu tranh đánh giặc của toàn dân, lấy lực lượng chính trị,
lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt, mang tính chất toàn dân, toàn diên
và triệt để của cuộc chiến tranh nhân dân ở địa phương, ở cơ sở phát triển ngày
càng cao. Nó không còn chỉ là hoạt động của các đội du kích, mà là của toàn dân
dũng cảm kiên cường trụ bám chắc ở làng, bản quê hương để đánh giặc và đấu

tranh toàn diện với giặc bằng nhiều hình thức phong phú (cả quân sự, chính trị,
kinh tế, tâm lý, tư tưởng...) Đánh địch để làm chủ, làm chủ để đánh địch ngày
càng mạnh, đánh địch ở thế tiến công, đánh địch bằng cả thế và lực, vận dụng
phương châm từng vùng, từng lúc thích hợp với tương quan lực lượng địch, ta.
Ở miền Bắc trong chống chiến tranh phá hoại, trên cơ sở tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa, điều kiện kinh tế xã hội phát triển, lực lượng vũ trang
3 thứ quân đều lớn mạnh; Đảng đã xác định vị trí chiến lược quan trọng của
công tác quân sự địa phương. CTNDĐP, chỉ đạo đưa lên trình độ cao và đều
khắp ngay từ đầu, góp phần quan trọng đánh thắng chiến tranh phá boại của Mỹ,
bảo vệ miền Bắc chi viện miền Nam.
Xuất phát từ quy luật chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược, nhất là một
nước nhỏ phải đương đầu với một đế quốc to, có tiềm lực kinh tế và quân sự
hùng mạnh, Đảng ta đã phát động cuộc chiến tranh toàn dân, kết hợp chặt chẽ
hai phương thức tiến hành chiến tranh: chiến tranh chính quy và CTNDĐP để
đánh bại quân địch lớn mạnh và hung hãn. Mỗi phương thức đều có vị trí chiến
lược quan trọng của nó, trong đó CTNDĐP vừa là một trong hai phương thức
tiến hành chiến tranh, vừa là phương thức đấu tranh cách mạng của quần chúng.
Việc xác định đúng và luôn luôn nắm vững vị trí chiến lược quan trọng của


CTNDĐP đã tạo nên sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhất
là các đảng bộ và nhân dân địa phương, đề cao trách nhiệm chỉ đạo của cấp ủy
đảng, sự tham gia của các ngành, các đoàn thể và toàn dân, đưa phong trào
CTNDĐP ở cả 2 miền Nam, Bắc vượt qua thử thách ác liệt phát triển đến trình
độ cao. Quá trình đó cũng là quá trình đấu tranh khắc phục những quan điểm
nhận thức sai trái như: coi nhẹ đấu tranh chính trị, hoặc nhấn mạnh một chiều
đấu tranh chính trị, không thấy hết vị trí quyết định của chiến tranh chính quy,
chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực.
Hai là, Qua thực tế đấu tranh, ta hiểu ngày càng rõ âm mưu thủ đoạn của
địch chống phá CTNDĐP: vừa tàn bạo, vừa thâm độc, đồng thời đây cũng là

điểm yếu cơ bản của chúng; tin tưởng sâu sắc, đánh giá đúng khả năng và sức
mạnh tiềm tàng của quần chúng cách mạng
Trong kháng chiến chống Mỹ, ở miền Nam, ta hiểu địch ngày càng rõ
hơn. Đế quốc Mỹ rất sợ CTNDĐP của ta. Chúng đã đặt thành học thuyết
“chiến tranh chống nổi dậy”, “chống du kích” bằng cả một hệ thống quan điểm,
với những biện pháp đối phó cùng mọi thủ đoạn đàn áp cực kỳ độc ác nham
hiểm, sử dụng nhiều lực lượng, nhiều thứ quân, nhất là bọn ác ôn, mật vụ, bộ
máy kìm kẹp dầy đặc để khống chế quần chúng cách mạng ở cơ sở... Trong chỉ
đạo chiến tranh nhân dân địa phương, Đảng đã xác định phải đánh giá đúng khả
năng cách mạng của quần chúng ở cơ sở, phải bám sát dân, tin tưởng vào sức
mạnh của nhân dân. Càng khó khăn, càng phải giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa Đảng với quần chúng. Đảng bám dân, dân tin Đảng. Nhờ quán triệt sâu
sắc quan điểm cơ bản đó, nhiều Đảng bộ địa phương, cơ sở trong những thời
điểm địch đánh phá ác liệt, phong trào chiến tranh nhân dân địa phương gặp
muôn vàn khó khăn, đã đánh giá quần chúng rất chính xác
Ba là, chỉ đạo nghệ thuật tiến hành CTNDĐP sáng tạo, sắc bén, đạt hiệu
lực chiến lược cao


Ưu điểm hàng đầu là Trung ương và Quân ủy Trung ương đã thường
xuyên xác định và quán triệt cho các cấp: tư tưởng chiến lược tiến công, vận
dụng sáng tạo phương châm tiến công địch bằng “hai chân, ba mũi, trên cả ba
vùng chiến lược” (nông thôn đồng bằng, rừng núi và đô thị). CTNDĐP là chỉ
có tiến công, kết hợp chặt chẽ giữa làm chủ và tiến công, tiến công địch để mở
rộng quyền làm chủ, làm chủ để tiến công địch ngày càng cao, toàn diện, và
đều khắp, với hiệu quả ngày càng lớn hơn. Một người, một tổ cũng tiến công.
Kẻ địch nào cũng đánh, đánh chúng ở mọi nơi, mọi lúc đánh bằng mọi lực
lượng, mọi thứ vũ khí, đánh địch để bảo vệ dân, giữ vững cơ sở chính trị.
Trong chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, CTNDĐP phải tích cực tiến
công địch, bắn rơi nhiều máy bay, bắn chìm tàu chiến của địch để bảo vệ mục

tiêu, bảo vệ dân, bảo đảm giao thông thông suốt trong mọi tình huống. Kết hợp
đánh địch với chủ động sơ tán và tổ chức phòng tránh tốt, khắc phục hậu quả
kịp thời, thực hiện khẩu hiệu “toàn dân đánh máy bay, tàu chiến địch; toàn dân
phòng tránh và bảo đảm giao thông vận tải, kết hợp sản xuất với chiến đấu,
đánh thắng chiến tranh phá hoại và không ngừng chi viện lực lượng mọi mặt
cho miền Nam”.
Bốn là, Trên cơ sở giác ngộ chính trị của quần chúng, thường xuyên chăm
lo xây dựng lực lượng và thế trận CTNDĐP, trong đó chú trọng việc xây dựng
lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ở cơ sở, xây dựng căn cứ địa
Xuất phát từ quan điểm bạo lực cách mạng với hai lực lượng chính trị và
vũ trang, bằng đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh vũ trang, Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã thường xuyên xác định và quán
triệt cho các cấp phải chăm lo xây dựng cả hai lực lượng chính trị và vũ trang cơ
sở, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đảng bộ các cấp đã trên cơ sở giác ngộ
chính trị của quần chúng, chăm lo xây dựng lực lượng với hình thức hết sức
phong phú, đa dạng, trang bị thích hợp. Trên cơ sở tổ chức các đoàn thể quần
chúng, để hình thành đội quân chính trị (đội quân tóc dài) có nòng côt, có rộn

g


×