Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH sử ĐẢNG NĂNG lực HOẠCH ĐỊNH ĐƯỜNG lối và LÃNH đạo CÁCH MẠNG của ĐẢNG QUA các THỜI kỳ CÁCH MẠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.11 KB, 29 trang )

Năng lực hoạch định đường lối và lãnh đạo cách mạng
của Đảng qua các thời kỳ cách mạng
---  --Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản hàng đầu, bảo đảm quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi ra đời ngày 3 tháng 2 năm
1930, Đảng ta đã có một đờng lối đúng đắn, sáng tạo đưa cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi ngay cả trong cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân và trong cả cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt,
qua hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,
nhân dân ta đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử: “Đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an
ninh giữ vững. Vị thế nớc ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới
cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp hơn”1. Đạt được những thắng
lợi to lớn và vĩ đại đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng
nguyên nhân cơ bản hàng đầu giữ vai trò quyết định vẫn chính là đường lối
chính trị đúng đắn sáng tạo của Đảng ta. Đường lối đó được hình thành dựa
trên cơ sở Đảng ta nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối cách mạng Việt Nam cho phù hợp với
từng giai đoạn lịch sử cách mạng; đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng
Việt Nam đưa cách mạng Việt Nam tiến lên giành thắng lợi. Có thể khẳng định
đường lối lãnh đạo của Đảng không những thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý
luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạch định đường lối
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H,2006, tr68.

1




mà còn thể hiện rõ quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường
lối phản ánh rõ năng lực tuyệt vời của Đảng trong hoạch định đường lối và lãnh
đạo cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Năm tháng sẽ qua đi
những những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng luôn minh chứng một cách hùng hồn về vai trò và công lao to lớn của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam nhân tố cơ bản hàng
đầu bảo đảm quyết định mọi thắng lợi của cách mạng từ trước đên nay và mãi
mãi về sau.
Thật vậy, trải qua gần 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn, những thắng lợi đó càng tô thắm
lên truyền thống lịch sử vĩ đại của Đảng ta- một Đảng mác xít chân chính; với
một tầm trí tuệ cao, năng lực lãnh đạo tuyệt vời, nhất là năng lực hoạch định
đường lối và năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ cách
mạng. Đặc biệt, khi cách mạng chuyển giai đoạn thì năng lực của Đảng lại
được phát huy lên một tầm cao mới, thể hiện rõ bản lĩnh chính trị và tài thao
lược của Đảng ta để chèo lái con thuyền cách mạng nước ta đi tới thắng lợi
hoàn toàn. Thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng luôn
chứng minh chứng minh điều đó. Ngay từ khi ra đời Đảng ta đã có một đường
lối chính trị đứng đắn sáng tạo; đường lối đó là sự vận dụng sáng tạo lý luận
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác định đường lối cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn cách mạng mới thể hiện sâu sắc, cụ thể trong cương lĩnh
đầu tiên của Đảng. Từ việc xác định mục tiêu, phướng hướng của cách mạng,
nhiệm vụ cách mạng, lực lượng, phương pháp cách mạng, mối quan hệ cách
mạng tới việc xây dựng Đảng trong cách mạng đã phản ánh sâu sắc tính đúng
đắn, sáng tạo của Đảng giải quyết được những yêu cầu bức thiết của thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Với đường lối đúng đắn đã tập hợp, thu hút được đông
đảo quần chúng nhân dân tham gia làm cách mạng, tạo nên sức mạnh tổng hợp
của quần chúng nhân dân tham gia phong trào đấu tranh cách mạng dưới sự

lãnh đạo của Đảng. Do đó đã tạo ra thắng lợi phong trào cách mạng của quần
2


chúng rộng khắp như: Cao trào cách mạng 1930- 1931; Cao trào cách mạng
1936 -1939 và Cao trào cách mạng 1939- 1945. Đặc biệt, đỉnh cao là cách
mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi hoàn toàn đất nước được hoà bình
độc lập đi lên chủ nghĩa xã hội trở thành một Nhà nước công, nông đầu tiên của
Đông Nam á. Có thể khẳng định thắng lợi cách mạng Tháng Tám năm 1945 là
thắng lợi của phương pháp và nghệ thuật lãnh đạo khởi nghĩa tài tình, sáng tạo
của Đảng thể hiện rõ năng lực hoạch định đường lối và lãnh đạo sáng tạo của
Đảng, Đảng ta luôn bám sát vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam, dự báo
chính xác xu hướng vận động của thực tiễn của cách mạng nước ta và những
thuận lợi, khó khăn của thế giới đem lại .Trên cơ sở nắm vững bản chất cách
mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy
quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối cách mạng
nước ta. Do vậy, đã đã giành được thắng lợi to lớn đối với cách mạng nước ta.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của nghệ thuật khởi
nghĩa sáng tạo, biết tạo thời cơ cách mạng chín muồi và nắm bắt thời cơ cách
mạng và tình thế cách mạng, Đảng ta chỉ đạo kịp thời khởi nghĩa giành chính
quyền nhanh nhất khi có điều kiện chín muồi. Mặc dù nhiều nơi chưa nhận
được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, nhưng nhận thấy những chuyển biến
mau lẹ của thời cuộc, căn cứ vào Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta” của Đảng. Đảmh ta đã kịp thời phát động quần chúng nhân dân
khởi nghĩa giành chính quyền. Do vậy, chúng ta đã giành thắng lợi to lớn
trong khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945, và điều đó minh
chứng cho sự tài tình, sáng suốt của Đảng ta; thể hiện rõ tư duy, độc lập, tự
chủ sáng tạo, tầm trí tuệ cao, bản lĩnh và năng lực hoạch định đường lối đứng
đắn, sáng tạo, tuyệt vời của Đảng ta cững như sự chỉ đạo của Đảng ta trước
giai đoạn lịch sử cách mạng đó.


Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đất nước ta gặp nhiều khó
khăn thử thách, tình hình đất nước như “Ngàn cân treo sợi tóc” kinh tế
kiệt quệ, nạn đói hoành hành. Trong khi đó các thế lực thù địch cấu kết
3


với nhau hòng bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ, thiết lập chính
quyền bù nhìn làm tay sai cho chúng...Nhưng với tư duy, độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quyết
sách táo bạo, mềm dẻo, chính xác. Đó là khi thì hoà với quân Tưởng để
đánh Pháp, khi thì hoà với quân Pháp để gạt quân Tưởng để tránh cho
nhân dân ta cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù, để giữ vững
chính quyền cách mạng, đồng thời có điều kiện để chuẩn bị mọi mặt cho
cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược. Đây cũng
chính là bản lĩnh chính trị, tư duy, độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta
được phát huy và nâng lên tầm cao mới, thể hiện rõ năng lực hoạch định
đường lối đúng đắn, sáng tạo, tuyệt vời của Đảng, trước những yêu cầu
bức thiết của cách mạng Việt Nam; nhất là khi cách mạng chuyển giai
đoạn, những bước ngoặt của lịch sử. Với thực tiễn đó, mà Đảng đã lãnh
đạo nhân dân ta vượt qua vô vàn những khó khăn thử thách đưa cách
mạng nước ta giành thắng lợi và được minh chứng cụ thể bằng kết quả
chính quyền cách mạng được giữ vững, chúng ta đã từng bước gạt bỏ kẻ
thù ra khỏi đất nước ta để xác định rõ kẻ thù chủ yếu lâu dài, tập trung
chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài giành thắng lợi. Mặt
khác, khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy hy sinh,
gian khổ của nhân dân ta. Tương quan so sánh về kinh tế và quân sự, lực
lượng lúc đầu của ta với đế quốc Pháp có sự chênh lệch. Thực dân Pháp
có tiềm lực kinh tế, quân sự, lực lượng.. đã đặt ra cho Đảng ta những
yêu cầu mới. Song với tư duy độc lập , tự chủ, sáng tạo thể hiện rõ năng

lực lãnh đạo và hoạch định đường lối sáng tạo của một Đảng mác xít
chân chính, Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu
dài dựa vào sức mình là chính. Đường lối đó đã phản ánh đúng đắn tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân ta vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
4


Do vậy, đã huy động và cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đoàn kết chiến đấu của
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng. Với sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc tập trung cho cuộc kháng chiến cùng với đường lối
đúng đắn sáng tạo của Đảng nhân dân ta liên tiếp giành những thắng lợi
to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với đỉnh
cao kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ chấn động
đại cầu vào năm 1954. Miền Bắc được hoà bình, độc lập hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đi lên chủ nghĩa xã hội. Đối
với miền Nam vẫn còn đặt dưới sự đô hộ của Đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai Ngô Đình Diệm. Điều này càng chứng tỏ bản lĩnh chính trị, tài thao lược
năng lực lãnh đạo tuyệt vời của Đảng ta được phát huy cao độ trước những
khó khăn nhất của lịch sử. Đặc biệt, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân với tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo thể hiện rõ bản lĩnh chính trị và năng lực tuyệt vời của Đảng
Đảng trong hoạch định đường lối và lãnh đạo cách mạng Việt Nam lại được
phát huy cao độ. Đảng ta đã kịp thời đề ra đường lối cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới và được thể hiện sâu sắc nhất trong đờng lối Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960 trong đó xác định rõ: Tiến hành
đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đây chính là
tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, năng lực và tầm trí tuệ cao của Đảng trong
hoạch định đường lối cách mạng của Đảng ta trước đòi hỏi thực tiễn cách
mạng nước ta. Nhưng với một quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng

trong hoạch định đờng lối kháng chiến lúc này lại đợc thể hiện sâu sắc hơn, linh
hoạt nhạy bén với sự phát triển của tình hình với một t tởng luôn chủ động tiến
công, không được dựa dẫm, trông trờ từ bên ngoài hãy bằng chính thực lực của
mình; bằng chính trí tuệ, năng lực sự phân tích, đánh giá tình hình chính xác có
căn cứ khoa học đã giúp Đảng ta có đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo. Do
5


đó đã trực tiếp đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của chúng ta giành
thắng lợi hoàn toàn; để cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cũng vậy, năng lực lãnh đạo và hoạch định đường lối của Đảng không
chỉ dừng lại trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân; trong chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc mà trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo thể hiện bản lĩnh và năng lực hoạch định đường lối và lãnh đạo cách
mạng của Đảng lại được nâng lên một tầm cao mới, điều này được thực tiễn
cách mạng nước ta chứng minh. Khi bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội còn hết sức mới mẻ, trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng, nên không tránh khỏi những vấp váp,
sai lầm. Đặc biệt, thực hiện cơ chế quản lý kinh tế không phù hợp, cùng với
tư tưởng chủ quan, duy ý chí, từ đó làm cho đất nước rơi vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng trong giai đoạn từ năm 1976 đến năm
1986. Trước thực tiễn đó, một lần nữa bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo
của Đảng được phát huy cao độ, từ việc Đảng nhận thức rõ khuyết điểm, sai
lầm trong lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là: do duy
trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chưa nhận thức đầy đủ những
quy luật kinh tế khách quan trong phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, Đảng đã
tích cực nghiên cứu, tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, hình thành lên đường lối
đổi mới và đề ra những chủ trương, biện pháp thiết thực, nhằm tháo gỡ những
khó khăn về kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện nâng cao đời sống nhân dân.
Nhìn lại quá trình hình thành, phát triển đường lối đổi mới của Đảng

ta được đánh dấu bởi ba bước đột phá quan trọng mà được Đại hội X của
Đảng tổng kết chỉ rõ: Bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới là Nghị
quyết Trung ương sáu khoá IV (8/1979) với chủ trương làm cho sản xuất
“bung ra”; Hội nghị chủ trương sử dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh và tập thể để phát triển sản xuất; đổi mới cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; quan tâm đến lợi ích
cộng đồng, tập thể và cá nhân người lao động; kết hợp ba lợi ích đó. Để thực
6


hiện chủ trương trên Đảng có Chỉ thị 100/ CT-TW (1/1981) về công tác
khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp. Trong công nghiệp có Quyết định 25 - CP (1/1981) của Chính phủ về
quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ vê tài chính của các xí
nghiệp quốc doanh (đưa ra kế hoạch 3 phần); và Nghị quyết định 26/NQTW(6/1980) của Bộ Chính trị về cải tiến công tác phân phối, lưu thông; tạo
tiền đề cần thiết để tiến tới xoá bỏ từng bước chế độ cung cấp theo tem phiếu.
Có thể thấy các Chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Chính phủ ra đời đã nhanh
chóng đi vào cuộc sống tạo thành động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Hơn
thế, từ những chủ trương, giải pháp nêu trên trong quá trình tổ chức thực hiện
đã mang lại những thành tựu to lớn, cung cấp cho Đảng ta những luận cứ
quan trọng để Đảng ta tiếp cận nắm vững bản chất chủ nghĩa xã hội khoa học,
nhận thức sâu sắc các quy luật kinh tế khách quan; thừa nhận sản xuất hàng
hoá và nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhất là, Đảng
ta nhận thức rõ về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đó
là thời kỳ quá độ lâu dài và chia ra nhiều bước quá độ, nhiệm vụ bước đi ban
đầu là tập trung phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân tạo điều
kiện, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) là bước phát triển tư duy mới
của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã xác định thứ tự ưu tiên trong phát

triển kinh tế là: Tập trung ra sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, sau nông nghiệp là công nghiệp nhẹ, bên cạnh đó là phát
triển một số ngành công nghiệp nặng, trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý.
Điều này lại càng chứng minh cho Đảng ta về tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo, năng lực hoạch định đường lối kinh tế đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với
quy luật kinh tế khách quan và điều kiện thực tiễn của đất nước ta. Đúng với
lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin. Theo V.I. Lênin: “Một đất nước nông nghiệp,
muốn công nghiệp phải bắt đầu từ nông nghiệp, nông thôn” mà thực tiễn
7


nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, lực lượng sản xuất còn
thấp kém; trong khi nước ta là một nước nông nghiệp (nông nghiệp chiếm gần
90%) nhưng vẫn thiếu lương thực; khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống
nhân dân gặp khó khăn. Do đó, Đại hội V của Đảng xác định thứ tự ưu tiên
trong phát triển kinh tế là bước phát triển quan trọng trong tư duy kinh tế của
Đảng ta và chính điều này cũng đã khắc phục được chủ trương nóng vội, chủ
quan của Đảng ta trước đó lại là: “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” mà
Nghị quyết Đại hội III của Đảng đề ra, đến Đại hội IV và sau là Đại hội V của
Đảng điều chỉnh lại cho phù hợp. Đặc biệt, bước đột phá thứ hai trong quá
trình hình thành, phát triển đường lối đổi mới là: Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương tám khoá V(6/1985) với chủ trương dứt khoát xoá bỏ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ
cung cấp bằng hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh
doanh, sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; giá, lương, tiền được
coi là đột phá khẩu chuyển đổi cơ chế. Điều quan trọng nhất là Hội nghị thừa
nhận sản xuất hàng hoá mà những quy luật hàng hoá dưới chủ nghĩa xã hội. Đây
có thể nói đường lối mà Đảng ta đề ra là đúng đắn, sáng tạo, nhưng trong quá
trình tổ chức thực hiện đã làm không đúng quy trình (làm ngược lại) do đó đã để
lại hậu quả khủng hoảng trầm trọng. Đến Hội nghị Bộ Chính trị ( 8/1986 ) đã có

những kết luận đối với vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế là: trong bố trí cơ cấu
sản xuất, cơ cấu đầu tư phải hướng nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; ra sức phát
triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng phát triển có chọn lọc; trong cải tạo xã
hội chủ nghĩa phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng của
thời kỳ quá độ; trong cơ chế quản lý lấy kế hoạch là trung tâm, nhưng đồng thời
phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá, tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp. Chính sách giá phải vận dụng đúng quy luật giá trị, tiến tới
thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba có ý nghĩa lớn trong đổi
mới tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội nước ta. Đặc biệt tạo cơ sở nền tảng vững chắc để Đảng ta thực hiện
8


đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Như vậy, ba bước đột phá quan trọng
trong quá trình phát triển hình thành đường lối đổi mới chính là tiếp tục khẳng
định năng lực hoạch định đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta .
Đương nhiên chỉ có thông qua ba bước đột phá quan trọng như vậy mới đặt ra
những yêu cầu và nhiệm vụ cần thiết và cấp bách cho Đại hội VI của Đảng giải
quyết. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) chính là Đại
hội đổi mới. Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng
sự thật. Đại hội đã hình thành đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội xác định rõ: đổi mới là tất
yếu khách quan, là yêu cầu bức thiết của cách mạng nước ta. “ Chỉ có đổi mới
thấy đúng, thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai
lầm để sửa chữa”2. Đảng ta xác định: Trong giai đoạn đầu tập trung sức đổi
mới kinh tế, đồng thời đổi mới kinh tế phải đổi mới chính trị và đổi mới chính
trị phải làm từng bước, thận trọng với hình thức, bước đi và cách làm phù
hợp. Điều đó thể hiện rõ năng lực hoạch định đường lối đúng đắn, sáng tạo
của Đảng ta. Đặc biệt, trong đó Đảng xác định rõ những khâu chủ yếu, then
chốt và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới

chính trị. Mặt khác, quan điểm của Đảng xác định: đổi mới không phải là phủ
định sạch trơn, đổi mới phải biết kế thừa thành tựu, kết quả đã thu được trong
quá khứ. Đổi mới không có nghĩa là phủ định những thành tựu lý luận đã đạt
được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại chính là sự bổ
sung và phát triển những thành tựu ấy. Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, nhưng phải có hình thức,
bước đi, cách làm thích hợp. Thấm nhuần quan điểm đó mà nhận thức trong
lĩnh vực kinh tế, Đảng ta thừa nhận nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành
phần tồn tại dưới chủ nghĩa xã hội.

2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.ST,H 1987, tr26-27.

9


Có thể khẳng định với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong
hình thành và phát triển đường lối đổi mới toàn diện, phản ánh rõ năng lực
lãnh đạo và sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong công cuộc đổi mới.
Đại hội X của Đảng kết luận: Đường lối đổi mới không phải tự nhiên mà có,
mà là kết quả của sự tìm tòi, khảo nghiệm từ đổi mới từng phần, đến đổi mới
toàn diện, đồng bộ, triệt để. Trong quá trình đổi mới, các ý kiến, cách làm của
nhân dân là quan trọng, Đảng biết lắng nghe, chắt lọc, khái quát thành chủ
trương của Đảng; đổi mới là quá trình đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, nó
diễn ra trong từng con người, từng tổ chức; đường lối đổi mới được hình
thành trên cơ sở độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam, tham khảo, học tập kinh nghiệm các nước, phù hợp với nguyện
vọng của quần chúng nên đã được quần chúng đón nhận và đi vào cuộc sống

đã thu được những thành tựu quan trọng; góp phần thúc đẩy sự nghiệp các
mạng nước ta giành thắng lợi to lớn hơn trong giai đoạn mới hiện nay.
Đặc biệt, thực tiễn sau hai năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội
VI đề ra, tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn tiếp tục diễn ra nghiêm
trọng, có mặt trở lên gay gắt hơn, nhiều vấn đề bức xúc xã hội chưa được giải
quyết. Trong bối cảnh đó, Đảng ta vẫn kiên định với con đường xã hội chủ
nghĩa, kiên trì đường đổi mới, không hoang mang dao động, trước những khó
khăn thử thách, tiến hành đổi mới có nguyên tắc, không sao chép mô hình của
nước khác, không vì sức ép bất cứ phía nào mà thay đổi phương hướng, mục
tiêu đã xác định trong quá trình đổi mới. Đảng luôn giữ vững nguyên tắc
chiến lược trong công cuộc đổi mới đó là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa
xã hội. Đảng thường xuyên tổng kết thực tiễn, để bổ sung làm phong phú lý
luận chỉ đạo thực tiễn. Đặc biệt Đảng luôn bám sát thực tiễn, bám nắm cách
nghĩ, cách làm của nhân dân trong thực tiễn, để Đảng kịp thời khái quát thành
những quan điểm, những nguyên tắc, những bài học kinh nghiệm có giá trị to
lớn chỉ đạo sự nghiệp đổi mới đem lại thành công to lớn trong công cuộc đổi
mới.
10


lầm về đường lối. Công cuộc đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng vẫn phát triển một cách vững chắc.sau Đại hội VI ( tháng 12 năm
1986 ) Đảng tiếp tục cụ thể hoá, bổ sung phát triển đường lối đổi mới, chỉ đạo
từng bước thực hiện hoá đường lối đổi mới xuất phát từ tính chất, qui mô
công cuộc đổi mới Hội nghị Trung ương 6 khoá VI đã đề ra chủ trương chính
sách cụ thể để phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế, đổi mới hoạt động
lãnh đạo của đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị đã đề ra 5 nguyên tắc
đổi mới quyết định quan trọng đó đã thúc đẩy kinh tế phát triển, để bảo đảm
cho mọi hoạt động của công cuộc đổi mới đi đúng hướng, Nội dung của
nguyên tắc :

Một là, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự
lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của đảng ta. Xây dựng nước việt nam xã hội
chủ nghĩa là mục tiêu lý tưởng của đảng và nhân dân ta.
Hai là: Chủ nghĩa Mác- LêNin luôn là nền tảng tư tưởng của đảng ta,
chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Ba là : Tăng cường hiệu lực của chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của
đảng là điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc của
nhân dân ta.
Bốn là: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội vùa là mục tiêu vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm là : Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và
quốc tế xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới. Đảng đã xác định được nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công
cuộc đổi mới tại Để giữ vững những nguyên tắc đó, trong quá trình đổi mới,
đòi hỏi Đảng phải luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi
11


ích quốc gia và lợi ích quốc tế. Trên nguyên tắc giữ vững độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, nhưng trong hoạt động đối ngoại phải mềm dẻo, linh hoạt,
phù hợp điều kiện khách quan, đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá các
mối quan hệ, tranh thủ mọi thời cơ, vận hội, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa
sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi.
Nghị quyết Đại hội Đảng VII, của đảng (1991) đã xác định xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng có những đặc trưng sau ; do nhân dân lao động làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi ách áp bức bó lột bất công

làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước đều
bình đẳng đoàn kết và giúp đở nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới . Các đặc trưng trên là các
giá trị tạo nên bản chất của xã hội mới, nó phân biệt bản chất của các hình
thái kinh tế xã hội khác, các đặc trưng đó đã đặt con người vào vị trí trung
tâm …Đảng đã coi những đặc trựng đó là những tiêu chí để toàn đảng toàn
dân phấn đấu xây dựng một xã hội mới trong thời kỳ qua độ đi lên chủ nghĩa
xã hội. các nghị quyết Trung ương, nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá
VII của Đảng bổ xung, phát triển. Đảng đã độc lập, sáng tạo trong hoạch định
đường lối đổi mới, đó chính là việc Đảng ta xuất phát từ thực tiễn, nắm vững
qui luật khách quan. Từ đó, đường lối của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc
sống, được thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm, khẳng định là đúng đắn. Đường
lối đó là kết quả của quá trình Đảng tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết từ thực
tiễn cách mạng, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng
thế giới. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng xác định hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời Đảng đề ra đường lối đổi mới đất
nước một cách toàn diện, đồng bộ, triệt để trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên
12


giai đoạn đầu tập trung vào đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, trước hết là tư duy
kinh tế. Sau hai năm tiến hành đổi mới, Đảng ta xác định: Trong mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, chúng ta tập trung sức làm đổi mới
kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
các tổ chức chính trị. Tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới, Đại hội lần thứ
VII đã nhấn mạnh: Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, phải lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, phải tập trung mọi lỗ lực giải quyết các vấn đề cấp
bách về kinh tế. Trên lĩnh vực kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới tư duy kinh

tế, nhận thức đúng về các thành phần kinh tế, khuyến khích phát triển kinh tế
hành hoá nhiều thành phần; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đường lối
đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, lãnh đạo đã đáp ứng nhu cầu khách
quan của cách mạng nước ta, do đó, nó như một luồng sinh khí mới thổi vào,
tạo ra một sự chuyển biến mau chóng cho đất nước. Chúng ta mau chóng giải
quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống, vừa ổn định cuộc sống
cho nhân dân, vừa tích luỹ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố quốc
phòng, giữ vững an ninh.
Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối
đổi mới còn được thể hiện Đảng luôn bám sát thực tế, tôn trọng qui luật
khách quan, vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách, cải tổ của các
nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, nhưng không chịu sức ép, sự áp đặt,
không dập khuôn máy móc, không giáo điều bảo thủ. Tình hình thế giới có
những chuyển biến mau lẹ. Xu hướng đối đầu đã được thay thế bằng đối
thoại, hoà bình hợp tác đã trở thành xu thế khá phổ biến trong quan hệ quốc
tế. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học công nghệ đã thúc đẩy nền kinh
tế thế giới phát triển, đồng thời đặt ra cho các nước, các dân tộc muốn phát
triển phải biết tranh thủ thời cơ, vận dụng thành tựu khoa học. Trong bối cảnh
đó, tình hình cải cách, cải tổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu lâm vào khủng hoảng. Chủ nghĩa đế quốc điên cuồng chống phá
13


cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam, bằng chiến lược diễn biến hoà
bình, nhằm làm chuyển hoá dần dần đi đến xoá bỏ hoàn toàn chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng ta đã có sự điều chỉnh kịp
thời, bằng những chủ trương đúng đắn, phù hợp, từ đó đưa sự nghiệp đổi mới
đạt được những thành tựu to lớn, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tính độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta còn được thể hiện, trong quá

trình đổi mới Đảng đã thực sự thể hiện rõ trong tư duy, cũng như trong hành
động. Tuy nhiên, Đảng luôn quán triệt quan điểm biện chứng, đó chính là
phát triển nhưng có kế thừa, Đảng không phủ nhận sạch trơn, mà biết kế thừa
những thành tựu, những yếu tố tích cực mà nhân dân ta đã đạt được trong thời
gian trước đó. Đồng thời Đảng cũng không phủ nhận lý luận chủ nghĩa MácLênin, không phủ nhận những qui luật phổ biến, trái lại, Đảng luôn quán triệt
và vận dụng sâu sắc các nguyên lý, qui luật của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn
quá trình đổi mới, từ đó đem lại thành tựu to lớn cho công cuộc đổi mới.
Quá trình đổi mới, Đảng chủ trương phải toàn diện, triệt để, đồng bộ
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng phải có hình thức, bước đi
thích hợp. Đây chính là bí quyết riêng đi đến thành công của Đảng ta trong
công cuộc đổi mới. Sau đường lối đổi mới mà Đại hội VI của Đảng đề ra,
chúng ta đã tiến hành đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là cuộc
cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện trên mọi mặt của đời sống
xã hội. Nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra kể cả về lý luận cũng như thực tiễn cần
được giải quyết, chúng ta vừa đổi mới, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, từng
bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới,
sao cho đi đúng qui luật khách quan, phát triển vững chắc cho cách mạng.
Đổi mới là công việc hệ trọng, mang tính sống còn đối với mỗi quốc
gia, là công việc hết sức nhạy cảm, đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ xã
hội, như mối quan hệ giữa người với người, giữa con người với tổ chức... Nếu
tiến hành không thận trọng, không có hình thức, bước đi vững chắc, sẽ dẫn
đến đổ vỡ. Một bài học tiền nhãn, đắt giá cho các nước xã hội chủ nghĩa ở
14


Đông Âu và Liên Xô mà Đảng ta cần rút ra trong quá trình đổi mới. Chính vì
thế, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã biết tập trung đột phá đổi mới vào
hai lĩnh vực then chốt, trọng yếu nhất, đó là kinh tế và chính trị, đồng thời giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng
xác định kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực lớn, quyết định sự thay đổi bộ mặt

đất nước, quyết định đến nhiệm vụ giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh chính trị quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Ngay từ đầu, Đảng ta đã xác
định đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải được tiến hành đồng thời,
nhưng giai đoạn đầu tập trung sức cho đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước,
thận trọng đổi mới chính trị. Bởi chỉ có như thế chúng ta mới giải quyết được
mắt khâu quan trọng nhất của công cuộc đổi mới, xét đến cùng cơ sở kinh tế
là nhân tố quyết định sự ra đời và tồn tại của một chế độ xã hội. Kinh tế phát
triển sẽ bảo đảm chính trị ổn định, văn hoá, giáo dục phát triển, quốc phòng,
an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện. Trong đổi mới kinh
tế, trước hết tập trung vào lĩnh vực tư duy kinh tế, sau đến thay đổi cơ chế
quản lý kinh tế, làm thay đổi toàn bộ những suy nghĩ, những nhận thức trước
kia chưa đúng, chưa đầy đủ. Thay đổi cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp, bằng cơ chế kế hoạch hoá, từ đó khuyến khích các thành phần kinh tế
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính quá trình đổi mới kinh tế thành công, đã có tác động tích cực
đối với việc đổi mới chính trị, đó là sự giữ vững định hướng chính trị trong
quá trình đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế là mặt trận đấu tranh giai cấp gay
go quyết liệt, phức tạp nhất, nếu đổi mới kinh tế đạt kết quả sẽ tạo điều kiện
cho đổi mới chính trị thắng lợi. Đồng thời kết hợp với đổi mới kinh tế, đổi
mới chính trị sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho nền kinh tế phát triển đúng hướng,
có hiệu quả. Trong đổi mới chính trị, thể chế chính trị, vai trò của nhà nước có
tác động đến năng lực hiện thực hoá đường lối phát triển kinh tế đất nước.
Trong đổi mới chính trị, Đảng chủ trương tập trung vào việc xây dựng và phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ
15


thống chính trị. Chính việc giải quyết hài hoà mối quan hệ đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị đã giúp cho nền kinh tế đất nước ta tăng trưởng khá, đời
sống nhân dân không ngừng được cải thiện, chính trị ổn định, quốc phòng và

an ninh được giữ vững.
Đường lối đổi mới độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, là sản phẩm
của sự kế thừa lịch sử, truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua hàng ngàn năm
dựng nước, giữ nước. Đồng thời còn là sự kế thừa giá trị tinh hoa nhân loại,
biết vận dụng cụ thể vào thực tiễn, yêu cầu đòi hỏi của cách mạng. Đảng ta,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn nêu cao tinh thần độc lập
tự chủ, tự lực, tự cường, trên cơ sở đó đề ra những quyết sách đúng đắn đưa
cách mạng đi đến thắng lợi. Chúng ta không trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài,
chúng ta không bị ép buộc bởi bất cứ một thế lực nào. Đồng thời, Đảng cũng
không dập khuôn bất cứ một mô hình nào vào đường lối đổi mới, mà luôn
sáng tạo trong đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, để công cuộc đổi mới
thành công.
Đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo luôn là tư tưởng nhất quán, xuyên
suốt, là nguyên tắc sống còn đối với cách mạng Việt Nam, chính vì thế Đảng
ta mới thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng của một Đảng Mác xít chân
chính, trước những bước quanh của lịch sử, Đảng mới thể hiện được trách
nhiệm cao cả trước dân tộc. Có được thành công đó, chính nhờ Đảng luôn có
đường lối đúng đắn, luôn nắm vững qui luật khách quan, biết dựa vào dân,
phát huy sức mạnh của dân. Đường lối đổi mới nảy sinh, phát triển từ thực
tiễn, trở thành xu hướng rõ rệt của quần chúng nhân dân, bắt gặp tư duy sáng
tạo của Đảng, đi từ đổi mới từng phần, từng lĩnh vực riêng lẻ, tiến lên đổi mới
toàn diên, đồng bộ, triệt để. Qua 20 năm đổi mới (1986- 2006), cách mạng
nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, rất quan trọng: “ Nền kinh tế
đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao
hơn năm trước, bình quân 5 năm ( 2001- 2005) là 7,51% và phát triển tương
đối toàn diện. Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển
16


kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công

cuộc xoá đói giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện.
Chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ
đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực...sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được phát huy...”.3 Đồng thời qua quá trình đổi mới, Đảng đã tổng kết, rút
ra được những bài học quý giá. Điều đó càng thấy rõ trong quá trình đổi mới,
Đảng luôn tìm tòi, sáng tạo tìm ra hướng đi thích hợp nhất cho dân tộc, không
lúc nào Đảng bằng lòng với thành quả đã đạt được trong thời gian qua, mà
mong muốn đạt kết quả cao hơn nữa trong các giai đoạn tiếp theo. Trong các
kỳ Đại hội, Đảng luôn đưa ra các bài học kinh nghiệm, các bài học đó đều
được đúc rút từ thực tiễn công cuộc đổi mới. Đặc biệt tại Đại hội X, Đảng ta
đã đưa ra 5 bài học lớn là:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức
và cách làm thích hợp.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân, phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái
mới.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Trên cơ sở kết quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới, bằng những
bài học rút ra, đồng thời, Đảng không ngừng phấn đấu vì mục tiêu “ Dân
3

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.14.


17


giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chính vì thế từ khi
khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng lãnh đạo
làm cho đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, kinh tế tăng trưởng
năm sau cao hơn năm trước, chính trị ổn định, quốc phòng và an ninh được
giữ vững, quan hệ đối ngoại được rộng mở... bởi Đảng luôn có đường lối,
phương pháp lãnh đạo đúng đắn, phù hợp qui luật khách quan, hợp lòng dân.
Phương hướng, mục tiêu Đảng đưa ra luôn phù hợp thực tiễn, được nhân dân
phấn đấu hết mình, do đó đạt được kết quả như Nghị quyết đề ra. Ngay trong
chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng X đưa ra đó là: “ ...phát triển văn hoá; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng
quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn
định chính trị- xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo
nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Tính độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng luôn được phát huy cao độ
trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày thành lập
đến nay, trải qua 77 năm, Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng
tạo trong việc hoạch định đường lối lãnh đạo, cũng như trong quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo cách mạng. Chính nhờ tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng
mà cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng đã độc lập chủ động, sáng tạo để
đưa ra đường lối chung là Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đường lối chung là như vậy, nhưng
trong chỉ đạo thực tiễn đấu tranh, Đảng lại hết sức chủ động, sáng tạo.Trong
mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, Đảng đưa ra mục tiêu, phương pháp đấu tranh
khác nhau, trên cơ sở đó đoàn kết, tập hợp lực lượng to lớn cho cách mạng.

Để cuối cùng đạt được mục tiêu là giành độc lập cho dân tộc, bằng thắng lợi
của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám.

18


Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cũng vậy, nhờ có
đường lối độc lập tự chủ, Đảng đã đề ra đường lối lãnh đạo đúng đắn. Đồng
thời, Đảng luôn chỉ đạo cuộc kháng chiến một cách sát sao, kịp thời đưa ra
những quyết định sáng tạo để giành thắng lợi. Đảng luôn dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm trước dân về các quyết định của mình, do vậy, trong
mọi hoàn cảnh khác nhau, kể cả những bước thăng trầm của lịch sử, nhân dân
luôn lạc quan, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Như trong thời
kỳ đấu tranh giữ vững chính quyền cách mạng ( 1945- 1946), trong tình thế
thù trong, giặc ngoài chống phá, Đảng phải tuyên bố tự giải tán ( thực tế là rút
vào hoạt động bí mật), tiếp tục lãnh đạo cách mạng. Trong điều kiện khó khăn
như vậy, nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ Chính quyền
cách mạng.
Trước khi Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, tình hình
kinh tế xã hội mất ổn định, đời sống nhân dân đứng trước muôn vàn khó
khăn, cách mạng tưởng như khó có thể vượt qua khó khăn thử thách. Trong
điều kiện đó, nhân dân vẫn tuyệt đối tin tưởng vào bản lĩnh, kinh nghiệm lãnh
đạo, vào sự sáng tạo của Đảng để đưa đất nước vượt qua khó khăn thử thách.
Sự nhìn nhận của nhân dân không lầm, đồng thời Đảng cũng kgông phụ lòng
tin của dân, bằng tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của mình, Đảng đã đề ra
đường lối đổi mới đất nước một cách toàn diện, từng bước tháo gỡ khó khăn.
Quá trình vừa đổi mới, vừa tìm tòi khảo nghiệm, tìm ra bước đi thích hợp, kịp
thời tổng kết, rút kinh nghiệm qua mỗi chặng đường, để tìm ra con đường đi
đúng cho riêng mình. Đồng thời, Đảng không giáo điều sách vở, không dập
khuôn máy móc các mô hình cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa

khác trên thế giới, mà trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng, đưa sự
nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước diễn biến
phức tạp, khó lường, luôn chứa đựng những nhân tố gây mất ổn định chính
19


trị- xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra với nội
dung, hình thức mới. Kẻ địch chống phá cách mạng thế giới, trong đó có Việt
Nam ngày càng tinh vi, thủ đoạn hơn, nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta đã phấn đấu,xây dựng. Điều đó đặt ra cho Đảng phải luôn
phát huy cao độ bản lĩnh của mình để chiến thắng kẻ thù, muốn vậy vấn đề
đặt lên hàng đầu là Đảng phải nêu cao tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
hoạch định đường lối đổi mới giai đoạn tiếp theo. Trên cơ sở kế thừa những
thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa qua, đồng thời từ những
bài học rút ra trong quá trình đổi mới, để Đảng đưa ra đường lối đổi mới
những năm tiếp theo, với mục tiêu: “ Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,
đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững
của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện
rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế
của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế ”. 4 Với mục tiêu đó, đòi
hỏi Đảng phải nêu cao tính năng động, sáng tạo trong chính sách đối ngoại,
với phương châm mà Đại hội X đã đề ra: Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực. Nhằm tranh thủ mọi thời cơ như: nguồn vốn, công nghệ,
đầu tư từ bên ngoài, đồng thời đẩy lùi các nguy cơ như: chiến tranh, xung đột,

cô lập, cấm vận, khủng bố để phát triển đất nước. Trong chính sách đối nội,
Đảng phải luôn có chính sách đúng đắn, phù hợp, khuyến khích các thành
phần kinh tế phát triển, để từ đó tranh thủ mọi nguồn lực trong nước, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, tuy nhiên phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
tạo sự ổn định về chính trị- xã hội, quốc phòng và an ninh vững chắc. Để đạt
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.185186.
4

20


được mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi
Đảng phải thường xuyên nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường,
sáng tạo, có như vậy đất nước ta mới thoát khỏi khủng hoảng, thoát khỏi tình
trạng nước nghèo, kém phát triển, để phát triển vững chắc, tạo ra thế và lực
mới trong khu vực và trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, không một lúc nào Đảng được phép thoả mãn về những
thành quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa qua, mặc dù những thành
tựu trong công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là không
thể phủ nhận, bộ mặt đất nước thay đổi mạnh mẽ, từng ngày, từng giờ, là điều
không rễ có được. Điều đó không chỉ chúng ta ghi nhận, mà bạn bè quốc tế
cũng rất đánh giá cao thành tựu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Nhưng
không khi nào Đảng xa rời nguyên tắc, mục tiêu đã được xác định, dù đó là
miếng mồi kinh tế béo bở mà các đối tác đưa ra, dù đó là sức ép lớn từ cộng
đồng quốc tế. Đảng luôn kiên định với mục tiêu, con đường đã lựa chọn, con
đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, không vì những khó khăn trước mắt
mà dao động, mà từ bỏ Cương lĩnh, đường lối đã được xác định. Trong quá
trình đổi mới tiếp theo, để đạt được thành tựu to lớn, đưa sự nghiệp đổi mới
đạt được những kết quả to lớn hơn nữa Đảng phải thường xuyên nêu cao nữa
tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của mình. Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên

phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, không độc đoán chuyên quyền,
không bao biện làm thay, thường xuyên đổi mới tư duy, cách làm, sao cho
theo kịp với tình hình phát triển của đất nước, khu vực và trên thế giới.
Để công cuộc đổi mới đi đúng hướng, đạt được thành tựu to lớn hơn
nữa, Đảng phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhạy
bén trước tình hình, không để mắc mưu kẻ địch, đặc biệt trong lĩnh vực kinh
tế. Đồng thời kiên quyết đấu tranh với các luận điệu sai trái, phản động, đòi
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, từ bỏ con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội...

21


Một bài học thành công trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của
Đảng, đó chính là việc Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, sáng tạo trong hoạch định đường lối. Trong công cuộc đổi mới giai
đoạn tiếp theo, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo càng
được Đảng phát huy cao hơn nữa, nhằm dự báo chính xác tình hình, đề ra
đường lối đổi mới, chủ trương, biện pháp lãnh đạo phù hợp với tình hình
thực tiễn cách mạng, xu thế phát triển của quốc tế. Đồng thời biết kế thừa,
phát huy kinh nghiệm, kết quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa
qua, đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi, phấn đấu vì mục tiêu mà Đại
hội X của Đảng đã đề ra:“ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai cùng các
nước tiên tiến trên thế giới” 5. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy khi nào không đề
cao tinh thần độc độc lập, tự chủ, sáng tạo về đường lối mà rập khuôn máy
móc thì cách mạng sẽ gặp khó khăn sai lầm và tốn thất. Khi nào nào coi
trọng và nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo trong đề ra đường lối
chiến lược đúng và lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt thì tạo ra phong trào cách
mạng rộng lớn đưa cách mạng Việt Nam thắng lợi . Trong công cuộc đổi

mớiđẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn cách mạng
mới Để khắc phục một cách có hiệu quả những tác động ảnh hưởng tiêu cực
của mặt trái của cơ chế thị trường khi việt Nam gia nhập WTO, độc lập tự chủ
về đường lối thì trước hết phải độc lập tự chủ về nhiệm vụ xây Đảng, xây
dựng tổ chức đảng thực sự là đảng của đạo đức, của văn minh, nâng năng
lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng trước hết phải xây dựng đội ngũ đảng
viên v à tổ chức đảng luôn cao đạo đức cách mạng trong sự nghiệp đổi mới,
Công nhiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước, tăng cường giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên.Trước hết phải mở rộng và nâng cao chất lượng
giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phải tiến hành giáo dục
5

.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.10.

22


một cách thường xuyên và có hệ thống, từ đó giúp cho cán bộ, đảng viên tự
giác đấu tranh, phê bình và tự phê bình, kiên quyết khắc phục mọi ảnh hưởng
tiêu cực của xã hội cũng như các tàn dư đạo đức cũ. Song song với quá trình
đó là phải thường xuyên giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa, đặc biệt là
phẩn chất, nhân cách, đạo đức Hồ Chí Minh. Nêu tinh thần yêu nước, tinh
thần quốc tế vô sản, suốt đời tận tuỵ chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng nhân dân, giải phóng nhân loại của Hồ Chí Minh cho cán bộ,
đảng viên noi theo. đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ đi đôi với đẩy mạnh
phong trào chống quan liêu tham nhũng, vi phạm đạo đức nhân cách của cán
bộ, đảng viên.
vì vậy, để giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên thì
biện pháp cơ bản hàng đầu là phải tiến hành đổi mới mạnh mẽ công tác cán

bộ. Phải mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai minh bạch trong
công tác cán bộ; đổi mới và hoàn thiện chế độ bầu cử, mở rộng quyền tiến cử
và tự ứng cử; đổi mới mạnh mẽ và triển khai đồng bộ các khâu đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực
hiện chính sách cán bộ; xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng
dụng nhân tài. ẹẩy mạnh phong trào chống quan liêu, tham nhũng, vi phạm
đạo đức nhân cách của người cán bộ, đảng viên. Đây là vấn đề hệ trọng của
Đảng và Nhà nước. Sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ, việc thể hiện
Đảng cầm quyền, hiệu quả quản lý của Nhà nước là khâu đột phá để nâng cao
đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Phát huy tốt vai trò các tổ chức
đảng trong quản lý, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên.
Người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì họ vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân. Đối với họ vừa là thành viên, vừa
là chủ thể trong xây dựng tổ chức. Do đó Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh
vai trò quan trọng của tổ chức đảng với quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ,
đảng viên. Trong giai đoạn hiện nay phải đổi mới và tiến hành tốt hơn nữa
23


công tác quản lý cán bộ, đảng viên, chú trọng đến các mối quan hệ xã hội của
đảng viên. Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý của tổ chức đảng nơi đảng viên sinh
hoạt với tổ chức đảng nơi đảng viên cư trú. Phải thường xuyên nâng cao chất
lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân
chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình. Trong học tập, sinh hoạt và công tác
phải tôn trọng điều lệ, nguyên tắc, chế độ, đồng thời phải luôn luôn có tình
đồng chí, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tự phê bình
và phê bình “cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm
việc cho tốt hơn. Cốt để đoàn kết thống nhất nội bộ” 7. Phê và tự phê phải
hướng tới xây dựng những chuẩn mực “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”, đồng

thời trong phê binh và tự phê bình phải có lòng yêu thương chân thành, bao
dung độ lượng, trung thực nhân nghĩa, sáng suốt vô tư thì tự phê bình và phê
bình mới đạt được kết quả đích thực. Phân tích chất lượng và sàng lọc đảng
viên phải được tiến hành thường xuyên, làm tốt công tác kiểm tra đảng, kịp
thời phát hiện và đấu tranh với những biểu hiện sai trái nhằm làm lành mạnh
các quan hệ công tác. Đẩy mạnh các cuộc vận động đổi mới chỉnh đốn Đảng
và cải cách bộ máy hành chính để nâng cao hiệu lực của tổ chức và hiệu quả
hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hai cuộc vận động này có thể sử
dụng nhiều biện pháp khác nhau, nhưng hai vấn đề lớn cần quan tâm là giáo
dục và xây dựng con người có phẩm chất đạo đức cách mạng, có trí tuệ, có
bản lĩnh và năng lực để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời loại bỏ những phần
tử thoái hoá biến chất ra khỏi bộ máy Đảng, Nhà nước, quaõn ủoọi làm cho
bộ máy trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao được
phẩm chất, đạo đức cách mạng, hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Thực hiên tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu là: “Chỉnh đốn
Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi cán bộ đều ra sức làm tròn
nhiệm vụ Đảng giao cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân” 10. “Đạo
đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện
7

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 1995, tr.232
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H. 2002, tr.503

10

24


bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong”11.Để nâng cao phẩm chất đạo đức cách

mạng “trung với nước, hiếu với dân’ mỗi cán bộ, đảng viên phải phát huy
trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước quần chúng, thường xuyên tu
dưỡng, rèn luyện khắc phục mọi khó khăn, mọi sự cám dỗ của tiền tài, vật
chất, danh vọng. Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, kiên
định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn cách
mạng hiện nay, việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ,
đảng viên chính là nêu cao tính đảng, chấp hành nghiêm túc quy định của
Đảng về những điều cấm đảng viên không được làm, thực hành tiết kiệm
chống lãng phí và chấp hành nghiêm kỷ luật của đảng. Phải chấp hành và chịu
sự quản lý, giáo dục của tập thể, coi đây là điều kiện để rèn luyện và góp phần
xây dựng tổ chức vững mạnh.
Giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan, là cuộc đấu tranh phức
tạp lâu dài trong mỗi con người, trong từng tổ chức và trong toàn xã hội. Hơn
nữa, trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước sự tác động của mặt trái kinh
tế thị trường, sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch dẫn tới một số
cán bộ, đảng viên sa sút, thoái hoá, biến chất về phẩm chất đạo đức cách
mạng. Trước thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược, giải pháp thích
hợp để giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Để tổ
chức thực hiện tốt điều đó trước hết phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các giải
pháp, trong đó vấn đề tăng cường giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng, rèn
luyện phẩm chất cho cán bộ, đảng viên là vấn đề cấp thiết và có tính thời sự
trong tình hình hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới cùng với nhiệm vụ xây dựng đất nước cũng
dặt ra yêu cầu rất cao Đảng ta có sự phát triển và nhận thức ngày càng sâu
sắc, đầy đủ và toàn diện hơn tư duy bảo vệ tổ quốc về nhiệm vụ bảo vệ tổ
11

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H. 2002, tr.29


25


×