Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TÍNH CÁCH MẠNG và KHOA học của ĐƯỜNG lối độc lập dân tộc gắn với CHỦ NGHĨA xã hội TRONG CƯƠNG LĨNH đầu TIÊN của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.42 KB, 21 trang )

1

TÍNH CÁCH MẠNG VÀ KHOA HỌC CỦA ĐƯỜNG LỐI ĐỘC LẬP DÂN
TỘC GẮN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CƯƠNG LĨNH ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆTNAM
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng
Việt Nam, điều đó đã được xác định ngay từ cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong những ngày đầu thành lập. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng
đắn và nó thể hiện sự sáng suốt của Đảng trong sự lựa chọn mục tiêu, con đường
của cách mạng Việt Nam. Sự đúng đắn, sáng suốt đó được chứng minh bằng
những thắng lợi, những thành tựu mà đất nước đã đạt được dưới sự lãnh đạo của
Đảng gần 80 năm qua. Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã
trở thành bài học với cách mạng nước ta, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ Đảng ta đã xác định một trong những bài học là: “Nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt của cách mạng
nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở vững chắc cho độc lập dân tộc” 1. Trong đánh giá khái
quát 20 năm đổi mới, đảng ta cũng chỉ rõ: “Trong quá trình đổi mới phải kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”2.
Bài học trên khẳng định việc lựa chọn mục tiêu cách mạng nước ta ngay
từ cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là đúng đắn, là phù hợp với
xu thế của thời đại, là nguồn gốc những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
lịch sử. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không những là mục tiêu mà còn là
yếu tố bảo đảm cho tính đúng đắn của đường lối trong từng giai đoạn cách mạng
và cho sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
1
2

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb CTQG, HN.1992, tr. 4.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thưd XX, Nxb CTQG, HN.2006, tr. 70.



2

1.Quá trình hình thành và sự thể hiện vấn đề độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử thế giới thế kỷ XX đã kiểm nghiệm
tính đúng đắn, tính khoa học, tư duy chính trị nhạy bén, tính nhân văn cao cả của
chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự lựa chọn mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng phát triển đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng mang tính giai cấp và mỗi giai cấp đều có quan
điểm riêng về vấn đề dân tộc. Giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XVIII, vần đề dân tộc gắn liền với giai cấp tư sản. Lúc đó giai cấp tư sản
giương cao ngọn cờ dân tộc chống chế độ phong kiến đã lỗi thời. Thắng lợi
của trào lưu dân tộc lúc đó là thắng lợi của trào lưu dân tộc tư sản, thắng lợi
của chủ nghĩa tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ
nghĩa, giai cấp tư sản không những là kẻ bóc lột quần chúng lao động trong
nước, mà còn là kẻ áp bức, bóc lột lớn nhất với nhiều dân tộc trên thế giới.
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười, giai cấp công nhân đại diện cho
phương thức sản xuất mới, là giai cấp duy nhất có khả năng giải quyết vấn đề
dân tộc, kết hợp đúng đắn lợi ích giai cấp với lợi ích đúng đắn của dân tộc.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, ngay khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân
dân ta đã liên tiếp nổi dậy hết phong trào này đến phong trào khác chống kẻ
thù mới- sản phẩm của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Nhưng tất cả các phong
trào cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đều thất bại vì không có
một đường lối đúng, do thiếu một lực lượng lãnh đạo tiên tiến đại diện cho xu
thế của thời đại. Đất nước ta trở thành thuộc địa. Một con đường cứu nước
mới, đúng đắn trở thành yêu cầu cấp bách của dân tộc Việt Nam.


3


Nguyễn Ái Quốc- chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng yêu cầu cấp
bách của lịch sử dân tộc Việt Nam lúc đó. Với tinh thần yêu nước sâu nặng,
tư duy nhìn xa trông rộng, nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã nhanh
chóng nắm bắt được xu thế của thời đại, tìm ra con đường cứu nước cho dân
tộc Việt Nam. Qua khảo sát, nghiên cứu ở nhiều nước tư bản, đế quốc và
nhiều dân tộc thuộc địa trên thế giới, Người đã rút ra những kết luận có ý
nghĩa vô cùng quan trọng cho việc lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn
cho cách mạng Việt Nam. Người kết luận: chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng tàn
ác, vô nhân đạo, là kẻ thù và là nguyên nhân sâu xa mọi đau khổ của nhân
dân lao động khắp thế giới. Trong hành trình khảo sát học hỏi của mình,
Nguyễn Ái Quốc đã quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn tới hai cuộc cách mạng:
Cách mạng Mỹ năm 1776 và Cách mạng Pháp năm 1789. Tuy nhiên, Người
nhận định: “...nghĩa là cách mạng tư bản, cách mạng không đến nơi, tiếng là
cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó
tước đoạt thuộc địa. Cách mạng đã 4 lần rồi mà nay công nông Pháp hẵng còn
mưu cách mạng lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”3.
Nhận định này cũng là cơ sở thực tiễn để Người tiếp thu ánh sáng cách mạng
Tháng Mười Nga. Tác phẩm đầu tiên có ảnh hưởng quyết định đến tư tưởng
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc là bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Bản Sơ thảo luận cương này
đã tạo ra một sự chuyển biến mới ở Nguyễn Ái Quốc chẳng khác gì như:
“người đi đường đang khát nước mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”.
Cách mạng Tháng Mười đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loạithời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG,HN. 2000, t2, tr. 270.

3


4


giới. Cách mạng Tháng Mười và chế độ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước
Nga Xô viết đã chỉ ra bản chất tốt đẹp của chế độ mới xã hội chủ nghĩa, chỉ ra
con đường cách mạng triệt để là phải từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế lịch sử đó đã làm cho cách mạng giải
phóng dân tộc trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới; cách
mạng giải phóng dân tộc phải được phát triển thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới có thắng lợi hoàn toàn, triệt để, tính tất yếu lịch sử đó đòi hỏi
những người yêu nước chân chính phải đứng trên lập trường của giai cấp
công nhân, cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường của cách
mạng vô sản. Đó chính là cơ sở lý luận và thực tiễn cho chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta xác định luận điểm: trong thời đại mới, độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Luận điểm này cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, một
điều “dĩ bất biến” trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam.
Đối với dân tộc Việt Nam, trong những năm đầu của thế kỷ XX, chính sự du
nhập của hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa trong chính sách khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp là yếu tố “tác nhân” cho sự ra đời nhanh chóng của
một giai cấp có vai trò lãnh đạo cách mạng đi đến thành công. Đó chính là
giai cấp công nhân Việt Nam- người đại diện cho phương thức sản xuất mới
tiến bộ. Ra đời cùng với sự khai thác thuộc địa của thực dân, giai cấp công
nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng, song nó mang đầy đủ bản chất của
giai cấp công nhân quốc tế là tính tổ chức, tính kỷ luật, tính cách mạng triệt
để mà không một giai cấp nào khác ở Việt Nam có được. Ra đời trước giai
cấp tư sản dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam không có sự thao túng của
tầng lớp công nhân quý tộc, không bị ảnh hưởng nhiều bởi những trào lưu tư
sản cải lương và các khuynh hướng cơ hội, xét lại như đã diễn ra với phong


5


trào công nhân các nước tư bản Tây Âu trước đó với sự hoạt động của các
Công đoàn vàng và các Đảng dân chủ xã hội trong Quốc tế II. Giai cấp công
nhân Việt Nam có tính cách mạng triệt để cao, vì ra đời ở thuộc địa, bị áp bức
bóc lột nặng nề, được nuôi dưỡng, phát triển, trưởng thành trong lòng một
dân tộc có truyền thống yêu nước được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử.
Phong trào công nhân Việt Nam được phát triển trong điều kiện quốc tế có
nhiều thuận lợi của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp. Giai cấp công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam thật sự là một “ mảnh đất” lý tưởng để “reo
hạt giống đỏ” cách mạng là lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin- chân lý cách mạng
của thời đại và những kinh nghiệm của cách mạng Tháng Mười Nga. Chỉ sau
một thời gian ngắn được tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào yêu nước
Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, có sự chuyển biến mạnh mẽ về chất.
Đánh giá sự trưởng thành của phong trào công nông, dự thảo Luận cương
chính trị (10-1930) viết: “Những cuộc bãi công trong năm 1928- 1929, những
cuộc đấu tranh rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong năm nay (1930) đã
chứng tỏ rằng, sự đấu tranh của giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành
trướng. Điều đặc biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đông
Dương là sự đấu tranh của quần chúng công nông có tính chất độc lập rõ rệt,
chớ không phải là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như trước nữa” 4. Chỉ
trong thời gian từ 1925 đến 1930, ở Việt Nam đã xuất hiện ba tổ chức cách
mạng ở ba miền Bắc, Trung, Nam cùng lấy tên là Đảng Cộng sản: Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản
Liên Đoàn, ba tổ chức cách mạng này đều có cùng một mục tiêu là đánh đổ
đế quốc- phong kiến và xây dựng một xã hội mới tốt đẹp theo lý tưởng cộng
4

Văn kiện Đảng 1930-1935, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương xuất bản, HN 1977, tr. 66- 67.


6


sản. Sự trưởng thành vượt bậc của phong trào công nông và sự xuất hiện của
các tổ chức cộng sản nói trên ở Việt Nam vừa chứng minh sự đúng đắn của
chủ nghĩa Mác- Lênin về con đường cứu nước ở Việt Nam, vừa chỉ ra rằng
phong trào vận động giải phóng dân tộc ở nước ta vào đầu năm 1930 đã phát
triển đến độ chín muồi, yêu cầu phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Sự xuất
hiện của các tổ chức nói trên là do các nhóm nhỏ cộng sản tự thành lập ở
những địa phương khác nhau, tuy giống nhau về phương hướng, mục tiêu, về
tính chất và mô hình tổ chức, nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau trong
nhận thức, quan điểm, trong phương châm và phương pháp hoạt động. Vì
vậy, đã xảy ra tình trạng hoạt động phân tán, cục bộ và thậm chí công kích
lẫn nhau giữa ba tổ chức cộng sản, mặc dù vào cuối năm 1929 những người
cộng sản trong cả ba tổ chức đều nhận thức được sự cần thiết và cấp bách
phải thống nhất thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương và Việt Nam.
Để kéo dài tình trạng phân hoá sẽ là một trở ngại đến phong trào chung, làm
yếu đi sức mạnh tổng hợp của cách mạng, không thể tập trung lực lượng của
quần chúng vào cuộc đấu tranh chống đế quốc- phong kiến. Phong trào cách
mạng Việt Nam đang đặt ra một yêu cầu là phải đoàn kết, hợp nhất các tổ
chức cộng sản và những người cộng sản thành một tổ chức thống nhất để
trong thì thì tập hợp quần chúng đấu tranh, ngoài thì liên kết với phong trào
cách mạng thế giới, tranh thủ, tiếp nhận sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản.
Yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam lại một lần nữa được đáp ứng bởi
tài năng, trí tuệ của cá nhân một anh hùng cách mạng. Với tư duy chính trị
nhạy bén, nhận thức được đòi hỏi của lịch sử và tầm quan trọng hàng đầu của
vấn đề đoàn kết nội bộ, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào


7


tháng giêng năm 1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc). Từ đây, cách mạng
Việt Nam đã có một bộ chỉ huy tập trung và thống nhất trong cả nước. Cũng
tại hội nghị này, Đảng đã thông qua một số văn kiện quan trọng do đồng chí
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị như: chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt,
chương trình tóm tắt, điều lệ Đảng tóm tắt và lời kêu gọi nhân ngày thành lập
Đảng. Đây là các văn kiện thuộc cương lĩnh đầu tiên của Đảng, trong đó xác
định những vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược và sách lược của cách mạng
Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã thể hiện nhiều nội dung, quan
điểm về mục tiêu, con đường, lực lượng cách mạng Việt Nam, về đoàn kết
của cách mạng Việt Nam với cách mạng vô sản thế giới và giai cấp vô sản
chính quốc, về vai trò lãnh đạo của Đảng. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội và cũng là mục tiêu của cách mạng Việt Nam được thể
hiện trong chính cương vắn tắt của Đảng là: “chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”5.
Nội dung được hiểu là cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn là
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, tiến tới xây dựng xã hội cộng sản.
Đó là một quá trình nối tiếp nhau của hai chiến lược cách mạng khác nhau, có
mối quan hệ mật thiết nhau, ảnh hưởng nhau, giữa chúng không có bức tường
thành ngăn cách. Chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội là
mục tiêu hướng tới của cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng giải phóng
dân tộc là tiền đề, điều kiện cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, không tiến hành
cuộc cách mạng chính trị lần thứ hai để giải quyết vấn đề chính quyền như
cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc. Chủ trương “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” cũng là vấn
5

Văn kiện Đảng, Toàn tập, Nxb CTQG, HN. 1998, t.2, t.2.


8


đề linh hồn của quan điểm dân tộc và giai cấp, phù hợp với thực tiễn của chế
độ thuộc địa ở Việt Nam, và cũng thể hiện tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc là
giải phóng dân tộc gắn với giải phóng xã hội, giải phóng con người, và đây
cũng là quy luật của cách mạng thuộc địa.
Đây là chủ trương đúng đắn, triệt để cách mạng của Đảng, thể hiện sự vận
dụng sáng tạo học thuyết cách mạng không ngừng của Lênin. Chủ trương
này là một trong những nội dung bao trùm trong những bài giảng ở các lớp
huấn luyện chính trị ở Quảng Châu (1925- 1927) của Nguyễn Ái Quốc. Bằng
sự trải nghiệm thực tiễn, đồng thời được chứng kiến những thành tựu vĩ đại
của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Người đã định hướng cho dân
tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thấy rằng: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa
là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự
do bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam.
Cánh mạng Nga đã đuổi được vua, địa chủ, tư bản rồi, lại ra sức công nông
các nước và dân tộc bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả
đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Bởi vậy, muốn cách mệnh thành
công thì phải đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga” 6. Như vậy, tư
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho cách mạng Việt Nam
đã được Nguyễn Ái Quốc xác định từ những năm 1925 và lại được khẳng
định trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
Tư tưởng này thể hiện sự khác biệt về chất giữa con đường cứu nước của
Người với con đường của các vị tiền bối cũng như con đường mà các cuộc
cách mạng tư sản điển hình trên thế giới đã đi.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, HN 2002, t2, tr 270.

6



9

Nhiệm vụ của “tư sản dân quyền cách mạng” được Nguyễn Ái Quốc vạch ra
trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng là “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Thực hiện chủ
trương đó, về lực lượng cách mạng, Người chủ trương đoàn kết tất cả các giai
cấp cách mạng, các lực lượng và các cá nhân yêu nước trong dân tộc, tập
trung đánh đổ kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp và bọn tay sai phản động. Dựa
trên nền tảng liên minh công nông, xây dựng một mặt trận dân tộc thống nhất
chống đế quốc. Đây là lực lượng quyết định bảo đảm cho cách mạng đi đến
thắng lợi. Việc xác định lực lượng cách mạng như vậy cũng thể hiện sự tầm
cao trí tuệ của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên cơ sở phân tích sâu sắc thực tiễn
xã hội Việt Nam lúc đó, đặc biệt là nhận thức được thái độ chính trị của các
giai cấp trong xã hội Việt Nam, điều mà các vị yêu nước nhiệt thành trước đó
không thể nhận ra.
2. Tính cách mạng và khoa học của đường lối độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội.
Nội dung độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội trong cương lĩnh đầu tiên
của Đảng cũng đã thể hiện rằng: ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã có một đường
lối lãnh đạo đúng đắn, cách mạng và khoa học. Đường lối đó là cách mạng, vì
nó nhằm xoá bỏ chế độ thuộc địa vốn là con đẻ của chủ nghĩa đế quốc xâm
lược. Đường lối là khoa học, vì nó phản ánh đúng quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam trong xu thế của thời đại mới. Đường lối đó là cách mạng và
khoa học vì nó là sự cụ thể hoá lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin một cách sáng
tạo, tài tình, phù hợp với xã hội Việt Nam mà trước đó chưa có một tiền lệ
kinh nghiệm. Đường lối giải phóng dân tộc trên lập trường của giai cấp công
nhân, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp của Đảng là khoa học


10


được thể hiện ở hiện thực lịch sử là nó ngay lập tức được sự đồng tính ủng hộ
của đông đảo hàng triệu quần chúng lao động và các lực lượng yêu nước
trong xã hội Việt Nam, vì nó không chỉ đáp ứng được ý chí, nguyện vọng lợi
ích của công- nông mà của cả dân tộc đang bị áp bức, bóc lột, mất tự do, độc
lập.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và việc hình thành cương lĩnh đầu
tiên của Đảng gắn liền với công lao của Nguyễn Ái Quốc- người thanh niên
yêu nước Việt Nam đã tán thành đường lối của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế
III) năm 1920, Người đã lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân ở chủ nghĩa
Mác- Lênin. Với tầm cao trí tuệ và phương pháp làm việc khoa học là luôn
kết hợp lý luận với thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc luôn có những kết luận đúng
đắn các vấn đề và giả quyết nhu cầu vấn đề đặt ra. Nghiên cứu các cuộc cách
mạng trên thế giới và thực tiễn xã hội thuộc địa Việt Nam, Người kết luận:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con
đường vô sản”7. Kết luận này không những đặt “nền móng” cho nội dung của
cương lĩnh đầu tiên mà còn thể hiện rằng, ngay từ những năm đầu của thế kỷ
XX đã có sự gặp gỡ lịch sử giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, lấy mục tiêu
giải phóng dân tộc làm tiền đề và điểm xuất phát. Sự gặp gỡ lịch sử này trở
thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh là độc
lập dân tộc luôn gắn với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó thành điều “ dĩ bất
biến” trong mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng, và là nguồn gốc mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam từ trước đến nay.

7

Hồ Chí Minh, Toàn tập, NxbCTQG, HN.2000, t3, tr.1.



11

Trên cơ sở nhận thức được nhu cầu của lịch sử và xu thế của thời đại, Nguyễn
Ái Quốc đã kịp thời giải quyết yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX để thành lập nên một Đảng Cộng sản thống nhất ở
Việt Nam. Phương pháp hợp nhất các tổ chức cộng sản cũng được Nguyễn Ái
Quốc áp dụng một cách tối ưu là chuyển nguyên các tổ chức cộng sản để hình
thành một tổ chức cộng sản khác mà không phải giải tán rồi thành lập lại, việc
đó bảo đảm giữ được sự đoàn kết trong Đảng và bản chất giai cấp công nhân
của Đảng, góp phần quan trọng cho việc xác định cương lĩnh đầu tiên có
đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
Đường lối gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội được xác định từ cương
lĩnh đầu tiên là nguồn gốc của mọi thắng lợi, vì đường lối này đã hình thành
trên nền tảng có sự kết hợp vững chắc giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
xã hội, đã khơi dậy sức mạnh từ cả hai nguồn động lực là dân tộc và giai cấp,
đồng thời còn tranh thủ được sức mạnh quốc tế, nhờ đó đường lối này luôn
tiềm ẩn trong bản thân những khả năng to lớn để giải quyết những vấn đề cơ
bản của cách mạng. Nó là vấn đề “dĩ bất biến”, vì nó quy định, chi phối và
thẩm thấu vào nội dung các chủ trương chiến lược cách mạng và nhờ vậy, đã
phát huy tác dụng trong tất cả các giai đoạn cách mạng. Thực tế lịch sử, trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn
đề lớn của cách mạng Việt Nam và đã giành được những thắng lợi to lớn.
Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, trong khi tập trung sức mạnh để hoàn
thành nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến, Đảng vẫn không quên
tuyên truyền phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội, và khi có điều kiện,
Đảng xây dựng ngay các cơ sở kinh tế (ở những vùng hậu phương ổn định),


12


vừa phục vụ cho chiến lược cách mạng trước, vừa gây dựng thành phần kinh
tế xã hội chủ nghĩa cho chiến lược cách mạng sau. Xây dựng chủ nghĩa xã hội
tuy là nhiệm vụ cách mạng ở giai đoạn sau, nhưng tuyên truyền tư tưởng đó
lại có tác dụng làm tăng thêm sức mạnh cho hiện tại vì nó đáp ứng được từng
bước yêu cầu của đông đảo quần chúng là kết hợp giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp, mà trước hết là giai cấp công nhân và nông dân, dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân. sức mạnh của cách mạng dân tộc dân chủ bắt
nguồn từ những nhân tố đó và giữ vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng.
Việc tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo sau cách mạng Tháng
Tám và cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến chống Pháp đã nhanh
chóng tăng thêm sức mạnh giải phóng dân tộc là một minh chứng rõ nét cho
sự khoa học, đúng đắn của đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong cương lĩnh đầu
tiên và trở thành bài học kinh nghiệm trong thời kỳ đổi mới của Đảng đã thể
hiện rằng: Đảng ta đã nắm vững, thấm nhuần lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin
về tính liên tục và tính giai đoạn của cách mạng, giải quyết đúng đắn sáng tạo
phù hợp mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng. Lênin nói: “Không thể có
một chủ nghĩa xã hội thắng lợi mà lại không thực hiện dân chủ hoàn toàn, giai
cấp vô sản cũng không thể nào chuẩn bị để chiến thắng giai cấp tư sản được
nếu không tiến hành một cuộc đấu tranh toàn diện, triệt để và cách mạng để
giành dân chủ”8. Điều đó có nghĩa là, nhiệm vụ dân tộc dân chủ được giải
quyết càng triệt để thì những điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội càng được
tạo ra đầy đủ. Do đó, mọi vấn đề cơ bản về đường lối đều được xem xét và
giải quyết trên tinh thần: một mặt không lẫn lộn cách mạng dân tộc dân chủ
8

V. I. Lênin: toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, t27, tr. 324.



13

với cách mạng xã hội chủ nghĩa; mặt khác không bao giờ tách rời cách mạng
dân tộc dân chủ với triển vọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn của hệ tư tưởng đó, Đảng ta đã lãnh
đạo thành công cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, một điển hình của
cách mạng thuộc địa; lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi
năm 1954. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, cách mạng nước
ta chuyển sang một thời kỳ mới- thời kỳ đồng thời tiến hành hai chiến lược
cách mạng trên cả nước: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và
chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Cùng một lúc tiến hành
hai chiến lược cách mạng cũng là một đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam,
một hình thức rất độc đáo của sự kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Là độc đáo vì nó là hai chiến lược cách mạng khác nhau nhưng
được thực hiện đồng thời trên hai miền với hai chế độ chính trị- xã hội khác
nhau của một dân tộc, một đất nước, với một Đảng duy nhất lãnh đạo để giải
quyết mâu thuẫn chung trong cả nước: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai. Xác định đường lối cách mạng này là một nét sáng tạo,
chưa có tiền lệ trong lịch sử, là một thành công lớn của Đảng ta.
Đảng ta nhận định: nếu trong giai đoạn cả nước làm cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, việc kết hợp đúng đắn giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc với
chống phong kiến có tác dụng góp phần quyết định thắng lợi, thì trong thời kỳ
đất nước bị chia cắt, việc kết hợp đúng đắn giữa nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước có tác dụng quyết
định thắng lợi của cách mạng miền Nam. Trung thành và vận dụng sáng tạo
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện lịch sử Việt
Nam. Đảng ta đã từng bước giai quyết mối quan hệ giữa cách mạng hai miền.


14


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của đảng (9- 1960) đã quyết định đường
lối chung cho cả nước:
“ Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, thực hiện thống nhất nước nhà hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc
đẩy lẫn nhau”9
Cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó miền Nam là
tiền tuyến lớn, có tác dụng “quyết định trực tiếp” đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. Miền Bắc là hậu phương lớn có tác dụng
“quyết định nhất” đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối
với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Thông qua nhiệm
vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của cả
nước là hoàn thành độc lập, thống nhất nước nhà. Bởi vậy, Đảng ta coi quan
niệm chờ miền Nam hoàn toàn giải phóng, rồi cả nước cùng tiến lên chủ
nghĩa xã hội là không đúng.
Như vậy, nếu trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chủ nghĩa xã hội mới chỉ
là xu hướng, triển vọng tiến lên, thì trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng bước đầu trên nửa phần đất nước. Nếu trong
cuộc kháng chiến lần thứ nhất, chủ nghĩa xã hội còn trong lý tưởng, trong
phương hướng, thì trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, chúng ta đã có chủ
nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ đang trên dường xây dựng; trong đó,
miền Bắc đánh thắng Mỹ bằng sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và của

9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Toàn tập, Nxb. CTGQ, HN, 2002, t21, tr.245.



15

cả độc lập dân tộc, còn miền Nam thắng Mỹ bằng sức mạnh của độc lập dân
tộc và của cả chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn quá trình chỉ đạo cách mạng ở hai miền cũng là thời gian Đảng ta
cụ thể hoá thêm tư tưởng chiến lược của Nghị quyết Đại hội Đảng III. Trong
khi đề ra nhiệm vụ, phương pháp cách mạng ở miền Nam, cũng như khi quyết
định mở đường những trận quyết chiến chiến lược, Đảng phải căn cứ vào tình
hình miền Nam và cả tình hình miền Bắc, xem xét sự tác động của những
thắng lợi sẽ giành được có ảnh hưởng đối với miền Nam và cả đối với miền
Bắc sẽ như thế nào.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội, sức mạnh của miền Bắc sẽ được tăng cường nhanh
chóng. Đảng có thể lãnh đạo xây dựng nền kinh tế theo hướng giải quyết
khéo những mâu thuẫn có hại cho việc cung cấp sức người, sức của yêu cầu
ngày càng lớn của của sự nghiệp cách mạng. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa có
vững mạnh mới có đủ sức làm tròn nhiệm vụ căn cứ địa cho cả nước, đủ sức
tự bảo vệ, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, mới có
đủ khả năng chi viện cho cách mạng miền Nam, đồng thời làm tròn nghĩa vụ
quốc tế đối với hai nước Lào và Campuchia.
Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc giải phóng ở miền Nam làm cho thế và lực ở cả nước cũng như
ở miền Nam không ngừng tăng lên. Nhờ vậy, cách mạng miền Nam mới phát
huy được sức mạnh của cả nước để đánh bại mọi thủ đoạn chiến lược, chiến
thuật của đế quốc Mỹ và tay sai.
Kẻ thù cũng nhận thức được sức mạnh trong mối quan hệ giữa cách mạng hai
miền và đã ra sức chống phá mối quan hệ đặc biệt đó. Chúng đánh phá miền
Bắc, xuyên tạc và lu loa rằng: “ miền Bắc xâm lược miền Nam”, v.v... chính


16


là chúng nhận rõ vai trò của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chúng phải đối phó
với thế thua ở miền Nam. Đảng ta nhận định rằng, âm mưu và hành động phá
hoại miền Bắc của địch chỉ có thể chấm dứt chừng nào miền Nam được hoàn
toàn giải phóng. Nhờ nhận định đúng đắn đó, Đảng ta đã luôn sáng suốt, chủ
động trong mọi tình huống.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã cho phép Đảng rút ra
những kết luận quan trọng: đó là thắng lợi của cả hai chiến lược cách mạng
được tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ với nhau. Đảng đã khẳng định,
không thể nào có thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không
có miền Bắc xã hội chủ nghĩa, suốt mười sáu năm qua luôn luôn cùng một lúc
phải làm hai nhiệm vụ chiến lược. Nhờ có đường lối nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã động viên và tập hợp được sức
mạnh của chủ nghĩa xã hội với sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước truyền
thống của dân tộc, sức mạnh của hậu phương với sức mạnh của tiền tuyến,
tạo nên sức mạnh tổng hơpj của cả nước cùng đứng lên đánh Mỹ và thắng
Mỹ. Với đường lối ấy, Đảng ta đã kết hợp được lợi ích cơ bản của dân tộc ta
với những mục tiêu của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt
Nam đã chứng minh một chân lý rằng, trong thời đại ngày nay, một dân tộc
đất không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song đoàn kết chặt
chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác- Lênin có
đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm
lược.


17

Từ năm 1975 đến nay, cả nước lại cùng thực hiện một nhiệm vụ chiến lược

cách mạng là quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu cơ bản lâu dài là xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội đạt trình độ cao, đầy đủ, hài hoà và nhuần nhuyễn đến mức trùng hợp
với nhau, trong độc lập dân tộc có chủ nghĩa xã hội, trong chủ nghĩa xã hội có
độc lập dân tộc. Mô hình xã hội chủ nghĩa được xây dựng là: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; có chế độ chính trị tiến bộ; có
nền kinh tế phát triển hiện đại; quốc phòng, an ninh vững mạnh; nền văn hoá
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có đời sống vật chất và tinh thần phong phú;
có quan hệ hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới, vì hoà bình, hợp tác và
phát triển. Tất cả những mục tiêu trên đều được thể hiện một cách cụ thể
trong đường lối đổi mới toàn diện trong Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra, được
khẳng định và phát triển qua các Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X. Có thể nói
trong giai đoạn hiện nay, cả độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đều là mục
tiêu trực tiếp; sức mạnh tổng hợp do đường lối giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội tạo ra lúc này là bảo đảm vững chắc cho chúng ta
tận dụng được thuận lợi và thời cơ, vượt qua được khó khăn và thách thức để
đưa sự nghiệp cách mạng theo con đường của Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã
lựa chọn đến thắng lợi cuối cùng.
Sau gần 80 năm nhìn lại, chúng ta có thể nói rằng, mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam đều gắn liền với sự đúng đắn của đường lối độc lập, tự chủ
và sáng tạo mà tiêu biểu là giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp ở một nước có truyền thống chống ngoại xâm và tinh thần yêu nước
đã được hun đúc suốt hàng nghìn năm lịch sử. Cũng chính xuất phát từ lòng


18

yêu nước mà Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác- Lênin. Cũng nhờ
có sự gặp gỡ và kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng cộng

sản mà sự hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng cộng sản Việt Nam
được diễn ra nhanh chóng và suôn sẻ. Bởi vì, nhiều nhà cách mạng Việt Nam
trước khi trở thành người cộng sản họ là những nhà yêu nước nhiệt thành, đã
được rèn luyện và thử thánh trong đấu tranh dân tộc và giai cấp quyết liệt,
đều có chung mục tiêu là giành độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân.
Tinh thần yêu nước và lý tưởng cộng sản ấy là những căn cứ để Nguyễn Ái
Quốc- Hồ Chí Minh rút ra những kết luận quan trọng về cách mạng giải
phóng dân tộc, cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, từ đó xây
dựng cương lĩnh đầu tiên cho cách mạng Việt Nam với một trong những nội
dung “bất biến” là đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Việc so sánh chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa hai vòi, mối quan hệ giữa
phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa và phong trào vô sản ở chính quốc
như là hai cánh của một con chim, việc dự báo khả năng thành công trước của
cách mạng thuộc địa và và tác động trở lại của cách mạng ở thuộc địa đến
phong trào cách mạng ở chính quốc... đều là kết quả của sự vận dụng sáng tạo
lý luận cách mạng không ngừng và việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc
trên lập trường vô sản, phù hợp với khát vọng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa: “Ngày mà hành trăm triệu nhân dân Châu Á bị tàn sát và áp bức
thức tỉnh để gạt bỏ sự đê tiện của bọn thực dân lòng tham vô đáy, họ sẽ hình
thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều
kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn


19

toàn”10. Đây thực sự là những đóng góp to lớn vào việc phát triển và làm
phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đây cũng là cơ sở để
khẳng định: trong hoàn cảnh một nước thuộc địa như Việt Nam hồi đầu thế
kỷ XX, đường lối cách mạng chỉ có thể là con đường độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội, chứ không thể là con đường tiến lên tư bản chủ nghĩa,
Bởi vì, chủ nghĩa tư bản là nguồn gốc của sự bóc lột, bất công là nguồn gốc
xã hội sâu xa sinh ra chủ nghĩa thực dân xâm lược và áp bức các dân tộc
thuộc địa. Đi theo chủ nghĩa tư bản là trái với quy luật lịch sử. Thực tiễn lịch
sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhờ
tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, chúng ta tìm được con đường đi đúng, đáp
ứng được nguyện vọng của nhân dân và suốt quá trình cách mạng chúng ta
luôn giữ vững hướng đi đó, đất nước ta mới có cơ hội tiến hành giải phóng
dân tộc một cách đúng đắn, cách mạng nước ta mới có cơ hội giành hết thắng
lợi này đến thắng lợi khác.
Đáng tiếc rằng, trong thời gian gần đây, khi mà công cuộc đổi mới của ta thu
được nhiều thành tựu to lớn, con đường chủ nghĩa xã hội đang được hình
thành ngày càng rõ nét, thì lại có những quan điểm phủ nhận con đường của
ta, phủ nhận lịch sử. Họ cho rằng, vì lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội mà đất nước ta đã phải tổn thất quá nhiều xương máu và
của cải trong hai cuộc chiến tranh giải phóng. Họ lập luận rằng, không tiến
hành chiến tranh, không phải đổ máu, chúng ta cũng có thể giành được độc
lập như Ấn Độ, hoặc họ cho rằng xu thế của thời đại sẽ không cho một dân
tộc này cai trị một dân tộc khác, chúng ta sẽ được “trao trả” độc lập. Dù họ
không hiểu hay cố tình phủ nhận lịch sử với mục đích chính trị đen tối thì
10

Hồ Chí Minh: Sđd, t1, tr .36.


20

cũng là sự xúc phạm tới sự hy sinh cao cả của hàng triệu người con đất Việt
đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ quốc. Đắng cay hơn, những quan điểm
này còn là sự phủ nhận cả truyền thống văn hoá giữ nước đã được hun đúc

qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc ta, truyền thống đó được nâng lên một
tầm cao mới ở thời đại Hồ Chí Minh là: “Không, chúng ta thà hy sinh tất cả
chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trên thực tế, sự
hy sinh xương máu không thể tính bằng tiền của hơn 1 triệu 100 nghìn liệt sĩ,
600 nghìn thương binh trong hai cuộc chiến tranh ấy đã góp phần quan trọng
làm sụp đổ cả chủ nghĩa thực dân mới lẫn chủ nghĩa thực dân mới, đã cổ vũ
và góp phần quan trọng cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, đó là
điều mà không ai, không bao giờ có thể phủ nhận được.
Hơn 20 năm qua, với đường lối đổi mới giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành
được thành tựu to lớn và quan trọng: tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định,
đời sống nhân dân nâng cao, chính trị ổn định, quan hệ đối ngoại mở rộng, vị
thế Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế (đặc biệt khi
chúng ta trở thành thành viên của WTO)... Đó là thực tế thế giới công nhận,
cũng là điều chứng minh cho sự đúng đắn của con đường chúng ta đã chọn, là
lý do giải thích vì sao Đảng ta kiên định với đường lối độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội đã được Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta lựa chọn từ những năm
đầu của thế kỷ XX.
Thế giới đang bước vào những năm đầu của một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
của toàn cầu hoá, hội nhập với nhiều biến động to lớn. Việc chúng ta là hội
viên của ASEAN, AFTA, gia nhập WTO, là phù hợp với xu thế của thời đại
và cũng tạo ra nhiều cơ hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn, trong đó có


21

cả nguy cơ mất độc lập dân tộc. Cho dù thế giới có hội nhập, hợp tác đến mức
nào thì thực tế vẫn là sự tranh đua quyết liệt về lợi ích kinh tế, chính trị của
mỗi quốc gia, dân tộc. Các cuộc đấu tranh dân tộc, giai cấp vẫn diễn ra gay
go, quyết liệt với những nội dung và hình thức mới. Bởi vậy, kiên trì với mục

tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là nguyên tắc chiến lược bất biến
của cách mạng Việt Nam. Chúng ta không được và không bao giờ được mơ
hồ, mất cảnh giác, ngộ nhận với những luận điệu sai trái đến chừng nào tiến
lên chủ nghĩa cộng sản.



×