Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong xây dựng cơ bản tại tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.17 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH
DOANH

ĐINH HUY HOÀNG

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRONG XÂY DỰNG CƠ BẢN
TẠI TỈNH BẮC KẠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ

THÁI NGUYÊN - 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

h ttp://www.lrc-tnu.edu.vn/


ĐINH HUY HOÀNG

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRONG XÂY DỰNG CƠ BẢN
TẠI TỈNH BẮC KẠN
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Quang Huy

THÁI NGUYÊN - 2015


3
LỜI CAM ĐOAN
Sau một thời gian thực tập nghiêm túc tôi đã hoàn thiện công trình nghiên cứu
này. Tôi xin cam đoan rằng, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả trong luận văn đảm bảo tính trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn
mang tính độc lập, số liệu sử dụng trong luận văn được trích dẫn đúng quy định.
Thái Nguyên, ngày 02/06/2015
Tác giả luận văn

Đinh Huy Hoàng
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm
và giúp đỡ của Quý thầy cô, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Trước tiên tôi xin trân trọng cảm ơn thầy giáo TS. Trần Quang Huy người đã
định hướng cho tôi về đề tài nghiên cứu, nghiêm túc về mặt khoa học và tận tình giúp
đỡ tôi về mọi mặt để hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trong Nhà
trường đã trang bị cho tôi những kiến thức trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin gửi lởi cảm ơn tới lãnh đạo UBND tỉnh Bắc Kạn, sở Xây dựng tỉnh
Bắc Kạn, Cục thống kê, sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Kạn và các phòng ban
chuyên môn đã cung cấp những thông tin, số liệu và tài liệu giúp tôi thực hiện luận
văn này.
Cuối cùng tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình tôi, những người luôn sát
cánh và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày 02/06/2015

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

h ttp://www.lrc-tnu.edu.vn/


4
Đinh Huy Hoàng

Những nguyên nhân thành công trong việc sử dụng vốn đầu tư

3.1.1.

Viết tắt

Nguyên văn

XDCB

Xây dựng cơ bản

NSNN

Ngân sách Nhà nước

KT-XH

Kinh tế xã hội


CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CSHT

Cơ sở hạ tầng

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

VĐT

Vốn đầu tư

VĐT XDCB

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản

TSCĐ

Tài sản cố định

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐND


Hội đồng nhân dân

KCN

Khu công nghiệp

NSTW

Ngân sách Trung ương

NSĐP

Ngân sách địa phương

LLSX

Lực lượng sản xuất

GPMB

Giải phóng mặt bằng

9

Sơ đồ 1.1: Trình tự trong hoạt động đầu tư.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


h ttp://www.lrc-tnu.edu.vn/


5
Đầu tư xây dựng là một trong những chính sách có vai trò quan trọng trong
việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế và xã hội, tạo động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của các địa phương nói
riêng.
Bắc Kạn là một tỉnh vùng núi cao, có địa hình phức tạp, cơ sở vật chất kết cấu
hạ tầng kỹ thuật, kinh tế và xã hội còn nghèo nàn và chưa phát triển. Đồng thời là
một tỉnh có nền kinh tế với xuất phát điểm thấp, việc huy động nguồn vốn đầu tư cho
xây dựng kết cấu hạ tầng từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh còn hạn chế, vì vậy trong
những năm qua tỷ trọng vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho các dự án công, các
chương trình mục tiêu chủ yếu là nguồn hỗ của ngân sách Trung ương. Những kết
quả đạt được trong đầu tư xây dựng đã góp phần từng bước hoàn thiện và hiện đại
hoá hệ thống kết cấu hạ tầng "điện, đường, trường, trạm" tạo tiền đề cho phát triển
kinh tế - xã hội cũng như góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của
tỉnh.
Bên cạnh những thành công và đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh thì đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn ngân sách nhà nước của
tỉnh Bắc Kạn còn nhiều bất cập, hạn chế, cụ thể như: Công tác quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng còn nhiều bất cập, thiếu sự đồng bộ gây ảnh
hưởng đến hiệu quả đầu tư; Việc phân bổ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn dàn
trải, số vốn bình quân phân bổ cho các dự án hàng năm thấp dẫn đến dự án kéo dài
gây thất thoát lãnh phí vốn đầu tư; Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư diễn ra
trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư; Nhiều bất cập trong lập và quản lý chi
phí đầu tư xây dựng công trình; Cơ chế giám sát, kiểm tra thực hiện đầu tư công chưa
được chú trọng đúng mức...
Từ những bất cập, hạn chế nêu trên, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả

vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là rất quan trọng và cần thiết trong giai đoạn Số
hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN
/>
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

h ttp://www.lrc-tnu.edu.vn/


hiện nay. Vì vậy để đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đã đạt được,
những tồn tại, hạn chế cần khắc phục và đề xuất, bổ sung cho hoàn thiện các chính
sách, giải pháp để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý đầu tư, ứng dụng các
giải pháp đã đề xuất vào thực tiễn trong công tác điều hành quản lý đầu tư, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, tác giả đã chọn đề tài "Đánh giá
hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong xây dựng cơ bản tại tỉnh Bắc
Kạn" để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.

Mục tiêu tổng quát.

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thuộc ngân sách nhà nước cho đầu tư xây
dựng cơ bản góp phần phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Bắc Kạn.
2.2.

Mục tiêu cụ thể

-

Hệ thống hoá những lý luận về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.


-

Đánh giá và phân tích thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng
bằng nguồn ngân sách nhà nước tại tỉnh Bắc Kạn.

-

Đề xuất những giải pháp cần hoàn thiện để tăng cường quản lý, nâng cao hiệu
quả quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng bằng nguồn ngân sách nhà nước tại tỉnh
Bắc Kạn đến năm 2020.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Các vấn đề liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng
vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
3.2.
-

Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung nghiên cứu và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng
cơ bản, bao gồm nhiều nội dung và lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, do hạn
chế về thời gian nên đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn ngân sách nhà nước do tỉnh Bắc Kạn quản lý, đầu tư vào xây dựng cơ bản
từ năm 2010 đến 2014.



-

Về thời gian: Nghiên cứu tình hình sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong
đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn từ năm 2010 đến 2014.

-

Về không gian: Điều tra nghiên cứu các công trình đầu tư xây dựng trên địa
bàn tỉnh Bắc Kạn.

4. Những đóng góp mới của luận văn
Chỉ ra các vấn đề còn tồn tại trong hệ thống chính sách cũng như những yếu
kém trong công tác quản lý, để làm cơ sở cho việc tổng kết đưa vào lý luận về hiệu
quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản.
Về mặt thực tiễn, giúp cho việc hoàn thiện các chính sách, cũng như các giải
pháp quản lý sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách nhà nước trên
địa bàn tỉnh Bắc Kạn một cách hiệu quả hơn.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được
cấu trúc thành bốn chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà
nước trong đầu tư xdcb.
Chương 2. Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3. Thực trạng sử dụng vốn nsnn trong đầu tư xdcb tại tỉnh bắc kạn
giai đoạn 2010-2014.
Chương 4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nsnn trong đầu tư
xdcb tại tỉnh bắc kạn đến năm 2020.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN

1.1.

Cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong đầu tư

xây dựng cơ bản


1.1.1.

Khái niệm về đầu tư xây dựng cơ bản

Có rất nhiều quan niệm về đầu tư trên nhiều góc độ, lĩnh vực nhưng hiểu một
cách chung nhất: đầu tư là quá trình bỏ vốn ở thời điểm hiện tại nhằm mục đích thu
được hiệu quả lớn trong tương lai. Vốn bỏ vào quá trình đầu tư trong một lĩnh vực
nào đó được gọi là vốn đầu tư.
Ở đây có sự phân biệt giữa hai khái niệm đầu tư và đầu tư XDCB.
-

Nói đến đầu tư là nói đến hoạt động bỏ vốn ra nói chung nhằm đạt được hiệu
quả lớn hơn trong tương lai; không phân biệt nguồn vốn, cơ cấu vốn, quy mô
và hình thức đầu tư. Vì vậy, bất kỳ một hoạt động bỏ vốn nào nhằm mục đích
thu được hiệu quả như: bỏ tiền mua cổ phiếu, trái phiếu, gửi tiết kiệm; hoặc
để cải tạo, bảo vệ môi trường, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được
gọi là hoạt động đầu tư.

-

Đầu tư XDCB là một hình thức đầu tư nói chung. Trong đó, mục đích bỏ vốn
được xác định và giới hạn trong phạm vi tạo ra những sản phẩm XDCB - Cơ
sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế - xã hội như: các nhà máy, đường giao

thông, hồ đập thủy lợi, trường học, bệnh viện...
Trong đầu tư kinh tế người ta phân biệt hai loại đó, đó là đầu tư XDCB và

đầu tư vận hành.
+ Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra TSCĐ đưa vào hoạt
động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau. Xét về mặt tổng thể thì không
một hoạt động đầu tư nào mà không cần phải có các TSCĐ. Nó bao gồm toàn bộ cơ
sở kỹ thuật đủ tiêu chuẩn của Nhà nước.
+ Đầu tư vận hành còn gọi là đầu tư hoạt động là việc đầu tư nhằm tạo ra các
tài sản lưu động để phục vụ cho các TSCĐ hoạt động.
Để có được TSCĐ chủ đầu tư có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau
như: xây dựng mới, mua sắm, đi thuê....
Hoạt động đầu tư cơ bản bằng cách tiến hành xây dựng để tạo ra các TSCĐ


được gọi là đầu tư XDCB.
Xây dựng cơ bản chỉ là một khâu quan trọng trong hoạt động đầu tư XDCB.
Xây dựng cơ bản là các hoạt động cụ thể tạo ra TSCĐ ( khảo sát thiết kế, xây dựng,
lắp đặt.). Kết quả của hoạt động XDCB là các TSCĐ, có một năng lực sản xuất và
phục vụ nhất định. Như vậy, XDCB là một quá trình đổi mới và tái sản xuất mở rộng
có kế hoạch các TSCĐ của nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản xuất vật chất.
Nó là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho một quốc gia.
Đầu tư XDCB đóng vai trò quyết định, gắn liền với việc nâng cao cơ sở vật
chất của nền kinh tế và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Nó đòi hỏi một khoản
vốn lớn và cần được tính toán chuẩn xác, quản lý một cách chặt chẽ; nếu không sẽ
dẫn đến sự lãng phí tiền của rất lớn của đất nước.

, đặc điểm và nội dung của đầu tư XDCB

1.1.2.


Vai trò

1.1.2.1.

Vai trò của đầu tư XDCB từ NSNN

Đầu tư XDCB từ NSNN đóng vai trò quan trọng trong quá trình CNH- HĐH
đất nước của Việt Nam, vai trò quan trọng đó được thể hiện chủ yếu ở những nội
dung sau:
Một là, đầu tư XDCB từ nguồn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà
nước trực tiếp tác động đến các quá trình phát triển kinh tế xã hội, điều tiết vĩ mô,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Bằng
việc cung cấp các dịch vụ công cộng như: hạ tầng kinh tế- xã hội, anh ninh, quốc
phòng.mà các thành phần kinh tế khác không muốn, hoặc không thể hoặc không
được đầu tư; các dự án đầu tư từ NSNN được triển khai ở các vị trí quan trọng, then
chốt nhằm đảm bảo cho nền kinh tế - xã hội phát triển ổn định theo định hướng
XHCN.
Hai là, đầu tư XDCB từ nguồn NSNN được coi là một công cụ để Nhà nước
chủ động điều tiết, điều chỉnh hàng loạt các quan hệ và những cân đối lớn của nền
kinh tế:
- Đầu tư XDCB từ nguồn NSNN là một công cụ để Nhà nước chủ động điều


chỉnh tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Khối lượng đầu tư XDCB bằng nguồn NSNN và tốc độ của nó phản ánh trình
độ phát triển của nền kinh tế. Đầu tư XDCB bằng nguồn NSNN trực tiếp góp phần
tổ chức lại sản xuất phát triển các ngành kinh tế mới và giải quyết vấn đề việc làm
cho xã hội.
Ba là, đầu tư XDCB bằng nguồn NSNN tạo điều kiện cho các thành phần

kinh tế và cho toàn nền kinh tế phát triển. Vốn đầu tư từ NSNN được coi là “vốn mồi
“để thu hút các nguồn lực trong nước và ngoài nước vào đầu tư phát triển; cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội phát triển sẽ tạo khả năng lớn để thu hút vốn đầu tư trong và
ngoài nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, du lịch... Có đủ
vốn đầu tư trong nước mới góp phần giải ngân, hấp thụ được các nguồn vốn ODA,
có hạ tầng kinh tế - xã hội tốt mới thu hút được vốn FDI, có vốn đâu tư “mồi” của
nhà nước mới khuyến khích phát triển các hình thức BOT. Như vậy đầu tư XDCB từ
NSNN có vai trò hạt nhân để thúc đẩy xã hội hóa trong đầu tư, thực hiện CNH-HĐH
đất nước.
Bốn là, đầu tư XDCB bằng nguồn NSNN tạo điều kiện phát triển nguồn nhân
lực, phát triển khoa học công nghệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Các dự án đầu tư
vào các lĩnh vực trên rất tốn kem, độ rủi ro cao, khả năng thu hồi vốn thấp nên
thường được Nhà nước đầu tư bằng nguồn NSNN. Khi hoàn thành và đưa vào sử
dụng sẽ cung cấp các dịch vụ công, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư của nền
kinh tế, xã hội.
Hoạt động đầu tư XDCB bằng nguồn NSNN không những có vai trò quan
trọng đối với sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát
triển của tất cả các mặt đời sống xã hội như: văn hóa nghệ thuật, củng cố vững chắc
an ninh quốc phòng. Do đó hoạt động đầu tư XDCB bằng nguồn NSNN đã và sẽ tạo
một cơ cấu kinh tế hợp lý, tăng trưởng và phát triển bền vững. Đầu tư XDCB bằng
nguồn NSNN thì những vùng sâu, vùng xa mới có thể thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội, mới lôi kéo được miền núi tiến lên, mới có điều kiện lưu thông hàng hóa, xóa


đói giảm nghèo, giữ vững an ninh quốc phòng và bình yên cho xã hội.
11.2.2.

Đặc điểm của đầu tưXDCB

Cũng như đầu tư XDCB nói chung, đầu tư XDCB bằng nguồn NSNN có

những đặc điểm sau:
-

Phạm vi và quy mô đầu tư xây dựng cơ bản luôn gắn liền với việc thực hiện
các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kì. Đầu tư
XDCB bằng nguồn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực
tiếp tác động đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước. Bằng
việc cung cấp các dịch vụ công cộng như hạ tầng KT-XH, an ninh quốc
phòng... mà các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không đầu tư; các
dự án đầu tư bằng NSNN được triển khai ở các vị trí quan trọng, then chốt
nhất đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định theo định hướng XHCN. Kế
hoạch vốn đầu tư của nhà nước phải xuất phát từ yêu cầu của đường lối phát
triển KT-XH của đất nước và của từng địa phương. Phải đảm bảo kết hợp tốt
các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, kết hợp tốt giữa phát triển kinh tế, công
bằng xã hội, hợp lý giữa việc phục vụ mục tiêu phát triển của tỉnh với việc ưu
tiên, hỗ trợ các lĩnh vực không thể kêu gọi đầu tư để góp phần thu hẹp dần
khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, giữa các lĩnh vực.

-

Thời gian xây dựng công trình kéo dài do quy mô công trình thường rất lớn,
sản phẩm được tạo nên chủ yếu là sản phẩm công cộng do Nhà nước là chủ sở
hữu, mục đích của đầu tư XDCB không phải chỉ vì lợi ích kinh tế do dự án
mang lại, mà vì lợi ích chung của nền kinh tế.

-

Đầu tư XDCB bằng nguồn NSNN sẽ giảm dần theo tỷ lệ % nhưng tăng dần
theo giá trị tuyệt đối.


-

Đầu tư XDCB bằng nguồn NSNN mang tính hiệu quả cơ cấu cao, nhằm mục
đích cải tạo cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng đi dần lên sản xuất lớn có
trang bị hiện đại và có trình độ chuyên môn hóa cao, từ đó tạo điều kiện cần
thiết cho quá trình xây dựng và cải tạo cơ cấu đầu tư, đảm bảo điều kiện tốt


trong phát triển kinh tế.
1.1.2.3. Các bước của quá trình đầu tư XDCB
Trình tự đầu tư; Dự án đầu tư được hình thành và phát triển với nhiều giai
đoạn riêng biệt nhưng gắn kết chặt chẽ với nhau, thậm chí đan xen nhau theo một
tiến trình logic. Mặc dù vậy, có thể nghiên cứu chúng một cách tương đối độc lập và
trên các góc độ khác nhau để hiểu chúng một cách hệ thống hơn, toàn diện hơn. Trên
cơ sở quy hoạch đã được phê duyệt. trình tự thực hiện dự án đầu tư bao gồm 8 bước
công việc và phân thành hai giai đoạn theo sơ đồ sau:
Qua sơ đồ ta thấy: bước trước là cơ sở để thực hiện bước sau, giai đoạn trước
là cơ sở thực hiện giai đoạn sau. Tuy nhiên, do tính chất và quy mô của dự án mà
một vài bước có thể gộp vào nhau như ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư, đối với dự án
vừa và nhỏ thì có thể không cần phải có bước nghiên cứu cơ hội đầu tư và bước
nghiên cứu dự án tiền khả thi mà xây dựng luôn dự án quá nhỏ và những dự án có
thiết kế kiểu mẫu.


^ ________ ^

Sơ đồ 1.1: Trình tự trong hoạt động đâu tư
Khi bước trước đã thực hiện xong, trước khi triển khai thực hiện bước tiếp theo phải kiểm tra và đánh giá
đủ các khía cạnh về kinh tế, tài chính, kỹ thuật của bước đó, nếu đạt yêu cầu về các tiêu chuẩn, quy phạm (nếu có)

cho bước đó và được cấp có thẩm quyền chấp nhận mới được thực hiện bước tiếp theo.
+ Lập dự án đầu tư.
+ Gửi hồ sơ dự án và văn bản của cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư, tổ chức cho vay vốn đầu tư và
cơ quan có chức năng thẩm quyền lập dự án đầu tư.
Nội dung công việc ở giai đoạn thực hiện dự án bao gồm:
+ Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước.
+ Chuẩn bị mặt bằng xây dựng.
+ Tuyển chọn tư vấn khảo sát, thiết kế giám định kỹ thuật và chất lượng công trình.
+ Phê duyệt, thẩm định thiết kế và tổng dự toán, dự toán hạng mục công trình.
+ Tổ chức đấu thầu thi công xây lắp, thiết bị.
+ Xin giấy phép xây dựng và giấy phép khai thác tài nguyên (nếu có).


+ Ký kết hợp đồng kinh tế với nhà thầu đã trúng thầu.
+ Thi công xây lắp công trình.
+ Kiểm tra giám sát thực hiện các hợp đồng.
Phân loại dự án đầu tư
Trên thực tế, các dự án đầu tư rất đa dạng về cấp độ loại hình, quy mô và thời hạn. Do vậy, tùy theo mục
đích nghiên cứu và quản lý mà người ta có thể phân loại dự án đầu tư theo các tiêu chuẩn khác nhau.
Theo tính chất của dự án người ta có thể chia dự án đầu tư thành các loại dự án: Dự án đầu tư sản xuất
kinh doanh, dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội, dự án đầu tư nhân đạo.
Theo nguồn gốc vốn đầu tư: Dự án đầu tư bằng vốn trong nước, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, vốn
ODA, vốn đầu tư của Chính phủ, vốn đầu tư của khu vực tư nhân, vốn liên doanh và vốn cổ phần....
Theo ngành, lĩnh vực đầu tư: Dự án thuộc ngành công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, kết cấu hạ tầng
dịch vụ.
Theo quy mô: Dự án đầu tư quy mô lớn, dự án đầu tư quy mô vừa và nhỏ.
Phân loại dự án theo yêu cầu phân cấp quản lý của Nhà nước thì trong luật xây dựng và Nghị định số
16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình đã phân dự án
thành 3 nhóm.
Dự án nhóm A

Các dự án đầu tư xây dựng công trình thuộc lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc phòng có tính chất bảo mật quốc
gia, có ý nghĩa chính trị xã hội quan trọng, dự án sản xuất chất độc hại, hạn tầng khu công nghiệp (không kể mức
vốn).
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp điện, dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo máy, xi

măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, sân bay, đường sắt, đường
quốc lô), xây dựng khu nhà ở với tổng mức đầu tư trên 600 triệu đồng.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Thủy lợi giao thông (khác với điểm trên) cấp thoát nước và công
trình kỹ thuật hạ tầng, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử tin học, hóa dược, công trình cơ khi khác,
sản xuất vật liệu bưu chính viễn thông với tổng mức đầu tử trên 400 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp nhẹ, sành sứ, thủy tinh, vườn quốc gia, khu bảo tồn
thiên nhiên, sản xuất lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông - lâm sản với tổng mức vốn đầu tư trên 300


tỷ đồng.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh truyền hình, xây dựng dân dụng
khác (trừ xây dựng dân dụng nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác
với tổng mức vốn đầu tư trên 200 tỷ đồng.
Dự án nhóm B
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp điện, dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo máy, xi

măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, sân bay, đường sắt, đường
quốc lộ), xây dựng khu nhà ở với tổng mức đầu tư từ 30 tỷ động đến 600 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Thủy lợi, giao thông (khác với các điểm trên) cấp thoát nước và
công trình kỹ thuật hạ tầng, kỹ thuật điện, sản xuất, thiết bị thông tin, điện tử tin học, hóa dược, công trình cơ khí
khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông với tổng mức đầu tư từ 20 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp nhẹ, sành sứ, thủy tinh, vườn quốc gia, khu bảo tồn
thiên nhiên, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông lâm sản với tổng mức đầu tư từ 15 tỷ
đồng đến 300 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh truyền hình, xây dựng dân dụng

khác (trừ xây dựng dân dụng nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác
với tổng mức đầu tư từ 7 tỷ đồng đến 200 tỷ đồng.
Dự án nhóm C
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp điện, dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo máy, xi
măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, sân bay, đường sắt, đường
quốc lộ), xây dựng khu nhà ở với tổng mức đầu tư dưới 30 tỷ động.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Thủy lợi, giao thông (khác với các điểm trên) cấp thoát nước và
công trình kỹ thuật hạ tầng, kỹ thuật điện, sản xuất, thiết bị thông tin, điện tử tin học, hóa dược, công trình cơ khí
khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông với tổng mức đầu tư dưới 20 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp nhẹ, sành sứ, thủy tinh, vườn quốc gia, khu bảo tồn
thiên nhiên, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông lâm sản với tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ
đồng.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh truyền hình, xây dựng dân dụng


khác (trừ xây dựng dân dụng nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác
với tổng mức đầu tư dưới 7 tỷ đồng.
1.1.3.

Chức năng của đầu tư xây dựng cơ bản

Đầu tư với mục tiêu làm tăng trưởng và thay đổi kết cấu của TSCĐ sẽ thực hiện một loạt các chức năng,
trong đó quan trọng nhất là:
Chức năng tạo năng lực mới: Chức năng này tạo ra năng lực mới của đầu tư XDCB. Các năng lực mới do
đầu tư XDCB tạo ra có giá trị sử dụng và thông qua đó các nhu cầu có thể được thỏa mãn. Vì vậy, chức năng
năng lực tạo ra khả năng đảm bảo duy trì hoặc phát triển sản xuất sản phẩm hàng hóa dịch vụ; bảo vệ và cải tạo
môi trường nhằm hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng xấu đến sản xuất và tiêu dùng. Chức năng năng lực được
coi là chức năng đầu tiên của đầu tư XDCB.
Chức năng thay thế: Chức năng thay thế của đầu tư XDCB biểu hiện khả năng thay đổi từng tổ hợp sản
xuất và khả năng thay thế lẫn nhau của từng nhân tố này do kết quả của quá trình đầu tư XDCB. Nó được thể hiện

ở mức tiết kiệm chi phí trong khu vực sản xuất vật chất (nhờ quá trình đầu tư XDCB thay thế hợp lý các nhân tố
sản xuất). Cũng như trong khu vực dịch vụ (trước hết là dịch vụ tiêu dùng) nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của
nền kinh tế với chi phí xã hội ít hơn.
Vai trò của chức năng thay thế đầu tư xây dựng cơ bản ngày càng tăng lên với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật và với việc hướng dẫn nền kinh tế hướng vào loại hình phát triển chiều sâu mà đặc trưng là thay thế có
hiệu quả các yếu tố sản xuất.
Chức năng thu nhập và sinh lời: Chức năng này được xác định bởi khả năng tạo ra thu nhập và sinh lời do
quá trình đầu tư XDCB mang lại. Chức năng thu nhập và sinh lời là sự kết hợp các chức năng năng lực và thay
thế sẽ tạo điều kiện tăng tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc dân. Đặc trưng kết quả thu nhập đánh giá
công dụng của đầu tư XDCB cũng như ảnh hưởng của nó bởi việc tạo ra mối quan hệ giá trị và thu nhập trong nền
kinh tế. Do đó, chức năng thu nhập và sinh lời của đầu tư XDCB chính là tác động của nó trong tăng thu nhập của
từng chủ thể trong hệ thống kinh tế làm ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận và tổng thu nhập của các tổ chức kinh
doanh và các tầng lớp dân cư trong nền kinh tế.
1.1.4.

Nội dung của đầu tư Xây dựng cơ bản

Nội dung quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN phụ thuộc vào chủ thể quản lý và cấp quản lý ở cấp địa
phương (tỉnh) quản lý vốn đầu tư XDCB bao gồm các nội dung chủ yếu như: Lập kế hoạch vốn đầu tư, cấp phát


và quản lý sử dụng vốn đầu tư; thanh toán và quyết toán vốn đầu tư.
1.1.4.1.

Lập và giao kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước

Như chúng ta biết vốn đầu tư XDCB từ NSNN luôn đồng hành với các dự án đầu tư. Do vậy, việc xây
dựng kế hoạch vốn cũng được gắn với xây dựng dự án và phê duyệt các dự án đầu tư XDCB.
Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng lãnh thổ, ngành và nhu cầu thực tiễn để
xây dựng và lựa chọn dự án đầu tư XDCB. Các dự án đầu tư để được duyệt cấp vốn cần phải có đủ các điều kiện

theo luật định: Cụ thể là:
Đối với các dự án về xây dựng quy hoạch: phải có đề cương hoặc nhiệm vụ dự án quy hoạch hoặc dự toán
công tác quy hoạch phê duyệt.
Đối với các dự án chuẩn bị đầu tư: phải phù hợp với những quy hoạch ngành và lãnh thổ được duyệt, có
dự toán chi phí công tác chuẩn bị.
- Đối với các dự án thực hiện đầu tư: phải có quyết định đầu tư từ thời điểm 31/10 trước năm kế hoạch, có
thiết kế, có dự toán và tổng mức vốn được duyệt theo quy định.
Trường hợp dự án chỉ bố trí kế hoạch để làm công tác chuẩn bị thực hiện dự án thì phải có quyết định đầu
tư và dự toán chi phí công tác chuẩn bị thực hiện dự án được duyệt.
Sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt, dự án được đưa vào quy hoạch đầu tư và được bố trí vốn trong
kế hoạch đầu tư hàng năm. Việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư do chính quyền các cấp thực hiện với sự giúp việc của
cơ quan kế hoạch (ở cấp tỉnh là Sở kế hoạch và Đầu tư) thực hiện. Theo quy định hiện hành thời gian và vốn để
bố trí kế hoạch thực hiện các dự án nhóm B không quá 4 năm, nhóm C không quá 2 năm.
1.1.4.2.

Cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước

Sau khi vốn đầu tư XDCB được giao, dự toán được phân bổ, thì khâu tiếp theo là cấp phát vốn, bao gồm

lập kế hoạch cấp phát và tiến hành cấp phát vốn đầu tư theo dự toán được duyệt. Cấp phát vốn đầu tư XDCB từ
NSNN liên quan tới các cơ quan ở các cấp gồm: Bộ tài chính, bộ chủ quản và ban quản lý dự án của bộ, KBNN
trung ương, KBNN nơi giao dịch ở địa phương, việc cấp phát vốn đầu tư XDCB liên quan tới UBND, Sở tài
chính, bản quản lý dự án và KBNN.
Vốn đầu tư XDCB từ NSNN được cấp phát theo hai hình thực chủ yếu đó là cấp phát hạn mức kinh phí và
cấp phát lệnh chi tiền.
Cấp phát hạn mức kinh phí là phương thức cấp phát phổ biến nhất từ năm 2005 về trước nhằm thực hiện


cấp phát kinh phí thường xuyên cho các cơ quan hành chính sự nghiệp. Theo đó, hàng tháng hoặc quý, cơ quan tài
chính cấp phát hạn mức kinh phí cho đơn vị sử dụng theo kế hoạch chi NSNN. Căn cứ vào hạn mức kinh phí

được cấp đơn vị làm thủ tục lĩnh tiền tại KBNN hoặc làm thủ tục chuyển trả tiền cho đơn vị, đã cung cấp hàng
hóa dịch vụ. Cuối năm nếu không sử dụng hết thì hạn mức kinh phí bị hủy bỏ.
Phương thức này có ưu điểm là việc chi xuất quỹ NSNN tương đối phù hợp với tiến trình chi tiêu của đơn
vị thụ hưởng, tiền thuộc NSNN ít bị nhàn rỗi tại cơ quan đơn vị hay tồn tại ngân khoản tiền gửi tại KBNN hay
Ngân hàng thương mại trong khi tồn quỹ NSNN có hạn (thu trừ chi). Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của phương
thức này là việc cấp phát qua nhiều khâu trung gian (phân phối lại hạn mức của đơn vị dự toán cấp 1 và cấp 2).
Nhiều trường hợp phân phối lại hạn mức không còn đúng với mục đích ban đầu cơ quan tài chính cấp cho đơn vị
và để phát sinh tiêu cực trong quá trình phân phối lại hạn mức kinh phí.
Cấp phát lệnh chi tiền: được áp dụng cho các khoản chi không thường xuyên: như cấp vốn lưu động, cấp
phát vốn đầu tư XDCB, các chương trình mục tiêu, chi an ninh kinh tế...
Về nguyên tắc, phương thức này áp dụng cho nhiều việc đã hoàn thành hoặc ứng trước cho nhiều công
việc đang thực hiện, những khoản chi nhất định đã ghi trong dự toán NSNN có tính chất pháp lý bắt buộc phải thi
hành. Ưu điểm của phương thức này là việc ấp phát và hạch toán khá thuận lợi, có đối tượng, mục đích chi tiêu rõ
rang cụ thể. Song nó lại có nhiều nhược điểm: trong hoạt động thực tiễn việc cấp phát ngân sách hầu hết là tạm
ứng nhưng không có điều kiện ràng buộc mà chỉ là tạm ứng theo kế hoạch cấp phát chứ không sát tiến độ công
việc.
11.4.3.

Thanh toán và kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước

Thanh toán vốn đầu tư XDCB từ NSNN liên quan tới 3 cơ quan chức năng gồm: ban quản lý dự án,
KBNN nơi giao dịch và đơn vị cung cấp hàng hóa dịch vụ ( nếu là mua sắm công).
Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB từ NSNN là việc kiểm tra, xem xét căn cứ, điều kiện cần và đủ
theo quy định của Nhà nước đề xuất quỹ NSNN chi trả theo yêu cầu củ chủ đầu tư các khoản kinh phí thực hiện

dự án. Do vốn đầu tư XDCB từ NSNN chi cho các dự án có nội dung khác nhau (quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, giải
phóng mặt bằng, thực hiện đầu tư, chi phí quản lý dự án....) nên đối tượng và tính chất đặc điểm các khoản chi
này không giống nhau, theo đó yêu cầu hồ sơ thủ tục, mức quản lý tạm ứng, thanh toán vốn và tham gia xử lý
công việc cũng như quy trình kiểm soát thanh toán vốn sẽ có những điểm khác nhau, tương ứng phù hợp với nội
dung từng loại dự án. Các quy định liên quan đến thanh toán vốn đầu tư gồm 3 nhóm: quy định về hồ sơ, thủ tục;



quy định về tạm ứng và trách nhiệm thanh toán; quy định về thời gian từng giai đoạn.
11.4.4.

Quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước

Vốn đầu tư XDCB từ NSNN được quyết toán theo hai hình thức là quyết toán niên độ và quyết toán công
trình, dự án hoàn thành.
- Quyết toán niên độ NSNN: Do là nguồn vốn đầu tư từ NSNN việc quản lý phải theo chu trình ngân sách,
trong chu trình đó có các giai đoạn lập, quyết định và phân bổ ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân
sách nhà nước. Quyết toán niên độ vốn đầu tư NSNN là việc xác định, tổng hợp toàn bộ số liệu từ 01/01 năm thực
hiện cho đến hết 31/1 năm sau. Nội dung các báo cáo quyết toán theo đúng quy định của Bộ tài chính, phù hợp
với nội dung kế hoạch dự toán được duyệt, đối chiếu nguồn vốn cho từng công trình, dự án và theo đúng mục lục
ngân sách nhà nước.
Yêu cầu quyết toán niên độ: tất cả các khoản thuộc ngân sách năm trước nộp năm sau phải ghi vào ngân
sách năm sau. Các khoản chi ngân sách năm trước chưa thực hiện được đưa vào kế hoạch năm sau khi có cơ quan
thẩm quyền quyết định. Mặt khác các khoản thu không đúng theo quy định của pháp luật phải được hoàn trả lại,
những khoản phải thu nhưng chưa thu phải trưng thu đầy đủ cho NSNN. Những khoản chi không đúng quy định
của pháp luật phải được thu hồi cho NSNN. Quyết toán này có ý nghĩa quan trọng trong điều hành NSNN cho
hoạt động của Nhà nước và chỉ đạo điều hành quản lý vốn đầu tư XDCB NSNN.
-

Quyết toán công trình, dự án hoàn thành: Khi công trình, dự án hoàn thành bàn giao sử dụng, chủ đầu tư có
trách nhiệm lập báo cáo quyết toán công trình hoàn thành trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

-

Quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành là việc xác định chi phí hợp pháp (chi phí đưa vào công trình
(hình thành tài sản), chi phí không vào công trình( duyệt bỏ do bất khả kháng)) trong quá trình đầu tư để

đưa vào khai thác sử dụng. Đó là chi phí nằm trong tổng mức đầu tư, đúng thiết kế dự toán được phê duyệt,
đúng định mức, chế độ tài chính kế toán và đúng hợp đồng đã ký, được nghiệm thu và các quy định khác
của Nhà nước có liên quan.
Nội dung quyết toán này xác định tính pháp lý hồ sơ văn bản và các số liệu vốn đầu tư thực hiện đầu tư từ

khi khởi công cho đến khi kết thúc dự án, công trình có phân khai vốn đầu tư theo nguồn hình thành; tính chất sản
phẩm dự án; xây dựng, thiết bị...
Yêu cầu quyết toán này: là xác định tính hợp pháp và rõ ràng, do vậy các khoản chi sai phải được xuất
toán và thu hồi cho NSNN, công nợ phải rõ ràng, xác thực; số liệu phản ánh hàng năm và lũy kế có chứng từ hồ


sơ hợp pháp, hợp lệ kèm theo. Trách nhiệm báo cáo quyết toán hoàn thành do các chủ đầu tư đảm nhiệm. Thời
gian hoàn thành dài hay ngắn tùy theo nhóm dự án.
Ý nghĩa: Quy trình thẩm tra phê duyệt quyết toán loại trừ các chi phí không hợp pháp, hợp lệ... cho
NSNN. Sau quyết toán số liệu này là căn cứ để ghi chép hạch toán tình hình tài sản nhà nước đưa vào sử dụng
đồng thời, giải quyết các vấn đề liên quan đến quy trình đầu tư một dự án như: thanh toán, tất toán tài khoản, xác

định công nợ, báo cáo hoàn công trước cấp có thẩm quyền. Tạo điều kiện làm căn cứ cho việc đánh giá hiệu quả
quá trình đầu tư và có giải pháp khai thác sử dụng dự án, công trình sau ngày hoàn thành.
1.1.5. Hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong đầu tư XDCB
1.1.5.1.

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước

a, Khái niệm nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản và nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân
sách tập trung
Vốn là toàn bộ giá trị của đầu tư để tạo ra các sản phẩm nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai. Các
nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư được gọi là vốn đầu tư, nếu quy đổi ra thành tiền thì vốn đầu tư là
toàn bộ chi phí đầu tư.
Bất kỳ một quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nào muốn tiến hành được đều phải có vốn đầu tư,


vốn đầu tư là nhân tố quyết định để kết hợp các yếu tố trong sản xuất kinh doanh. Nó trở thành yếu tố quan trọng
hàng đầu đối với tất cả các dự án đầu tư phát triển kinh tế nhà nước.
Nghị định số 385-HĐBT ngày 07/11/1990 của hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) về việc sửa đổi, bổ
sung thay thế điều lệ quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đã ban hành theo Nghị định số 232-CP ngày 06/06/1981
khái niệm “Vốn đầu tư XDCB là toàn bộ chi phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí
thiết kế xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác ghi trong tổng dự toán ”.
Theo nghĩa chung nhất thì vốn đầu tư XDCB bao gồm: chi phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây
dựng,chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác theo một
dự án nhất định.
Các nguồn lực thuộc quyền sở hữu và chi phối toàn diện của Nhà nước được sử dụng cho hoạt động đầu tư
XDCB và được gọi là vốn đầu tư XDCB từ NSNN.
NSNN với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước tham gia huy động và phân phối vốn
đầu tư thông qua hoạt động thu, chi ngân sách.


Căn cứ vào phạm vi, tính chất và hình thức thu cụ thể, vốn đầu tư XDCB từ NSNN được hình thành từ các
nguồn sau:
+ Nguồn vốn thu trong nước (thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ bán, cho thuê tài sản, tài nguyên của đất
nước.. .và các khoản thu khác).
+ Nguồn vốn từ nước ngoài (vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, nguồn viện trợ phi chính phủ.
Phân cấp quản lý ngân sách chia vốn đầu tư XDCB từ NSNN gồm:
+ VĐT XDCB của ngân sách trung ương được hình thành từ các khoản thu của ngân sách trung ương đầu
tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích quốc gia. Nguồn vốn này được giao cho các bộ, ngành quản lý sử dụng.
+ VĐT XDCB của ngân sách địa phương được hình thành từ các khoản thu ngân sách địa phương đầu tư
vào các dự án phục vụ cho lợi ích của từng địa phương. Nguồn vốn này thường được giao cho các cấp chính
quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) quản lý thực hiện.
Mức độ kế hoạch hóa, VĐT từ NSNN được phân thành:
+ VĐT xây dựng tập trung: nguồn vốn này được hình thành theo kế hoạch với tổng mức vốn và cơ cấu
vốn do Thủ tưởng Chính phủ quyết định giao cho từng bộ, ngành và từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.


+ VĐT XDCB từ nguồn thu được để lại theo Nghị quyết của Quốc hội: thu từ thuế nông nghiệp, thu bán,
cho thuê của Nhà nước, thu cấp quyền sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất...
+ VĐT XDCB theo chương trình quốc gia.
+ VĐT XDCB thuộc NSNN nhưng được để lại tại đơn vị để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất như: quảng
cáo truyền hình, thu học phí.

Nguồn VĐT XDCB từ nguồn vốn ngân sách tập trung phần lớn được sử dụng để đầu tư cho các dự án
không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, có vốn đầu tư lớn, có tác dụng chung cho nền KT - XH mà các thành
phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không muốn tham gia đầu tư. Nguồn vốn cấp phát từ nguồn vốn ngân
sách tập trung có tính chất bao cấp nên dễ bị thất thoát, lãng phí, đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ.
VĐT XDCB từ nguồn vốn ngân sách tập trung được đầu tư cho các dự án sau:
+ Các dự án kết cấu hạ tầng KT - XH, Quốc phòng - An ninh không có khả năng thu hồi vốn và được quản
lý sử dụng phân cấp chi NSNN cho đầu tư phát triển.
+ Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước theo
quy định của pháp luật.


+ Chi cho công tác điều tra, khảo sát lập quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH vùng, lãnh thổ; quy hoạch
xây dựng đô thị và nông thôn khi được Chính phủ cho phép.
b, Vị trí, vai trò của nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đổi với đầu tư xây dựng cơ bản
Ngân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế và một phạm trù lịch sử. Sự hình thành và phát triển của ngân
sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ trong phương thức sản xuất
của các cộng đồng và Nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác sự ra đời của

Nhà nước, sự tồn tại của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ là tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của ngân
sách nhà nước.
Nói đến nguồn vốn là nói đến nguồn gốc xuất xứ để có được vốn đó. Đứng trên góc độ một chủ dự án, để
hình thành một dự án đầu tư xây dựng có thể sử dụng các nguồn vốn sau đây:
Nguồn vốn ngân sách nhà nước Nguồn vốn vay Nguồn vốn tự

bổ sung
Nguồn huy động, đóng góp trong quá trình xây dựng công trình... Nguồn vốn của ngân sách nhà nước là
một bộ phận vốn đầu tư xây dựng cơ bản được Nhà nước tập trung vào ngân sách nhà nước dùng để đầu tư xây
dựng công trình theo mục tiêu phát triển kinh tế cho đầu tư xây dựng cơ bản. Trong mỗi thời kỳ, tùy vào điều kiện
lịch sử cụ thể và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí cho
đầu tư xây dựng cơ bản với tỷ lệ khác nhau.

Hiện nay nguồn vốn từ ngân sách nhà nước được bố trí trực tiếp cho các công trình văn hóa, ý tế, giáo dục,
quản lý nhà nước, cơ sở hạ tầng và những công trình trọng điểm quan trọng, có ý nghĩa làm thay đổi cơ cấu kinh
tế của cả nước, của vùng lãnh thổ và địa phương.
Chi đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước là quá trình Nhà nước sử dụng một phần vốn tiền tệ đã
tập trung dưới hình thức: Thuế, phí, lệ phí. để đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa xã hội. Các
khoản chi này có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Với ý nghĩa đó người ta coi khoản chi
này chỉ cho tích lũy.
Chi đầu tư xây dựng cơ bản là khoản chi được ưu tiên hàng đầu trong tổng chi ngân sách nhà nước. Chi
đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách nhà nước là quá trình sử dụng một phần vốn tiền tệ đã được tập trung vào
ngân sách nhà nước nhằm thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng,
từng bước tăng cường và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Chi đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân


sách nhà nước được thực hiện hàng năm nhằm mục đích đầu tư để xây dựng các công trình, kết cấu hạ tầng kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, các công trình không có khả năng thu hồi vốn.
Để quản lý có hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước chúng ta cần tiến hành phân
loại khoản chi này. Phân loại các khoản chi là việc sắp xếp các khoản chi có cùng mục đích, cùng tính chất thành
loại chi. Chúng ta có thể phân loại chi đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước theo các tiêu thức sau:
+ Xét theo hình thức tài sản cố định, chi đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm:
Chi xây dựng mới: là các khoản chi để xây dựng mới các công trình, dự án mà kết quả là làm tăng thêm tài
sản cố định, tăng thêm năng lực sản xuất mới của nền kinh tế quốc dân. Đây là khoản chi có tỷ trọng lớn.
Chi cải tạo sửa chữa: là khoản chi nhằm phục hồi hoặc nâng cao năng lực của những công trình dự án có
sẵn.

+ Xét theo cơ cấu công nghệ vốn đầu tư, chi đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm:
Chi xây dựng: là các khoản chi để xây dựng lắp ghép các kết cấu kiến trúc và lắp đạt thiết bị vào đúng vị
trí và theo đúng thiết kế đã được duyệt.
Chi thiết bị: là các khoản chi cho mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị bao gồm cả chi phí vận chuyển, lưu
kho, lưu bãi, chi phí bảo dưỡng tại khi bãi ở hiện trường, chi phí chạy thử cũng như các chi phí liên quan về thuế
và bảo hiểm thiết bị.
Chi phí quản lý dự án: đây là khoản chi đảm bảo điều kiện cho quá trình xây dựng, lắp đặt và đưa dự án đi
vào sử dụng. Nó bao gồm các khoản chi như: chi tổ chức thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư, chi tổ chức khảo sát
thiết kế, tổ chức đầu thầu...
+ Xét theo giai đoạn đầu tư, chi đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm:
Chi cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư: là những khoản chi để xác định sự cần thiết phải đầu tư, quy mô đầu tư,
điều tra khảo sát thăm dò và lựa chọn địa điểm xây dựng, lập dự án đầu tư, thẩm định dự án đầu tư và quyết định
đầu tư.
Chi phí cho giai đoạn thực hiện và kết thúc xây dựng, đưa dự án vào khai thác sử dụng. Đây là khoản chi
liên quan đến quá trình xây dựng, đưa dự án vào khai thác sử dụng. Đây là khoản chi liên quan đến quá trình xây
dựng từ khi khởi công đến khi hoàn thành bàn giao dự án đưa vào khai thác, sử dụng.
1.1.5.2.

Khái niệm hiệu quả vốn đầu tư XDCB


Nói tới đầu tư là nói tới hiệu quả đầu tư, vì hiệu quả đầu tư là mục đích cuối cùng của đầu tư. Hiệu quả
đầu tư được thể hiện trong mối quan hệ giữa lợi ích thu được do đầu tư mang lại và chi phí bỏ ra để thực hiện đầu
tư. Do mục đích đầu tư khác nhau nên tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả đầu tư ở mỗi thời kỳ cũng khác nhau. Khi
đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư cần xem xét dưới hai góc độ.
Dưới góc độ vi mô: Hiệu quả của hoạt động đầu tư là chênh lệch giữa thu nhập mà hoạt động đầu tư đó
mang lại và chi phí bỏ ra, đó là lợi nhuận. Phạm trù này được xem xét ở góc độ một doanh nghiệp (hay một đơn
vị) nên mục tiêu lợi nhuận được đặt lên hàng đầu.
Dưới góc độ vĩ mô: hiệu quả hoạt động đầu tư được xem xét dưới góc độ của toàn bộ nền kinh tế. Nó
không chỉ bao gồm hiệu quả kinh tế mà còn bao gồm cả hiệu quả xã hội như: mục tiêu an ninh - quốc phòng, vấn

đề lao động việc làm, cơ cấu kinh tế, mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên, những thay đổi về điều kiện sống,
lao động, môi trường; về hưởng thụ văn hóa, phúc lợi công cộng, chăm sóc y tế và quyền bình đẳng.
Đối với vốn NSNN, mục đích đầu tư thường không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà vì lợi ích kinh tế - xã
hội lâu dài. Do đó, đối tượng sử dụng NSNN để đầu tư là những dự án mang lại lợi ích cho toàn xã hội, có sự kết
hợp hài hòa giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
Để hoạt động đầu tư có hiệu quả, cần có chiến lược đầu tư dài hạn đúng quy hoạch (quy hoạch ngành, quy
hoạch đô thị và nông thôn, quy hoạch kinh tế xã hội...) phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội...của đất nước.
Do nguồn lực khan hiếm, trong khi nhu cầu đầu tư luôn cao hơn khả năng đầu tư của nền kinh tế, đòi hỏi

vốn đầu tư phải được sử dụng có hiệu quả trong từng thời kỳ nhất định. Với khối lượng vốn ban đầu có hạn
nhưng lại có thể thỏa mãn tốt nhất nhu cầu đầu tư nhằm góp phần thỏa mãn tối đa nhu cầu xã hội.
1.1.5.3.

Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản

Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về tiêu chuẩn hiệu quả VĐT, có thể chí thành 3 nhóm quan niệm
chính như sau:
Nhóm 1: Coi tiêu chuẩn hiệu quả là một tiêu thức hiệu quả nào đó và dựa vào đó để kết luận vốn đầu tư có
hiệu quả hay không. Và đưa ra kết luận.
Nhóm 2: Cho tiêu chuẩn hiệu quả vốn đầu tư là một mức cao nhất có thể đạt được trong một điều kiện

nhất định (H max). Theo quan niệm hiệu quả VĐT thực đạt được (H) thường nhỏ hơn hoặc bằng (H max). Theo
đó H càng tiến lại gần (H max) vốn đầu tư càng có hiệu quả.


Nhóm 3: điển hình là T.charatyrob cho rằng: “tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả vốn đầu tư là do quy luật kinh
tế cơ bản quyết định”. Quan niệm này đã gắn mục tiêu của nền kinh tế với phương tiện để đạt được mục tiêu đó
và trong thực tế quan niệm này được sử dụng rất rộng rãi.
Các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả VĐT có thể phân thành hai loại: Tiêu chuẩn lợi ích tối đa

Tiêu chuẩn chi phí tối thiểu
Tiêu chuẩn lợi ích tối đa được xem xét trong điều kiện khi đánh giá hiệu quả dự án có nhiều phương án
thay thế lẫn nhau cùng có mức VĐT như nhau phương án nào có lợi ích kinh tế xã hội tối đa thì được coi là tối
ưu, hiệu quả nhất nên được lựa chọn.
Tiêu chuẩn chi phí tối thiểu cũng được xem xét trong điều kiện hiệu quả của dự án đầu tư có nhiều phương
án thay thế lẫn nhau cùng có mức lợi ích kinh tế xã hội định trước, phương án nào có chi phí VĐT ít nhất được
coi là hiệu quả nhất nên được chọn thực hiện đầu tư.
Hai loại tiêu chuẩn hiệu quả trên nhìn chung kết quả tương tự nhau và đưa đến những kết luận như nhau.
Tiêu chuẩn lợi ích tối đa tạo điều kiện sử dụng đầy đủ các nguồn lực hiện có làm cho hiệu quả từng bộ phận thống
nhất với hiệu quả toàn bộ nền kinh tế. Trong khi đó tiêu chuẩn chi phí tối thiểu chưa quan tâm đầy đủ đến việc tận
các nguồn lực hiện có do đó hiệu quả cục bộ đã không dẫn đến hiệu quả toàn bộ. Loại hình tiêu chuẩn lợi ích tối
đa được coi là cơ bản nên được sử dụng phổ biến.
1.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ngân sách vào đầu tư XDCB
Một là, công tác quy hoạch và kế hoạch hóa đầu tư
Công tác quy hoạch và kế hoạch hóa hoạt động đầu tư (gọi tắt là kế hoạch hóa đầu tư) vừa là nội dung,
vừa là công cụ quản lý hoạt động đầu tư. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB thì công tác kế
hoạch hóa đầu tư phải xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế. Mục đích cuối cùng của hoạt động đầu tư XDCB là
tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Do đó nhu cầu
của nền kinh tế là xuất phát điểm cho việc lập quy hoạch và công tác kế hoạch hóa, đồng thời cần căn cứ vào định
hướng lâu dài của Nhà nước, phù hợp với quy định của pháp luật. Kế hoạch đầu tư phải dựa trên khả năng huy
động nguồn lực trong và ngoài nước; phải đảm bảo tính khoa học, tính đồng bộ và tính liên tục, tính vững chắc và
phải có mục tiêu rõ ràng. Có như vậy thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB mới được nâng cao.
Hai là, các chính sách kinh tế
Các chính sách kinh tế là nhóm nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đó là các


×