Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

PHƯƠNG PHÁP TRAU dồi từ VỰNG TRONG GIA TIẾNG ANH lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.24 KB, 27 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương trình dạy học tiếng Anh trong nhà trườngTiểu học đến nay đã được
gần 10 năm. Để đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện tại của đất
nước, ngành giáo dục và đào tạo nước ta phải không ngừng phấn đấu thực hiện
nghị quyết của đảng đề ra, thực hiện tốt mục tiêu đào tạo con người mới có đủ
tài đức xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, văn minh.
Bản thân tôi đã nhận thức thấy rõ, muốn thực hiện được mục tiêu trên, đòi
hỏi người thầy phải thực hiện nghiêm túc chương trình dạy học. Phương pháp
dạy học tiếng Anh trong trường tiểu học phải dược sáng tạo, phương pháp giáo
dục phải hướng vào việc khơi dạy, rèn luyện và phát triển khả năng học tập một
cách chủ động, sáng tạo của học sinh. Học sinh làm trung tâm giữ vai trò chủ
động, tích cực. Người thầy chỉ đóng vai trò hướng dẫn, gợi mở, dẫn dắt để học
sinh khám phá, tìm tòi, chiếm lĩnh tri thức, có như vậy giờ dạy mới đạt hiệu quả
cao.
Môn tiếng Anh góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu đào tạo con người ở
Tiểu học theo đặc trưng của bộ mô hình. Việc dạy tiếng Anh trong nhà trường
tiểu học đào tạo cho học simh năng lực sử dụng tiếng Anh văn hoá hiện đại để
khám phá, để giao tiếp, để suy nghĩ về sự bí ẩn của thế giới, để tiếp cận được với
nguồn thông tin đại chúng thông qua các hệ thống máy móc hiên đại sử dụng
tiếng Anh. Thông qua việc học tiếng Anh, nhà trường rèn cho các em tính tích
cực chủ động, sáng tạo của học sinh.
Yêu cầu của dạy tiếng Anh ở trường tiểu học là phần chú trọng xây dựng
các thói quen sử dụng tiếng Anh của học sinh trong những tình huống đơn giản.
Đồng thời tác động tới cảm xúc và tình cảm của các em, để phát triển dần ý thức
học bộ môn của các em.
Cuối bậc Tiểu học yêu cầu tối thiểu của các em phải đạt được là đọc thông
viết thạo tiếng Anh về những chủ điểm đơn giản đã học trong giao tiếp, yêu
thích bộ môn, biết được tầm quan trọng của bộ môn đối với những cấp học kế
tiếp. Để làm được điều đó đối với học sinh Tiểu học không phải là dễ, đòi hỏi
người thầy dậy tiếng Anh phải đánh giá được kết quả học tập của học sinh thông
1




qua cả bộ môn tiếng Việt. Tìm hiểu năng lực nói, viết Tiếng Việt của học sinh.
Việc sử dụng Tiếng Việt thông thạo của học sinh góp phần đắc lực trong việc
tiếp nhận kiến thức của một ngôn ngữ mới, trình độ các em được tăng thêm,
những tri thức và kỹ năng được khắc sâu thêm.
Chớnh vỡ vậy mụn tiếng Anh đó đưa vào chương trỡnh giỏo dục tiểu học
là một mụn chớnh ở một số trường từ năm 2010 với mục tiêu giúp các em học
sinh trên cơ sở rèn luyện 4 kỹ năng : Nghe, nói, đọc, viết đạt được khả năng đọc
hiểu tiếng Anh ở chương trỡnh tiểu học, tạo điều kiện thuận lợi cho các em việc
tự học, tỡm hiểu khoa học kỹ thuật hiện đại và kho tàng văn hóa phong phú của
thế giới trong tương lai.
Xuất phát từ đối tượng của quá trỡnh dạy học là học sinh tiểu học thuộc
vựng khú, việc học tiếng Anh rất hoàn toàn mới lạ và ý thức học tập của cỏc em
chưa cao, ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.Trong quá trỡnh giảng dạy, tụi
nhận thấy rằng cỏc em cũn gặp nhiều khú khăn trong việc tích luỹ được vốn từ.
Vốn từ vựng được coi là một trong nhưng việc quan trọng đầu tiên, có được vốn
từ nhất định thỡ cỏc em mới núi được và đó chính là cơ sở giao tiếp. Nếu không
có vốn từ thỡ khả năng nghe nói của các em sẽ bị hạn chế rất nhiều..
Đối với học sinh tiểu học, đọc tiếng Việt cho chuẩn xác, gợi cảm đó là
một vấn đề không dễ, huống gỡ núi đến việc học tiếng Anh lại càng nan giải và
khó khăn hơn nhiều; song không thể để cho học sinh học tiếng Anh cho vui, vô
bổ.
Để giúp các em vượt qua trở ngại này tôi chọn đề tài " Phương pháp
trau dồi từ vựng trong giảng dạy tiếng Anh lớp 4" nhằm giúp các em học
sinh hiểu thêm về cách phát âm của từ và đặc biệt biết nhận thức rừ tầm quan
trọng của việc trau dồi từ vụng trong việc học tiếng Anh
I.1. Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết, đất nước ta không còn ở thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội mà thực sự bước sang giai đoạn mới là xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Lẽ tất nhiên chúng ta chưa thể thực hiện được những kế hoạch đề ra vì vậy
nhiệm vụ đang trông chờ vào thế hệ măng non của đất nước. Một ưu thế mà đã
có được hiện nay đó là một thế hệ trẻ có sự đồng nhất cả về thể chất và năng lực
trí tuệ, có óc sáng tạo lớn , ngày càng tỏ ra sự kế tiếp xứng đáng.
2


Hiện nay trên thế giới đang trên đà phát triển về khoa học kỹ thuật, công
nghệ hiện đại tiên tiến. Để hoà nhập với các nước trên thế giới thì nhiệp vụ quan
trọng hàng đầu của nước ta là cải cách và nâng cao chất lượng giáo dục. Đây
cũng là nền tảng , là cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự trông chờ vào khả năng thế hệ tương lai sẽ là vô ích nếu chúng ta không
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là “chăm sóc chồi non”. Bồi dưỡng uốn nắn
kịp thời và chuyển giao cho các em tri thức, đặt nền móng vững chắc, chuẩn bị
hành trang cơ bản cho các em hướng tới cấp học cao hơn đi vào cuộc sống.
Bằng những kiến thức hiểu biết đã được trang bị trong quá trình học tập
cùng với kinh nghiệm giảng dạy qua 8 năm tôi thấy được tầm quan trọng của
các môn học cấp Tiểu học nói chung và môn Anh ngữ nói riêng ngày càng cụ
thể.
Ở Tiểu học các em học nhiều phân môn khác nhau, trong đó môn học tiếng
Anh đóng một vai trò rất quan trọng. Theo quyết định số 2957/DG - ĐT về mục
tiêu kinh tế và kế hoạch giáo dục tiểu học trong đó quy định tiếng Anh là một
trong những môn học tự chọn ở các trường tiểu học - Nó cùng các môn văn hoá
khoa học khác cung cấp cho các em tri thức tiến bộ của loài người và có thêm
sự hiểu biết về phong tục tập quán, về đất nước và về con người của nhiều dân
tộc trên thế giới, bồi dưỡng cho các em thế giới quan và nhân sinh quan đúng
dắn. Nếu các môn học khác bồi dưỡng và rèn luyện cho các em kỹ năng tính
toán tư duy, sáng tạo…thì môn tiếng Anh hình thành cho học sinh tính tự giác,
cần cù, ham học hỏi, ngoài ra còn giúp học sinh cảm nhận được sự bí ẩn, và

phong phú của thế giới xung quanh. Học sinh hiểu sâu, biết rộng nắm bắt quy
tắc nghe, nói, đọc, viết ngôn ngữ mới… Phát huy trí thông minh, tư duy sáng
tạo, chủ động chiếm lĩnh tri thức trong từng giờ học, biết cách khai thác vận
dụng vào cuộc sống, có kỹ năng tốt về học tập bộ môn.
Môn tiếng Anh là một bộ môn văn hoá có tính đặc trưng rất khác so với các
môn văn hoá khoa học khác. Đồng thời đối tượng học tập bộ môn lại là học sinh
Tiểu học, việc tiếp thu kiến thức của các em con máy móc hay quên. Mỗi bài
3


học là mỗi chủ điểm phong phú và quen thuộc như bản thân, bạn bè, gia đình và
công việc hàng ngày, nhà trường và hoạt động học tập, vui chơi cũng như các
điều xảy ra trên thế giới xung quanh các em. Làm thế nào để các em nắm bắt
kiến thức, phương pháp học tập một cách say mê, hưng thú để mỗi tiết học các
em đạt được kết qủa tốt nhất là một điều rất khó? Bởi ở giai đoạn này, các em
có một bước chuyển giao quan trọng trong quá trình hoạt động của bản thân. ở
Mẫu giáo đối với các em hoạt động vui chơi là chủ yếu thì ở bậc Tiểu học hoạt
động học là chủ đạo còn hoạt động vui chơi là hoạt động phụ trợ cho hoạt động
học.Vậy phải làm thế nào để các em chiêm lĩnh được kiến thức trong mỗi chủ
điểm của bài học thì điều trước tiên tôi phải làm đó là giúp các em năm bắt
được vốn từ vựng tối thiểu trong mỗi chủ điểm của bài học. Cho nên việc tổ
chức các tiết học cung cấp từ vựng cho học sinh tiểu học rất quan trọng. Xoay
quanh các chủ điểm gần gũi, sát thực với mục đích, nhu cầu sở thích và đời
sống của học sinh, giúp các em tự giải quyết vấn đề , tự chiếm lĩnh kiến thức
mới, kết hợp với các nhân tố hợp tác nhóm, tổ, lớp vận dụng vốn từ vựng đã
được nắm bắt vào phần ngữ pháp của bài học một cách linh hoạt.
Thực tế trong một tiết học, học sinh Tiểu học chóng mệt mỏi chán nản, các
em thích chơi hơn học . Bởi vậy chúng ta cần đưa những tình huống giao tiếp,
những trò chơi thích hợp với tâm lớ gắn với nội dung học tập, xoay quanh các
chủ điểm gần gũi, sát thực với mục đích, nhu cầu sở thích và đời sống học sinh,

nhằm tạo hứng thú, say mê học tập của học sinh, các em có điều kiện củng cố
vững chắc kiến thức giúp các em tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự chiếm
lĩnh tri thức mới của bài học. Đặc biệt hình thành đồng thời cả bốn kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết ngôn ngữ tiếng Anh. Do vậy việc tổ chức trò chơi trong giờ
học từ vựng tiếng Anh nói chung và giờ học tiếng Anh của cấp tiểu học nói
riêng là rất quan trọng, nhằm giúp các em tiếp thu bài dễ dàng, nhanh hơn có ý
nghĩa to lớn đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người
Theo N. R Loror: “Sự năm vững ngôn ngữ đối với từng người là chìa khóa,
là phương tiện cho tất cả hoạt động nhận thức, là con đườngphát triển trí tuệ”.
Điều này có nghĩa là dạy Tiếng Anh trong nhà trường có mục tiêu là dạy cho
4


học sinh cách sử dụng Tiếng Anh tốt có hiệu quả.Trên thế giới hiện nay, Tiếng
Anh là ngôn ngữ giao tiếp chung, là ngôn ngữ thứ hai cho hầu hết các nước trên
thế giới. Nhờ có Tiếng Anh mà các nước trên thế giới có điều kiện giao lưu, học
hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa của các nước bạn bè. Dạy Tiếng Anh ở tiểu học
tạo cho trẻ em có năng lực sử dụng từ ngữ Tiếng Anh, hình thành ở trẻ những
hiểu biết cơ bản về Tiếng Anh và kỹ năng sử dụng Tiếng Anh thành thạo.Qua
giờ dạy Tiếng Anh tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy, hình thành cho
học sinh những tư tưởng tình cảm lành mạnh, trong sáng, hình thành cho trẻ
những phẩm chất tốt đẹp: Đó là lòng nhân ái, lòng hiếu thảo, yêu quý kính
trọng... lòng yêu nhân loại.
Xuất phát từ những lý do trên, trong năm học này tôi quyết tâm thực hiện
nghiên cứu đề tài “Phương pháp trau dồi từ vựng trong chương trình Tiếng Anh
lớp 4” với mong muốn thực hiện nhiệm vụ dạy học tiếng Anh tiểu học ( lớp 4 )
có hiệu quả tốt cùng các môn văn hoá khoa học khác hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ năm học của nhà trường, năm học 2013 – 2014.
I.2. Cơ sở Thực tiễn
Vấn đề dặt ra cho chúng ta ở đây là làm thế nào để dạy học bộ môn tiếng

Anh có hiệu quả cao, đặc biệt là trong tiết học giới thiệu về từ mới giúp người
học nắm được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... Nhưng lại có hứng thú học tập.
Thực tế hiện nay có lẽ việc dạy môn tiếng Anh ở nhà trường nói chung và
nhất là trường Tiểu học nói riêng chưa thực sự đạt kết quả cao. Vấn đề này có
nhiều nguyên nhân sâu xa và cơ bản có lẽ là do cách thức tổ chức, phối hợp các
phương pháp dạy học của người giáo viên còn lúng túng. Là môn học tự chọn
mới được đưa vào chương trình học của một số trường Tiểu học ( lớp 3, 4, 5 )
cho nên về đồ dùng cũng như sách tham khảo về cách thức giảng dạy bộ môn
còn nhiều hạn chế, đặc biệt là đối tượng học sinh vẫn còn đang củng cố và nâng
cao vốn hiểu biết của mình về ngôn ngữ mẹ đẻ. Đó là khó khăn thực sự của đội
ngũ giáo viên dạy tiếng Anh Tiểu học, đặc biệt là những giáo viên trẻ mới vào
nghề như chúng tôi.

5


Vấn đề chủ yếu là làm sao cho học sinh Tiểu học không những củng cố
được vốn ngôn ngữ mẹ đẻ mà còn có thể phát triển khả năng giao tiếp qua nghe,
nói, đọc, viết bằng tiếng Anh. Cả dân tộc đang trong thời kỳ đổi mới, hội nhập
với nền kinh tế phát triển, công nghiệp hiện đại của thế giới cho nên ngoài việc
giữ gìn bản sắc ngôn ngữ dân tộc, chúng ta còn có nhiệm vụ giúp các em đặt
nền tảng cho một ngôn ngữ phổ biến trên toàn thế giới. Hé mở cho các em sự kỳ
bí của thế giới xung quanh, tạo cho các em có ý thức khám phá tìm tòi sự phong
phú về văn hoá của ngôn ngữ mới, đó là động lực đánh thức niềm say mê học
tập bộ môn của các em.
Hiểu thì đơn giản như thế nhưng khi tổ chức để truyền thụ dến người học là
cả một vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu tìm ra biện pháp dạy học tiếng Anh là
rất cần thiết. Việc nghiên cứu dể tìm ra phương pháp trau dồi từ vựng trong dạy
học môn tiếng Anh không nằm ngoài mục tiêu đó.
Do đó người giáo viên phải có kinh nghiệm dạy học, có biện pháp cải biến

và đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường tổ chức trò chơi, các hoạt động,
các thủ thuật phù hợp với tâm lý gắn với nội dung của bài học kết hợp với tổ
chức truyền đạt kiến thức mới, ôn luyện củng cố kiến thức cũ. Đặc biệt là học
sinh tiểu học, giai đoạn đầu làm quen với ngôn ngữ mới, thì việc tạo cho các em
hứng thú say mê, tự giác học tập bộ môn là rất quan trọng. Nó là chiếc chìa
khoá vàng giúp các em mở rộng kiến thức một cách nhẹ nhàng và linh hoạt.
Đồng thời giúp các em hình thành bốn kỹ năng cơ bản nghe, nói, đọc, viết trong
việc học tiếng Anh. Vậy nên việc tổ chức trò chơi trong giờ học tiếng Anh cho
học sinh phổ thông nói chung và cho học sinh Tiểu học nói riêng là một yêu cầu
quan trọng đang được các nhà giáo dục quan tâm.
Từ những suy nghĩ trên tôi đã chọn đề tài này đi vào nghiên cứu “phương
pháp trau dồi từ vựng trong giờ học tiếng Anh của học sinh khối 4”, để khai
thác một cách hiệu quả quá trình giảng dạy sau này nhằm đưa học sinh thâm
nhập vào thế giới kỳ diệu của ngôn ngữ tiếng Anh, từ đó giáo dục cái hay, cái
đẹp, bồi đắp cho các em tư tưởng tình cảm của thế giới quan và nhân sinh quan
đúng đắn.
6


II. PHẦN NỘI DUNG
II .1 .Cải tiến phương pháp trau dồi từ vựng cho học sinh lớp 4
Xung quanh vấn đề day từ vựng nói riêng và dạy ngoại ngữ nói chung mục
đích chính là cung cấp vốn từ nhất định cho học sinh có thể giao tiếp những câu
đơn giản là không thể thiếu được. Vì vậy sau mỗi phần dạy từ và cấu trúc câu
giáo viên phải truyền đạt như thế nào để học sinh có thể nhớ nhiều nhớ lâu. Có
thể dùng từ vừa học và cấu trúc vừa học để tập đặt câu.
Do vậy người giáo viên muốn đạt kết quả cao sau mỗi tiết dạy từ vựng, phải
biết lựa chon cách thức , phương pháp với từng thể loại bài.vận dụng triệt để cả
khối lượng kiến thức học sinh đẫ học ở lớp dưới. Riêng môn tiếng anh nếu
người học, học qua rồi mà không thực hành sẽ quên ngay. Vì thế chúng ta phaỉ

thường xuyên ôn luyện
II. 2. 2. Biện pháp thực hiện cụ thể
Để hoàn thành bài tập nghiên cứu này, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng
đầu năm của bộ môn:
Like (thớch)
98 pupils

Don/t like (khụng thớch)
58 pupils

Maths (Toỏn)

95 pupils

61 pupils

English (Tiếng Anh)

66 pupils

90 pupils

Music (Hỏt nhạc)

120 pupils

36 pupils

Science (TNXH)


92 pupils

64 pupils

Subjects (cỏcmụn)
Vietnamese (Tiếng Việt)

Arts (Mĩ thuật)
100 pupils
56 pupils
Với kết quả trên tôi không khỏi băn khoăn, bởi kỹ năng học bộ môn của
các em còn rất hạn chế. Cái tồn tại và phải chú ý nhất là kỹ năng nắm bắt yếu,

7


không linh động, học còn mang tính chất chống đối vì bộ môn là môn học tự
chọn.
Đồng thời kỹ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh còn nhiều hạn chế, điều
này ảnh hưởng rất lớn đến việc học tiếng Anh, đặc biệt kỹ năng phát âm không
chuẩn của học sinh, gây khó khăn rất nhiều trong việc phát triển kỹ năng đọc
trong tiếng Anh.
Trước hết công việc tôi phải làm là phân chia đối tượng học sinh ở những
mức độ khác nhau: giỏi, khá, trung bình, yếu ở bộ môn tiếng Anh và bộ môn
tiếng Việt. Với mục đích làm sao bài giảng của mình ở những tiết học phải thể
hiện cụ thể, rõ ràng hệ thống kiến thức, và các hoạt động trò chơi gắn với nội
dung của bài phù hợp với từng đối tượng học sinh. Chính các hoạt đọng đó đã
thu hút các em nhận nhiệm vụ, tham gia tích cực chủ động chiếm lĩnh tri thức.
Để học sinh chủ động trong việc nắm chắc kiến thức của bộ môn tôi đã cho học
sinh nắm được sơ bộ chương trình môn học trong cả năm, trong học kỳ, trong

tháng, trong tuần, từ đó nên kế hoạch cá nhân cho việc giảng dạy của thầy và
trò.
II.2. Tầm quan trọng của việc tổ chức trò chơi trong một tiêt dậy từ vựng
của môn tiếng Anh lớp 4.
Để đạt được kết quả cao trong những giờ học từ vựng tôi đã sử dụng các
hình thức tổ chức trò chơi để lôi cuốn học sinh,củng cố kiến thức cho các em
.Trò chơi không chỉ là một “công cụ” dạy học mà nó là một con đường sáng
xuyên suốt quá trình học tập của học sinh. Phương pháp tổ chức trò chơi không
chỉ là đánh giá quá trình dạy và học của thầy và trò mà nó còn tạo cho học sinh
cảm giác tự tin, thoải mái, có sự sáng tạo, nhanh trí, có óc tư duy tưởng tượng
của người học sinh. Dạy kết hợp với tổ chức trò chơi chính là việc giáo viên
hướng dẫn học sinh hoàn thành tốt phẩm chất của một con người mới xã hội
chủ nghĩa.
Trò chơi là cách thức là hình thức dạy học mang lại kết quả cao. Cách thức
tổ chức trò chơi trong dạy học tiếng Anh là một yếu tố cơ bản. Nó có nhiệm vụ
cung cấp cho học sinh tính năng động, sáng tạo nhằm lôi cuốn học sinh ham mê
8


học hỏi, hiểu biết sâu hơn vấn đề, gây được hứng thú học tập cho học sinh. Trò
chơi có thể nói là một món ăn tinh thần đối với học sinh Tiểu học. Nhu cầu vui
chơi của các em rất cần thiết, trò chơi sẽ là cầu nối đưa các em từ hoạt động vui
chơi sang hoạt động học tập một cách nhẹ nhàng, từng bước tiếp nhận kiến
thức.Tạo điều kiện để các em có óc sáng tạo, tự thiết kế trò chơi phù hợp với lứa
tuổi các em. Học sinh có thể tự rèn luyện năng lực tự học của mình sao cho đạt
hiệu quả.
Ta có thể nói rằng sử dụng trò chơi trong việc trau dồi từ vựng là một sợi
chỉ đỏ xuyên xuốt trong quá trình dạy và học càng tô thêm niềm vui, sự phấn
khởi cho con người, hướng cho học sinh có trí tưởng tượng phong phú, có lòng
say mê, suy nghĩ một cách logic, hệ thống.

Xét trên quan điểm phương pháp dạy học mới thì tôi nhận thấy tổ chức trò
chơi trong dạy học tiếng Anh nói chung, và trong một giờ dạy từ vựng của phân
môn tiếng Anh nói riêng là một hình thức tổ chức dạy Học - Chơi là một biện
pháp học tập có hiệu quả của học sinh. Thông qua các trò chơi, học sinh được
làm việc cá nhân, làm việc trong đơn vị nhóm, đơn vị lớp theo sự phân công với
tinh thần hợp tác, đó là những cách làm việc thuộc phương pháp học tập mới mà
nhà trường Tiểu học cần hình thành ở người học.
Cùng với phương pháp học tập khác, phương pháp sử dụng trò chơi tạo cho
học sinh cơ hội để học bằng tự hoạt động, tự rèn luyện, củng cố kiến thức, tự
hoàn thiện kỹ năng. Hình thức trò chơi phải đa dạng, giúp học sinh luôn được
thay thế cách thức hoạt động trong lớp, phối hợp được thay đổi cách thức vận
động nhiều cơ quan và các giác quan tham gia hoạt động cùng một lúc để học
sinh có thể ngồi tại chỗ hoặc ra khỏi chỗ để chơi, có thể vừa nghe, vừa nói, vừa
viết, vừa đọc, ...
Hiện nay cách thức tổ chức trò chơi trong dạy tiếng Anh nói chung và trong
giờ dạy từ vựng của môn tiếng Anh nói riêng đã và đang được chú trọng hơn, trò
chơi hình thành thói quen học tập và các kỹ năng cũng được rèn luyện qua các
trò chơi. Nghĩa là cách thức trò chơi phải được mở đầu bằng nội dung và phân
tích tổng hợp bằng kiến thức đã được hình thành. Đó là hai mặt tồn tại song
9


song có mối quan hệ mật thiết với nhau để hướng cho học sinh hoàn thiện các
kỹ năng và nắm chắc kiến thức.
Quá trình tổ chức trò chơi yêu cầu phải hiểu và nắm rõ trò chơi gồm:
- Hiểu được nội dung trò chơi.
- Hiểu được cách thức và ý nghĩa của trò chơi.
- Hiểu được sự giáo giục kiến thức trò chơi qua bài học mang lại kết
quả gì? Không phải bất cứ học sinh nào cũng dễ dàng hiểu và tiếp thu kiến thức
qua trò chơi. Vì thế để truyền thụ kiến thức , kỹ năng qua trò chơi phải có sự bố

trí về thời gian, dung lượng của từng bài thật cụ thể.
Phương pháp dạy từ vựng kết hợp với trò chơi phải dựa trên kết quả nghiên
cứu về hình thức, nội dung về câu, về từ, về ngữ pháp hành động xây dựng nội
dung, phương pháp tổ chức. Nếu không coi trọng đúng mức thì hình thức này sẽ
mang tính tuỳ tiện không đảm bảo giờ dạy.
Ngoài ra việc sử dụng những đồ dùng trực quan và các thủ thuật của giáo
viên trong bài giới thiệu về từ mới cũng không kém phần quan trọng. Những
bức tranh, những tình huống, những hành động, những gợi ý nho nhỏ nhằm khơi
gợi dẫn dắt học sinh tiếp cận với kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, hào hứng
và tự tin.
Sau đây tôi xin trỡnh bày cụ thể một số trũ chơi trong việc dạy học tiếng Anh
tiểu học đó thể hiện được phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh tiểu học trong quá trỡnh chiếm lĩnh tri thức.
1. Trò chơi Matching
Mục đích trò chơi này nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức kiến thức bài cũ
hoặc bài mới đồng thới dẫn dắt các em đến nội dung của bài mới.
Cách tiến hành: Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm, sau đó viết các từ muốn
ôn cho học sinh cả nghĩa tiếng Anh, cả nghĩa tiếng Việt ở hai cột khác nhau
nhưng nghĩa không theo thứ tự. Sau đó yêu cầu học sinh lên nối các từ tương
ứng ở hai cột với nhau, bên nào nối được nhiếu từ mới thì bên đó thắng cuộc.
CAT

DOG
10


A

B


Chicken

A

Thịt lợn

B

- Orange juice:

Thịt bò

Fish

Chuối

- milk:

bánh

meat

thịt gà

- beef

nước cam

Banana




- hamburger

sữa

Yêu cầu học sinh nối nghĩa tương ứng ở cột A với cột B
Nếu trong 2 phút bên nào nối được nhiều đáp án đúng thì bên ấy sẽ thắng
2. Trò chơi Bingo:
Yêu cầu học sinh chọn 3 từ trong 5 từ đó viết ra giấy nháp, sau đó giáo viên
đọc 3 từ trong 5 từ không theo thứ tự , học sinh chú ý nghe. Nếu học sinh nào có
đáp án giống của giáo viên thì đứng dậy hô Bingo. Giáo viên yêu cầu học sinh
đọc lại kết quả của mình, nếu đúng học sinh đó thắng cuộc.
Ở trò chơi này tôi đã dạt được kết quả rất tốt, đã củng cố được bài cho học
sinh, rèn được kỹ năng nghe, đọc , viết đồng thời dẫn dắt các em sang phần bài
mới một cách rất hiệu quả. Các em có thể sử dụng những từ vựng vừa được
củng cố vào phần mẫu câu của bài mới.
3. Trò chơi slap the board
Mục đích rèn luyện khả năng nhận biết, rèn kỹ năng nghe đúng, nhanh.
Giáo viên ghi từ mới hoặc dán tranh lên bảng, gọi hai nhóm lên bảng, mỗi nhóm
5 học sinh. Yêu cầu các nhóm đứng cách bảng một khoảng bằng nhau. Giáo viên
hô to từ tiếng Việt nếu từ trên bảng bằng tiếng Anh và ngược lại ( nếu dùng
tranh vẽ thì hô to từ tiếng Anh). Lần lượt từng học sinh ở hai nhóm chạy lên
bảng, vỗ vào từ được gọi. Học sinh thuộc nhóm nào làm đúng và nhanh hơn thì
nhóm đó ghi điểm. Nhóm nào ghi được nhiều điểm hơn thì thắng.
4. Trò chơi Hangman
Mục đích củng cố và khắc sâu hơn những kiến thức đã được học
Giáo viên gợi ý số chữ của từ cần đoán bằng số ngạch ngắn trên bảng,
yêu cầu học sinh đoán các chữ cái có trong từ. Nếu học sinh đoán sai,
giáo viên gạch một gạch, học sinh đoán sai tám lần thì thua cuộc , giáo


11


viên giải đáp từ. Với trò chơi này, tôi đã lôi cuốn được mọi đối tượng học sinh,
các em rất hăng say và sôi nổi
5. Buzz
Học sinh nồi theo nhóm và đếm theo vòng tròn từ 1 đến 30. Khi đếm đến số
chia hết cho 3, thay vì đếm số đó học sinh nói Buzz
5

Ví dụ:

HS 1: one
HS 2: two
HS 3: Buzz…

Nếu học sinh nào mắc lỗi đếm số thay nói Buzz hoặc đếm nhầm số thì trò
chơi phải bắt đầu lại. Nhóm nào đếm trôi chảy từ 1 đến 30 mà không mắc lỗi và
hoàn thành trò chơi sớm nhất là chiến thắng.
Ở trò chơi này tôi đã phát huy được tinh thần tập thể ở các em, các em trong
nhóm có tinh thần tự giác, giúp đỡ nhau.
6. What and Where
Giáo viên vẽ các vòng tròn to lên bảng,tương ứng với lượng từ vừa dạy.
Viết từ vào các vòng tròn, cho học sinh đọc lại các từ đó. Lần lượt xoá hết các từ
có sẵn trong vòng tròn, chỉ vào vòng tròn trống và yêu cầu học sinh đọc lại. Sau
đó yêu cầu học sinh viết lại các từ vào đúng vị trí vòng tròn.
Ở trò chơi này, nhằm giúp học sinh khắc sâu những kiến thức vừa được học
rèn kỹ năng nghe, đọc, viết từ đúng cho học sinh.
7, Nought and crosses.

- Kẻ chín ô vuông trên bảng
chicken
Favourite
Orange juice
Bread
rice
Banana
- Use “ I like………….”
-

Fish
Meat
A hamburger

Chia học sinh ra làm hai nhóm: một nhóm là “Nought” ( 0 ) và một

nhóm là “ Crosses” ( X ).
-

Hai nhóm lần lượt chọn từ trong các ô và đặt câu với từ đó. VD: My

name is Hoa.
-

Nhóm nào đặt câu đúng sẽ được một “ o” hay “ X “ .
12


-


Nhóm nào có ba “O” hoặc “X” trên một hàng ngang, dọc hoặc chéo sẽ

thắng cuộc.
- Sau phần kiểm tra bài cũ là phần giới thiệu bài mới, ở phần này tôi đặc biệt
là phần giới thiệu từ vựng của bài. Vì ở phần này giáo viên phải lựa chọn những
cách thức, những thủ thuật hữu hiệu nhất sao cho lôi cuốn được mọi đối tượng
học. Những bức tranh to, những hành động, những gợi ýnho nhỏ hoặc là những
ví dụ, những đồ vật thật....đặc biệt lôi cuốn sự chú ý của học sinh. Các em tiếp
cận với vốn từ mới một cách nhẹ nhàng và hứng thú
II. 3. Tầm quan trọng của hệ thống bài tập trong việc trau dồi từ vựng
trong giảng dạy tiếng Anh lớp 4.
Sau mỗi phần bài dạy, hệ thống bài tập dùng để cho học sinh luyện theo tôi
là rất quan trọng. Để giúp học sinh khắc sâu được những vốn từ đó học đồng
thời giúp học sinh nắm được cách sử dụng linh động những từ vựng đó vào mẫu
câu chính của bài. Ngoài những hệ thống bài tập ở lớp của các em, tôi thường
cho các em làm thêm bộ bài tập tự luyện Olympic tiếng Anh. Trong bộ bài tập
này cú một số hỡnh thức bài tập rất hay giỳp cỏc em mỏ rộng và khắc sõu vốn từ
của mỡnh như: Leave out, Cool pair matching, Safe driving. Defeat the
goalkeeper, Fill in the blank...
Việc cho học sinh giải tiếng Anh trên mạng cũng góp phần đáng kể trong
việc khuyến khích các em, hệ thống bài tập như những trũ chơi lôi cuốn các em.
Làm bài tập qua hệ thống bài tập như trên mạng tôi thấy các em rất say me, các
em vùa chơi vừa học và phân cho điểm sau mỗi bài tập đó rất khuyến khớch cỏc
em. Làm nhiều tôi thấy các em tự tin hơn, biết sử dụng vốn từ đó được học vào
phần bài tập, ngoài ra các em cũn tớch lũy thờm được những vốn từ ngoài
chương trỡnh học.
II.4. Cách tiến hành giờ dạy cũng góp phần đáng kể trong những giờ học
từ vựng.
Một số cách tiến hành giờ dạy phổ biến như sau:
+ Với giờ dạy từ vựng: Giáo viên cho học sinh đọc to từ mới, giảI thích nghĩa

của từ. Giáo viên làm mẫu với từ vừa học.
13


+ Với giờ ngữ pháp: giáo viên giảI thích, giới thiệu cấu trúc mới, sau đó học
sinh làm bài tập theo cấu trúc vừa học.
+ Với giờ dạy bài khoá
- Học sinh đọc đồng thanh theo giáo viên. Giáo viên giảng từ, cấu trúc
nếu có. Học sinh làm ví dụ với từ mới đó. Học sinh trả lời câu hỏi về bài khoá,
kể lại nội dung bài khoá - học sinh nhận xét và sửa lỗi, Giáo viên kết hợp cho
bài tập về nhà.
- Ở những giờ dạy như trên, tất cả mọi cố gắng của thầy làm sao hoàn thành
hết các mục có sẵn trong sách giao khoa, hiểu và thuộc bài khoá, khi các công
việc này được hoàn thành có nghĩa là học sinh đọc trôi chảy bài khoá. Nói lại
được nội dung bài khoá, làm đúng bài tập, đặt đúng loại câu theo đúng dạng câu
hỏi (không nhất thiết để hỏi). Nếu được từ Anh – Việt tương đương ….Người
thầy sẽ cảm thấy hài lòng với giờ dạy của minh và cho rằng giờ dạy đã thành
công.
- Tuy nhiên nếu xem xét lại thực chất kết quả của sự hoàn thành đó qua một
vài bài kiểm tra khả năng ứng dụng ngữ liệu vừa học của học sinh bằng cách
tách ngữ liệu ra khỏi bài học trong sách đưa chúng vào tình huống mới. Yêu cầu
học sinh nghe hiểu và đọc hiểu hay sử dụng chúng trong các tình huống tương
tự… Rất có kết quả sẽ không được như người thầy mong muốn, sẽ không phải
lúc nào cũng trôi chảy như những gì diễn ra trên lớp.
VD: Nếu tra từ điển có thể hiểu được nghĩa của từ dễ dàng song không phải
như vậy người học sẽ biết cách sử dụng chúng. Cách sử dụng chúng phụ thuộc
rất nhiều vào ngữ cảnh, vào thói quen của người bản ngữvà các mối quan hệ
cùng môi trường văn hoá xã hội. Cách sử dụnh ngữ liệu này chỉ có thể được hiểu
rõ khi chúng được giới thiệu trong ngư cảnh, đúng tình huống mà người bản ngữ
sử dụng.

1.Tạo ngữ cảnh tình huống.
- Lớp học: bàn ghế, thầy, trò, dụng cụ học tập.
- Trường học: phòng học, cầu thang, phòng ban, thư viện, giáo viên,
sân trường, vườn cây…
14


2. Sử dụng đời sống trong gia đình, bạn bè của học sinh.
- Nghề nghiệp của những người trong gia đình, hoàn cảnh gia đình
II.4.1.Vào bài ( Warm up/ Lead in);
Để giờ dạy đạt kết quả tốt tôi đặc biêt quan tâm đến việc hướng dẫn
học sinh học bài ở nhà, yêu cầu học sinh trước hết phải nắm được nội dung kiến
thức của bài cũ, hướng dẫn cho các em một số trò chơi gắn với nội dung bài học
mà các em có thể vận dụng để thực hành theo cặp, theo nhóm. Khuyến khích
phong trào học nhóm của các em, có những hình thức khuyến khích những em
đạt được kết quả cao trong học tập bộ môn như hoa điểm mười…
Muốn đạt được kết quả cao trong một giờ dạy từ vựng điều tôi đặc biệt
quan tâm đó là phần mở đầu củng cố bài cũ cho học sinh thông qua các trò chơi
như Bingo, Matching, Jumble word, slap the board. Với những hình thức trò
chơi trên tôi có thể hướng tới mọi đối tượng học sinh, giúp các em luyện kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết và thông qua trò chơi này mục đích chính của tôi là
khắc sâu kiến thức cho học sinh, đồng thời dẫn dắt các em vào nội dung bài mới
một cách tự nhiên. Với hình thức vào bài như vậy, đã giúp tôi thành công rất
nhiều trong chuyên môn. Đã tạo sự lôi cuốn mọi đối tượng học sinh, các em
hăng say, sôi nổi hơn và sáng tạo hơn trong việc học tập bộ môn.
II.4.2. Giới thiệu ngữ liệu mới ( Presentation)
Ngữ nghĩa và cách sử dụng: Để làm tốt việc giới thiệu ngữ liệu theo yêu cầu
đặt ra cần phân biệt rõ ngữ nghiã và cách sử dụng. Ngữ pháp và nghĩa của từ
chúng được sử dụng như thế nào là hai vấn đề khác biệt.
II.5. Tầm quan trọng của việc soạn giỏo ỏn trong việc trau dồi từ vựng

cho học sinh
II. 5.1. Soạn giáo án: Soạn giáo án hay nói một cách khác là thiết lập một
bài dạy là công việc rất gần gũi và thiết thực với người giáo viên. Việc thiết lập
một bài lên lớp bao giờ người giáo viên cũng phải biết mình định làm gì, dạy
gì, và làm như thế nào trong một bài dạy đó. Mục đích ý đồ và nội dung các
bước thực hiện thực chất chính là “ Giáo án của giáo viên” . Việc thiết lập được
15


một bài lên lớp có hiệu quả phụ thuộc trước hết vào việc nắm vững một cách
tổng hợp những phương pháp và thủ thuật để thực hiện bài dạy đó. Tuy nhiên,
cho dù giáo án được trình bày như thế nào và thể hiện phương pháp thủ thuật
nào, vẫn có một số quy định chung khi tiến hành giờ lên lớp. Có thể nói, một
giờ dạy học có hiệu quả cần đạt những yêu cầu sau:
- Bằng một hoạt động mở bài, vào bài, ổn định lớp, đồng thời chuẩn
bị tâm lý và kiến thức cho học sinh vào bài mới.
- Làm rõ mục tiêu của bài .
- Ngữ liệu mới phải giới thiệu rõ ràng trong giờ ngữ cảnh và luyện
tập ngay bằng những bài luyện tập nhanh
- Mọi giải thích hướng dẫn phải rõ ràng không gây nhầm lẫn.
- Tạo được nhiều cơ hội thực hành mang tính tích cực cho học sinh
trong lớp.
- Các câu hởi của giáo viên thu hút được nhiều học sinh trả lời.
- Luôn có hướng dẫn của các bài ở giai đoạn đầu
- Luôn kiểm tra được mức độ hiểu bài của học sinh
- Giáo viên có nhận xét góp ý kịp thời và sửa chữa lỗi có hệ thống.
Thông thường một giáo án bao gồm những phần chủ yếu sau
1. Mục tiêu bài học
2. Trọng tâm ngữ liệu.
3. Giáo cụ trực quan sẽ sử dụng.

4. Các bước tiến hành: Bao gồm các hoạt động, cách tiến hành cụ thể
cho từng bước, có kèm theo phân bổ thời gian: dự đoán các khả
năng các vấn đề sẽ xảy ra( khó khăn, thắc mắc của học sinh, tốc
độ thực hiện và cách sử trí) những bài tập dự phòng để thế trong
những trường hợp cần thiết.
Nói tóm lại, giáo án, cũng như phương pháp dạy học của người thầy là một
nghệ thuật mang tính cá nhân, thể hiện phương pháp day học của cá nhân người
thầy giáo và nhằm phục vụ hỗ trợ cho chính người thầy khi lên lớp
II. 5. 2. Mô tả giờ dạy
16


Muốn đạt kết quả cao trong một bài dạy , đặc biêt là một bài dạy từ vựng
điều quan trọng nhất là tôi phải lựa chọn những hình thức trò chơi, những hoạt
sao cho tôi có thể
Thu hút được sự chú ý của mọi đối tượng học sinh. Xác định đúng nội dung, thể
loại từ vựng. Từ các hình thức trò chơi tôi ,các đồ dùng trực quan, các thủ thuật
của giáo viên có thể củng cố kiến thức của bài cũ đồng thời dẫn dắt các em vào
phần bài mới một cách nhẹ nhàng tự nhiên. Ngoài ra còn giúp các em phát triển
kỹ năng nghe, nói, đọc, viết vốn từ đã được học để áp dụng vào phần ngữ pháp
thực hành, giao tiếp. Trong một bài dạy từ mới, hoạt động đầu tiên là tôi củng cố
bài cho học sinh thông qua các trò chơi Bingo, Matching, Jumble word, Slap the
board. ở hoạt động này tôi hướng tới mọi đối tượng học sinh, giúp các em luyện
kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và thông qua trò chơi này mục đích chính của tôi là
khắc sâu kiến thức cho học sinh, đồng thời dẫn dắt các em vào phần bài mới, các
em hăng say hơn chủ động và sáng tạo hơn trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Phần chuẩn bị bài học, mục đích chính của tổi trong tiết dạy là giúp học sinh
nắm bắt được một số từ vựng. Đồ dùng giảng dạy của tôi chuẩn bị thường là
những bức tranh được phóng to từ sách giáo khoa và hệ thống câu hỏi gợi mở
với mức độ cao dần từ đơn giản đến phức tạp sao cho phù hợp với từng đối

tượng học sinh hay những thủ thuật nho nhỏ. Hệ thống câu hỏi là phần tôi thấy
khó nhất, từ những câu hỏi gợi mở đơn giản, tôi cố gắng dẫn dắt các em đến
phần trọng tâm của bài một cách logic. Cùng với việc sử dụng triệt để đồ dùng
day học, và các hình thức tổ chức trò chơi, kết quả đạt được trong các tiết dạy là
các em đã nắm được kiến thức trọng tâm của bài.
Sau khi giới thiệu được toàn bộ số từ vựng mà tôi sẽ cung cấp trong một tiết
dạy. Tôi đọc mẫu từng từ và yêu cầu học sinh đọc đồng thanh theo khoảng 3 lần.
Say đó tôi chia lớp thành hai nhóm và yêu cầu: Nhóm 1: Đọc – Nhóm hai nghe
và ngược lại. Trong khi nghe nhóm nọ phải phát hiện lỗi phát âm sai của nhóm
kia, giáo viên đóng vai trò là trọng tài đồng thời giúp cho các em luyện lại các từ
đã đọc sai một cách triệt để nhất. Sau hoạt động này tôi yêu cầu các em đọc cá
nhân, đây là lúc tôi có điều kiện sửa lỗi cho các em một cách tỉ mỉ hơn. khi các
17


en về cơ bản đã đọc được tôi chuyển sang phần luyện viết cho các em, ở phần
này tôi đã sắp xếp các em luyện theo cặp – hình thức đôi bạn cùng tiến. Học sinh
1 - đọc, học sinh 2 – viết và ngược lại, các em phải tự kèm bạn trong nhóm của
mình khi kiểm tra sẽ lấy điểm kiểm tra của nhóm và chia đôi lấy điểm trung
bình cho cả nhóm. Tôi đã rất thành công , các em đã rất có trách nhiệm với
nhóm của mình kết của học tập đạt được của các em có rất nhiều tiến bộ. Hình
thức kiểm tra cho phần này, tôi sử dụng trò chơi Jumble Word, tôi cho một số từ
có các chữ bị xáo chộn lên bảng, yêu cầu học sinh xếp lại các chữ thành từ có
nghĩa ra giấy nháp, sau đó tôi thu theo cặp và chấm điểm. Bước tiếp theo là hình
thức đòi hỏi các em phải tập trung cao độ hơn, tôi tổ chức cho các em chơi trò
chơi Rub out and remember. Tôi cho các em đọc từ mới đồng thời thực hiện
hình thức xoá dần bảng phần tiếng Anh. Sau đó xoá hết phần bảng tiếng Anh, tôi
yêu cầu các em nhìn vào phần tiếng Việt đọc Tiếng Anh đồng thanh và các
nhân. Đối với học sinh kém hơn tôi có thể gợi ý nhưng trường này không nhiều,
hầu hết các em nắm được bài.


18


III. KẾT QUẢ NGHIấN CỨU
Suốt năm học qua về phía bản thân tôi không ngừng nỗ lực, phấn đấu tích
cực học hỏi đồng nghiệp trong và ngoài trường với một mục đích làm thế nào để
có phương pháp học tập hữu hiệu đối với bộ môn đồng thời giúp học sinh hứng
thú say mê học tập bộ môn. Mặt khác học sinh có ý thức rèn luyện kỹ năng học
tập bộ môn
Anh văn là cơ sở các em có được hiệu quả tốt trong học tập. Khối lớp 4 tôi được
nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy bộ môn Anh văn đã đem lại kết quả
tốt. Tất cả không học sinh nào xếp loại học lực yếu, 100% học sinh đạt loại
trung bình trở lên, số học sinh giỏi cũng tăng lên đáng kể
Kết quả trên là công sức của tập thể trường, của đội ngũ giáo viên đoàn kết
và quyết tâm cao, là sự cố gắng học tập của học sinh trong đó có một phần đóng
góp tích cực của bản thân tôi.
Trong năm học tới, bản thân tôi phải cố gắng hơn nữa. Vì kết quả đạt được
ở trên chưa phải là mỹ mãn. Phải dạy tốt hơn nữa góp phần cùng với các bộ môn
của trường đào tạo nhân cách học sinh- những chủ nhân tương lai của đất nước
có đủ tài đức đảm nhận nhiệm vụ cách mạng dân tộc to lớn.

19


IV. PHẦN KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu nghiên cứu lí thuyết về việc tìm hiểu việc dạy tiếng Anh
nói chung và tiếng Anh tiểu học nói riêng cùng với việc htực nghiệm giảng dạy
bộ môn.
Tôi thấy việc tổ chức trò chơi, các đồ dùng trực quan, ác thủ thuật trong

giảng dạy của giáo viên trong dạy học tiếng Anh Tiểu học là cực kỳ quan
trọng… Nó không chỉ giúp học sinh có hứng thú ham mê học tập mà còn giúp
các em nắm vững kiến thức một cách nhanh nhạy, thông qua trò các hình thức tổ
chức đó sinh củng cố lại kiến thức cũ nhưng cũng không có cảm giác nhàm
chán. Các em cảm thấy tự tin hơn, bạo dạn hơn khi được tham gia vào các trò
chơi học tập. Từ đó các em có thể mạnh dạn đề suất ý kiến của mình trong giờ
học, giúp cho không khí lớp học sôi nổi không bị căng thẳng gò bó, phù hợp với
đặc điểm sinh lý của học sinh “ học mà chơi chơi mà học”.
Trong giờ học Tiếng Anh nếu ta không áp dụng linh hoạt các phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học đa dạng, phong phú sẽ dễ làm cho học sinh mệt
mỏi, uể oải dẫn đến tiếp thu bài chậm.

20


Thực tế đa số trong một giờ học sự tập trung chú ý của học sinh Tiểu học
chủ yếu chỉ tập trung ở một số học sinh khá giỏi, còn lại số học sinh trung bình,
yếu thường chú ý vào bài ở phần đầu tiết học , càng về cuối tiết học càng thấy
chán học và có khi còn làm việc riêng trong giờ học nếu không có gì hấp dẫn
các em. Từ thực tế này cho ta thấy rõ việc lồng trò chơi vào, các đồ dùng trực
quan trong một giờ học tiếng Anh tiểu học là hết sức cần thiết, nó không chỉ
đem lại sự hứng thú cho các em học khá giỏi mà còn tạo cảm giác thoải mái cho
những em học sinh yếu kém và từ đó các em cảm thấy yêu thích môn học hơn.
Về phần giáo viên, phải có kế hoạch cụ thể tỉ mỉ về chuyên đề lựa chọn, lên
kế hoạch rõ ràng trong từng đợt dặc biệt chú ý đến kết quả của học sinh, từ đó có
phương hướng làm việc tiếp theo, phát huy tính tích cực, giải quyết những tồn
tại.
Thường xuyên kiển tra động viên phát hiện kịp thời về kết quả học tập của
học sinh để động viên, khích lệ, gợi hứng thú học tập
Trong giờ học thầy phải tạo điều kiện cho tất cả các đối tượng học sinh

được bộc lộ ý kiến của mình. Tổ chức cho học sinh được tranh luận, được tham
gia một cách tích cực trong giờ học. Chú ý những tồn tại của học sinh để có
những biện pháp tốt trong giờ dạy.
Chú ý hướng cho học sinh sử dụng sách giáo khoa, đặc biệt phải sử dụng tối
đa, sáng tạo đồ dùng dạy học.
Người thầy phải có sự hăng say yêu nghề mến trẻ sâu sắc, lao động tích
cực , sáng tạo, quyết tâm cao trong công việc. Phải khiêm tốn học hỏi đồng
nghiệp sách vở…
Trên đây là những việc làm cụ thể của bản thân tôi trong những năm học
qua. Tôi hy vọng với sự tham gia góp ý kiến của các đồng nghiệp xa gần, để
cùng có một phương pháp thống nhất về giảng dạy bộ môn tiếng Anh ở cấp Tiểu
học, cùng với các bộ môn văn hóa khác góp phần làm tốt sự nghiệp Cách Mạng
Giáo dục - Đảng và Nhân dân tin tưởng giao cho.

21


V. KIẾN NGHỊ
Là một giáo viên trẻ giảng dạy môn Anh văn ở cấp Tiểu học, tôi kính
mong lãnh đạo quan tâm hơn nữa đến tài liệu sách tham khảo và đồ dùng học
tập bộ môn như băng, đài.
Tổ chức các lớp bồi dưỡng mang tính chất chuyên sâu, và có hệ thống hơn
nữa Cho đội ngũ giáo viên dạy tiếng Anh Tiểu học
Cuối cùng tôi xin trân thành cảm ơn.
Quyết Thắng, ngày20 tháng 11 năm
2014
Người thực hiện

Nguyễn Thị Hiền


22


IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghiên cứu sách giáo viên, sách giáo khoa, vở bài tập tiếng Anh lớp 4
2. Nghiên cứu tài liệu về phương pháp dạy học tiếng Anh ở trường Tiểu
học, tài liệu về phương pháp tổ chức trò chơi trong dạy học tiếng Anh
3. Nghiên cứu về hệ thống kiến thức trong tiếng Anh Tiểu học.
4. Giáo trình tiếng Anh Let’ go - NXB OXFORD . Gồm sách giáo viên và
học sinh

23


MỤC LỤC
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
I.1. Cơ sở lí luận
I.2. Cơ sở thực tiễn
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Mục đích nghiên cứu và yêu cầu môn tiếng Anh tiêu học
II.2. Tầm quan trọng của việc tổ chức trũ chơi trong một tiết dạy từ
vựng môn tiếng Anh lớp 4.
II.3. Tầm quan trọng của hệ thống bài tập trong việc trau dồi từ vựng
trong giảng dạy tiếng Anh lớp 4.
II.4. Cách tiến hành giờ dạy cũng góp phần đáng kể trong những giờ
học từ vựng.
II.4.1. Vào bài
II.1.2. Giới thiệu ngữ liệu mới
II.5. Tầm quan trọng của việc soạn giỏo ỏn trong việc trau dồi từ vựng
cho học sinh.

II.5.1. Soạn giỏo ỏn
II.5.2. Mụ tả giờ dạy
III. KẾT QUẢ NGHIấN CỨU
IV. PHẦN KẾT LUẬN
24


V. ĐỀ NGHỊ
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
VII. MUC LỤC

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
........................................

25


×