Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

phân tích mức độ tích cực trong hoạt động của học sinh trong hai mô hình dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.81 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ VĂN HỮU PHÚ
MSSV: 35604022

−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Hãy phân tích mức độ tích cực trong hoạt động của học
sinh trong hai mô hình dạy học sau:
Mô hình 1: Thầy dùng phương pháp thuyết giảng là chính,
soạn bài kỹ lưỡng rồi trình bày trên lớp. Trò nghe và tự
ghi vào vở những ý cần thiết (trò phải nhận ra các điểm
chính yếu và ghi lại).
Mô hình 2: Thầy tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể trong những hình thức hoạt động do
Thầy chọn lựa, qua đó chiếm lĩnh các tri thức cần phải lĩnh
hội trong tiết học.
Anh, chị hãy đưa ra những những lý lẽ và nếu có minh họa
1 tiết giảng (một bài học) thực tế càng tốt để chứng minh
mô hình 2 đem lại hiệu quả lĩnh hội bài học nhiều hơn.
THUỘC HỌC PHẦN/MÔN
TLH SƯ PHẠM

Giảng viên

ThS. Lý Minh Tiên

Tp. Hồ Chí Minh tháng 1/2011



Mục lục
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN.........................................................1
Tp. Hồ Chí Minh tháng 1/2011...................................................................1
A. Nôôi dung.................................................................................................5
I. Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của người học....................5
1. Khái niệm tính tích cực (TTC).........................................................5
a. Về mặt thuật ngữ.........................................................................5
TTC theo tiếng Anh là Activity, tiếng Latinh là Activus đều chỉ hoạt
động của con người........................................................................5
Theo từ điển tiếng Việt 2003 có nghĩa là : + Có ý nghĩa thúc đẩy
sự phát triển + Tỏ ra chủ động tạo ra sự thay đổi, biến đổi. + Hăng
hái, tỏ ra nhiệt tình đối với nhiệm vụ công việc. Như vậy theo quan
điểm của từ điển tiếng Việt chủ yếu hiểu TTC như một tác nhân
xúc tác mọi quá trình thay đổi, biến đổi...........................................5
b. Về mặt nội hàm, khái niệm.........................................................5
TTC được biểu hiện một cách cụ thể qua hoạt động nhận thức
của con người. Trong Tâm lý học Liên Xô, TTC là một phạm trù
được quan tâm nghiên cứu một cách sâu sắc. Có nhiều quan điểm
khác nhau song các nhà TLH Liên Xô đều gặp nhau ở quan điểm
coi “ TTC gắn liền với hoạt động, như điều kiện hoàn thành hiện
thực hoá hoạt động. Thậm chí khi nêu ra ý nghĩa to lớn của TTC,
Leochiep đồng nhất TTC với hình thức cao – Hoạt động”. Tất cả
các dạng TTC ở động vật được coi như tiền sử hoạt động của con
người. Nghiên cứu của các tác giả rất đa dạng nhưng vẫn tập
trung chủ yếu ở những phương diện. - Phương diện phát sinh cá
thể TTC ở con người biểu hiện theo các mức độ khác nhau từ khi
sinh ra đến lúc lớn lên, từ bắt chước đến lúc hoạt động độc lập và
sáng tạo. Như vậy con người trong quá trình sống phải có quá
trình tự học ( chú ý chủ định, không chủ định ) nhận thức ( tính

hiếu kỳ, tò mò…) mới có thể từng bước thích ứng với hoàn cảnh
môi trường mới. Chỉ có sự thích ứng ngày càng cao, do đòi hỏi
của xã hội, cá nhân mới không bị đào thải. - Phương diện xã hội
TTC thực hiện chức năng không chỉ biểu hiện sự thích nghi của cá
thể mà còn là sự thích ứng, sự cải tạo và sáng tạo thế giới bên
ngoài của chủ thể đó.......................................................................6
2. Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh...................7
a. Định nghĩa...................................................................................7
b. Biểu hiện......................................................................................7
c. Đặc điểm......................................................................................8
d. Những nhân tố ảnh hưởng tới tích tích cực nhận thức của
người học........................................................................................8
Bản thân học sinh...........................................................................8
3. Bản chất của hoạt đôông học...........................................................9
II. Phân tích mức độ tích cực trong hoạt động của học sinh trong hai
mô hình dạy học...................................................................................10
Trang 2/17


1. Phân tích, so sánh........................................................................10
2. Các biêôn pháp phát huy tính tích cực cho người học...................14
3. Minh họa môôt tiết học chứng minh Mô hình 2 đem lại hiêôu quả lĩnh
hôôi bài học nhiều hơn! (Clip minh họa).............................................15
B. Kết luâôn sư phạm.................................................................................15
1. Lê Văn Hồng (Chủ biên). Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư
phạm. NXB ĐHQG Hà Nôôi................................................................16
2. G.S TSKH Thái Duy Tiên Viên khoa học giáo dục. Phát huy tính
tích cực nhâôn thức của người học. Được lấy về từ:.........................16
3. Th.S Nguyễn Thiết Trường CĐSP Kon Tum. Phát huy tính tích cực
của sinh viên trong Dạy – Học phần đại số tuyến tình theo chương

trình cao đẳng sư phạm mới. Được lấy về từ:..................................16
4. Tìm hiểu tính tích cực học tâôp của sinh viên năm thứ nhất ĐH
KHXH & NV TP. HCM. Được lấy về từ:.............................................16

Tài liêôu tham khảo

Trang 3/17


Trang 4/17


A. Nôôi dung

I. Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của người học
1. Khái niệm tính tích cực (TTC)
a. Về mặt thuật ngữ
 TTC theo tiếng Anh là Activity, tiếng Latinh là Activus đều chỉ hoạt động
của con người.
 Theo từ điển tiếng Việt 2003 có nghĩa là :
+ Có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển
+ Tỏ ra chủ động tạo ra sự thay đổi, biến đổi.
+ Hăng hái, tỏ ra nhiệt tình đối với nhiệm vụ công việc.
Như vậy theo quan điểm của từ điển tiếng Việt chủ yếu hiểu TTC như một
tác nhân xúc tác mọi quá trình thay đổi, biến đổi.
b. Về mặt nội hàm, khái niệm

Trang 5/17



TTC được biểu hiện một cách cụ thể qua hoạt động nhận thức của con
người. Trong Tâm lý học Liên Xô, TTC là một phạm trù được quan tâm
nghiên cứu một cách sâu sắc.
Có nhiều quan điểm khác nhau song các nhà TLH Liên Xô đều gặp nhau ở
quan điểm coi “ TTC gắn liền với hoạt động, như điều kiện hoàn thành hiện
thực hoá hoạt động. Thậm chí khi nêu ra ý nghĩa to lớn của TTC, Leochiep
đồng nhất TTC với hình thức cao – Hoạt động”. Tất cả các dạng TTC ở động
vật được coi như tiền sử hoạt động của con người. Nghiên cứu của các tác
giả rất đa dạng nhưng vẫn tập trung chủ yếu ở những phương diện.
- Phương diện phát sinh cá thể
TTC ở con người biểu hiện theo các mức độ khác nhau từ khi sinh ra đến lúc
lớn lên, từ bắt chước đến lúc hoạt động độc lập và sáng tạo. Như vậy con
người trong quá trình sống phải có quá trình tự học ( chú ý chủ định, không
chủ định ) nhận thức ( tính hiếu kỳ, tò mò…) mới có thể từng bước thích ứng
với hoàn cảnh môi trường mới. Chỉ có sự thích ứng ngày càng cao, do đòi
hỏi của xã hội, cá nhân mới không bị đào thải.
- Phương diện xã hội
TTC thực hiện chức năng không chỉ biểu hiện sự thích nghi của cá thể mà
còn là sự thích ứng, sự cải tạo và sáng tạo thế giới bên ngoài của chủ thể đó.
Cơ sở nghiên cứu trong nước
TTC cũng được các nhà TLH Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Theo từ điển Tâm
lý học – Tác giả Vũ Dũng chủ biên :
“ TTC là động lực cá nhân của các cơ thể sống với tư cách là nguồn gốc của mọi
hành động cải cách hay duy trì các mối liên hệ có ý nghĩa sống còn mà chúng tiến
hành với môi trường xung quanh. Khả năng tự phân của các cơ thể sống trở thành
“ lực lượng độc lập của phản ứng ” ( P. Angghen ). TTC là đặc điểm chung của
các cơ thể sống trong mối tương quan với hoạt động. TTC đóng vai trò là điều
kiện động lực của các quá trình hình thành thực hiện và thay đổi về loại hình của
hoạt động, nó là thuộc tính quan trọng của sự vận động nội sinh của hoạt động.
TTC được đặc trưng bởi sự chi phối mạnh mẽ của các hành động đang diễn ra,

tính đặc thù của những trạng thái bên trong của chủ thể ở thời điểm hành động,
tính quy định của mục đích hành động trong hiện tại, tính siêu hoàn cảnh ( tức sự
Trang 6/17


vượt quá giới hạn của mục đích ban đầu ) và tính bền vững tương đối của hành
động trong sự tương quan với mục đích đã thông qua ”.
Các tác giả thống nhất cho rằng TTC là quá trình 2 mặt :
* TTC tạo ra bằng hoạt động.
* TTC quay trở lại tham gia vào việc thực hiện hoạt động.
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng : “ TTC được tạo ra bằng hoạt động đồng thời
là thành tố tham gia vào việc thực hiện hoạt động”.

2. Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh
a. Định nghĩa


TTC học tập - về thực chất là TTC nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết,



cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
TTC nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập.
Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự
giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc
lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập
tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học
tập.
b. Biểu hiện




TTC học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của
giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn,
thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn
đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải
thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ
động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để
nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào
vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài
tập, không nản trước những tình huống khó khăn…



TTC học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp đến cao như:
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…

Trang 7/17


- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về
một số vấn đề…
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu
c. Đặc điểm

i. Tính tích cực của HS có mặt tự phát và mặt tự giác:
 Mặt tự phát: là những yếu tố tiềm ẩn, bẩm sinh thể hiện ở tính tò mò, hiếu kì,
hiếu động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi mà trẻ đều có ở những mức độ
khác nhau. Cần coi trọng những yếu tố tự phát này, nuôi dưỡng, phát triển
chúng trong dạy học.

 Mặt tự giác: là trạng thái tâm lí có mục đích và đối tượng rõ rệt, do đó có
hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó. TTC tự giác thể hiện ở óc quan sát,
tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học.
ii. TTC nhận thức phát sinh không chỉ từ nhu cầu nhận thức mà còn từ
nhu cầu sinh học, nhu cầu đạo đức thẩm mỹ, nhu cầu giao lưu văn
hóa... Hạt nhân cơ bản của TTC nhận thức là hoạt động tư duy của cá
nhân được tạo nên do sự thúc đẩy của hệ thống nhu cầu đa dạng.

d. Những nhân tố ảnh hưởng tới tích tích cực nhận thức của người
học.
Bản thân học sinh
 Đặc điểm hoạt động trí tuệ (tái hiện, sáng tạo...).
 Năng lực (hệ thống tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, sự trải
nghiệm cuộc sống...)
 Tình trạng sức khỏe.
 Trạng thái tâm lí (hứng thú, xúc cảm, chú ý, nhu cầu, động cơ, ý chí...).
 Điều kiện vật chất, tinh thần (thời gian, tiền của, không khí đạo đức).
 Môi trường tự nhiên, xã hội.
Nhà trường

Trang 8/17


 Chất lượng QTDH - GD (nội dung,
phương pháp, phương tiện, hình thức
kiểm tra đánh giá...).
 Quan hệ thầy trò.
 Không khí đạo đức nhà trường.

Gia đình

Xã hội
Từ đó, việc phát huy TTC của học sinh đòi hỏi một kế hoạch lâu dài và toàn diện khi
phối hợp hoạt động của gia đình, nhà trường và xã hội.

3. Bản chất của hoạt động học
1. Đối tượng của hoạt động học là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với tri
thức ấy. Có thể nói hoạt động học là một loại hoạt động ( bình đẳng với các loại hoạt
động khác ) chuyên hướng vào lĩnh hội các tri thức kỹ năng, kỹ xảo của xã hội nhờ sự
tái tạo của cá nhân. Việc tái tạo này sẽ không thực hiện được nếu người học chỉ là
khách thể bị động của những tác động sư phạm, nếu các tri thức kỹ năng kỹ xảo chỉ
truyền lại cho người học theo kiểu “đổ nước vào bình”. Trái lại muốn học có kết quả
người học phải tích cực tiến hành những hoạt động học tập chuyên biệt bằng chính khối
óc và bàn tay mình.
2. Hoạt động học là hoạt động hướng vào thay đổi chính chủ thể của hoạt động. Theo lý
thuyết của TLH hoạt động, hoạt động hướng vào làm thay đổi khách thể, trong khi đó
hoạt động học tập lại làm thay đổi chính chủ thể, còn tri thức - “ đối tượng ” của hoạt
động học lại không hề thay đổi sau khi nó bị chủ thể hoạt động chiếm lĩnh.
3. Hoạt động học là hoạt động tiếp thu lĩnh hội những nội dung và hình thức lí luận của
tri thức, kỹ năng kỹ xảo xã hội.
Trong những hoạt động khác sự tiếp thu thường diễn ra sau khi chủ thể hoàn thành một
công việc nào đó. Các hoạt động này lại thường diễn ra trong những hoàn cảnh, tình
huống giống nhau. Do đó sự tiếp thu kinh nghiệm trong hoạt động diễn ra riêng lẻ,

Trang 9/17


không có hệ thống và không được lý giải trên cơ sở khoa học.
Ngược lại với một hệ thống tri thức đồ sộ của loài người đã được chọn lọc tinh chế và
chia thành những chuyên ngành khác nhau, con người với hoạt động học một cách có ý
thức tiếp thu hệ thống tri thức này một cách chủ động có hệ thống.

Như vậy trong hoạt động học chủ thể tiếp thu hệ thống tri thức có chọn lọc và làm thay
đổi không phải là tri thức mà chính là bản thân chủ thể.
4. Hoạt động học không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
mới mà còn hướng vào việc tiếp thu những tri thức của chính bản thân hoạt động, nói
cách khác là tiếp thu được cả những phương pháp giành được tri thức đó (cách học).
Do đó trong khi tổ chức hoạt động cho học sinh, người dạy vừa phải ý thức được những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nào cần được hình thành ở học sinh, vừa phải có một quan
niệm rõ ràng thông qua tổ chức sự tiếp thu tri thức, kỹ năng kỹ xảo đó thì học sinh sẽ
lĩnh hội được cách học gì, con đường giành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó như thế nào
(nói cách khác là những tri thức về hoạt động học).

II. Phân tích mức độ tích cực trong hoạt động của học sinh trong hai
mô hình dạy học
1. Phân tích, so sánh

Mô hình 1: Thầy dùng phương pháp thuyết giảng là chính, soạn bài kỹ lưỡng rồi
trình bày trên lớp. Trò nghe rồi tự ghi vào tập (trò phải nhận ra các điểm chính
yếu và ghi lại).
Mô hình 2: Thầy tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trong
những hình thức hoạt động do thầy lựa chọn, qua đó chiếm lĩnh tri thức cần phải
lĩnh hội trong từng tiết học.
Để có thể phân tích, so sánh một các cách khoa học, chúng ta dựa vào các tiêu chí
sau:
 Đối tượng
Như chúng ta đã biết, đối tượng sẽ quy định cách thức chúng ta hành động.
Đối tượng học tập cũng vậy sẽ quy định cách thức người học chiếm lĩnh nó.
Ở mô hình thứ nhất, đối tượng chủ yếu mà người học cần chiếm lĩnh chính là những
tri thức mà người Thầy truyền đạt bằng phương pháp thuyết giảng và phương cách
để chiếm được nó chính là nghe, lọc ý chính và ghi vào vở.


Trang 10/17


Ở mô hình thứ hai, đối tượng của hoạt động học không chỉ là những tri thức mà còn
là những kỹ năng, kỹ xảo được hình thành thông qua các hoạt động do người Thầy
tổ chức, hướng dẫn. Ở đây, đối tượng học tập được thể hiện một cách đầy đủ nhất.
Phương cách để chiếm lĩnh chúng chính là người học sẽ tham gia vào những hình
thức hoạt động học tập dưới sự tổ chức, hướng dẫn của Thầy.
Giáo sư Lê Văn Hồng trong quyển Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm cũng
đã từng lên tiếng “Việc chiếm lĩnh những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo sẽ không thể
thực hiện được, nếu người học chỉ là khách thể bị động của những tác động sư
phạm, nếu như những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chỉ được truyền cho người học theo
cơ chế “máy phát” (người dạy) – “máy thu” (người học) và muốn học cho có kết
quả người học phải tích cực tiến hành các hoạt động học tập bằng chính ý thức tự
giác và năng lực trí tuệ của bản thân mình

 Tính chủ thể
Tình chủ thể của học sinh ở mô hình thứ nhất quá mờ nhạt trong khi đó tính chủ thể
của người Thầy lại khá đậm nét. Người học “ghi âm kiến thức” chắt lọc những ý
chính và ghi vào vở. Nghe – lọc ý chính và ghi, đó là công việc mà người học phải
làm ở mô hình thứ nhất này.
Cũng theo Giáo sư Lê Văn Hồng: “Trong hoạt động dạy, người Thầy không nhằm
làm nhiệm vụ sáng tạo ra tri thức mới cũng không làm nhiệm vụ tái tạo tri thức cũ
mà nhiệm vụ chủ yếu, đặc trưng là tổ chức quá trình tái tạo những tri thức đó ở
người học. Muốn làm được điều đó, cái cốt lỗi trong hoạt động dạy học là làm sao
tạo ra được tính tích cực trong hoạt động học của học sinh, làm cho các em vừa ý
thức được đối tượng cần lĩnh hội, vừa biết cách chiếm lĩnh cái lĩnh hội đó. Tính tích
cực này của học sinh quyết định chất lượng học tập”. Như vậy, có thể thấy rằng
việc khơi dậy niềm say mê, hứng thú trong học tập cho học sinh đặc biệt là khơi dậy
tính tích cực trong nhận thức là một trong những việc làm có ảnh hưởng rất lớn đến

chất lượng dạy học. Tính tích cực của học sinh ở mô hình này hầu như không hề lộ
diện. Mức độ tích cực có thể nói là rất thấp vì đa phần học sinh không ý thức được
đầy đủ đối tượng mà mình cần chiếm lĩnh trong tiết học là gì chỉ biết một điều khi
“công tắc” của người Thầy được bật lên thì “dây chuyền” học tập bắt đầu khởi
động: Thầy giảng - trò nghe - lọc ý chính - ghi vào vở.

Trang 11/17


Trong khi đó ở mô hình 2, tính chủ thể của học sinh lại được phát huy rõ rệt. Học
sinh dưới sự tổ chức của người Thầy sẽ tham gia những hoạt động học tập và qua
những hoạt động đó nội dung và mục đích học tập được lĩnh hội, chất lượng học tập
cũng ngày càng được nâng cao.
 Mục đích học tập
Mục đích học tập gắn với đối tượng của hoạt động học tập, có đối tượng của hoạt
động học tập chủ thể sẽ theo đích đó mà nhắm tới. Nói như vậy có nghĩa là mục
đích học tập của học sinh chính là chiếm lĩnh cho được những hệ thống tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo qua từng tiết học. Một điều đáng lưu ý đó là mục đích học tập chỉ bắt
đầu được hình thành khi chủ thể bắt tay vào thực hiện hành động học tập. Lúc đó
chủ thể xâm nhập vào vào đối tượng, nội dung của mục đích ngày càng được hiện
hình, lại càng định hướng cho hành động và nhờ đó chủ thể chiếm lĩnh được tri thức
mới, năng lực mới.
Như vậy, để đạt được mục đích học tập người học cần phải được phát huy tính tích
cực, chủ động của mình. Như chúng ta đã thấy:
Ở mô hình 1: mức độ tích cực của học sinh trong việc giành được những tri thức mà
người Thầy truyền dạy còn khá thấp. Có thể trong khoảng thời gian đầu, học sinh sẽ
ngồi nghe và gạn lọc những ý chính để ghi vào tập, người Thầy vẫn làm được nhiệm
vụ khơi dậy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh vì để có được tri thức
đó người học cần phải chăm chú lắng nghe, phân tích thông tin, rút ra ý chính và sau
đó ghi vào vở. Nhưng nếu như các hành động này cứ lặp đi lặp lại trong suốt tiết

học thì sẽ gây nhàm chán và việc đi được đến cùng để giành được mục đích học tập
là cả một vấn đề. Và thực sự ở mô hình này người học đang ở trong tình trạng đó!
Nghiên cứu cho thấy, người nghe chỉ có thể tập trung tốt khoảng 15 phút đầu của
buổi thuyết giảng. Nếu như người dạy không có những hoạt động khác kèm theo để
kích thích tư duy, sự chú ý nơi người học thì dễ lắm họ sẽ rơi vào trạng thái “bị gây
mê”.
Ở mô hình 2:
Mục đích chiếm lĩnh đối tượng học tập dường như không còn là chuyện quá xa vời
vì thông qua những hình thức hoạt động do người Thầy tổ chức, hướng dẫn, việc
lĩnh hội hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nơi người học đã trở nên khá dễ dàng.
Mức độ tích cực của người học trong mô hình này ở mức cao hơn so với mô hình
trước, vì muốn chiếm lĩnh được đối tượng dạy học, người học bắt buộc phải tham
gia vào những hình thức hoạt động trên lớp do Thầy tổ chức, hướng dẫn. Tính tích
Trang 12/17


cực còn được khơi mào từ những hình thức hoạt động đa dạng, mới lạ và không khí
của lớp học. Người học không chỉ có thể hiểu được nội dung tri thức một cách dễ
dàng, sâu sắc mà còn có thể phát hiện ra hay giành lấy được phương cách để có
được nội dung tri thức đó.
 Động cơ học tập
Như đã trình bày ở trên, tính tích cực nhận thức liên quan mật thiết đến động cơ học
tập. Có một động cơ học tập đúng đắn sẽ thúc đẩy hoạt động học tập tiến được
những bước xa hơn.
Động cơ học tập được thể hiện ở đối tượng của hoạt động học, tức là những tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, giá trị, chuẩn mực…mà giáo dục mang lại cho người học.
Việc xây dựng động cơ hết sức muôn hình muôn vẻ và rộng lớn. Muốn phát động
được động cơ học tập, trước hết cần khơi dậy mạnh mẽ ở các em nhu cầu nhận thức,
nhu cầu chiếm


lĩnh đối tượng học

tập – vì nhu cầu

là nơi khơi nguồn

của tính tư

giác, tích tích cưc

hoạt động.
Nhưng làm sao

để khơi dậy mạnh

mẽ được nhu

cầu học tập nơi học

sinh ? Nếu

trong dạy học, thầy

luôn luôn thành

công trong việc tổ

chức cho học sinh tự phát hiện ra những điều mới lạ (cả bản thân tri thức lẫn cách
thức giành được tri thức đó), giải quyết thông minh các nhiệm vụ học tập, tạo ra
được những ấn tượng tốt đẹp với việc học tập thì dần dần làm nảy sinh nhu cầu của

các em đối với tri thức khoa học. Học tập dần dần trở thành nhu cầu không thể thiếu
được của các em.
Nếu theo quan điểm này thì xem ra mô hình thứ hai lại một lần nữa ăn điểm!
Phương thức giảng dạy thông qua những hình thức hoạt động mà người Thầy tổ
chức, hướng dẫn học sinh thực hiện có tác dụng rất lớn trong việc khơi dậy nhu cầu
học tập nơi các em. Mà khi nhu cầu được khơi dậy thì tính tích cực sẽ được phát
huy, mức độ tích cực trong học tập cũng từ đó tăng lên và chất lượng học tập cũng
sẽ song hành cùng tiến trình ấy.
Nhìn lại mô hình 1, người Thầy ở đây đang làm nhiệm vụ chuyên chở kiến thức đến
“bỏ mối” cho học sinh, và người học trở thành “bạn hàng” bất đắc dĩ của người
Thầy. Nhu cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng chẳng được hình thành mà
lại nảy sinh ra những nhu cầu khác như nhu cầu có được giáo án để đỡ chép mỏi tay,
nhu cầu được “giải phóng”, được tiết lộ xem nội dung kiến thức ngày hôm nay có
Trang 13/17


nằm trong bài kiểm tra sắp tới... Mặc dù, người Thầy đã chuẩn bị rất kỹ càng cho
phần thuyết giảng của mình nhưng cái chúng ta cần đó là người Thầy đã làm được
gì để tạo ra một động lực học tập đúng đắn nơi học sinh, trước mắt là một nhu cầu
nhận thức nơi người học. Ở mô hình dạy học này, người Thầy đã chưa làm tốt được
yêu cầu đó và nó kéo theo sự tụt dốc của mức độ tích cực nơi học sinh.
Từ những phân tích trên, dựa theo các tiêu chí để so sánh mức độ tích cực của học
sinh trong hai mô hình dạy học như phương cách giành được đối tượng học tập, sự
phát huy tính chủ thể của người học, sự chiếm lĩnh mục đích học tập và việc tạo ra
một động cơ học tập đúng đắn, chúng ta đều thấy được rằng Mô hình 2 tạo ra được
mức độ tích cực nhiều hơn cho người học và vì thế mà hiệu quả lĩnh hội bài học
cũng cao hơn nhiều so với Mô hình 1.
2. Các biện pháp phát huy tính tích cực cho người học
Các biện pháp nâng cao TTC nhận thức của HS trong giờ lên lớp được phản ánh trong
các công trình xưa và nay có thể tóm tắt như sau:



Nói lên ý nghĩa lí thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu.



Nội dung dạy học phải mới, nhưng không qúa xa lạ với HS mà cái mới phải liên
hệ, phát triển cái cũ và có khả năng áp dụng trong tương lai. Kiến thức phải có
tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt, suy nghĩ hàng ngày, thỏa mãn nhu cầu nhận
thức của học sinh.



Phải dùng các phương pháp đa dạng: nêu vấn đề, thí nghiệm, thực hành, so sánh,
tổ chức thảo luận, sêmina và phối hợp chúng với nhau.



Kiến thức phải được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu thuẫn với
nhau, tập trung vào những vấn đề then chốt, có lúc diễn ra một cách đột ngột, bất
ngờ.



Sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại.



Sử dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau: cá nhân, nhóm, tập thể, tham
quan, làm việc trong vườn trường, phòng thí nghiệm.




Luyện tập, vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong các tình huống mới.



Thường xuyên kiểm tra đánh giá, khen thưởng và kỉ luật kịp thời, đúng mức.



Kích thích TTC qua thái độ, cách ứng xử giữa giáo viên và học sinh.

Trang 14/17




Phát triển kinh nghiệm sống của học sinh trong học tập qua các phương tiện
thông tin đại chúng và các hoạt động xã hội.



Tạo không khí đạo đức lành mạnh trong lớp, trong trường, tôn vinh sự học nói
chung và biểu dương những học sinh có thành tích học tập tốt.



Có sự động viên, khen thưởng từ phía gia đình và xã hội.


Trong thời gian tới nên điều chỉnh công tác nghiên cứu và chỉ đạo vấn đề TTC hóa hoạt
động nhận thức của HS theo một số hướng cơ bản sau:


Nghiên cứu phương pháp nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức sáng tạo chứ
không dừng lại mức độ tái hiện như hiện nay.



Phát huy sức mạnh bản chất của người học, mà theo K.Mark đó là: trí tuệ, tâm
hồn và ý chí. Đặc biệt là sức mạnh tâm hồn (hứng thú, xúc cảm...) là điều lâu
nay chưa được chú ý đúng mức.



Phối hợp chặt chẽ và khoa học hơn nữa giữa các thầy giáo, các nhà quản lí, các
nhà văn hóa và phụ huynh học sinh.

3. Minh họa một tiết học chứng minh Mô hình 2 đem lại hiệu quả lĩnh hội
bài học nhiều hơn! (Clip minh họa)

B. Kết luâôn sư phạm
Qua việc phân tích và so sánh mức độ tích cực trong hoạt động của học sinh
ở hai mô hình dạy học trên, chúng ta đều thấy được những ưu điểm cần phát
huy ở mô hình dạy học thứ hai và những hạn chế cần khắc phục ở mô hình
dạy học thứ nhất. Cái cần phát huy ở đây chính là phương cách tạo được
niềm say mê, hứng thú trong học tập cho học sinh hay nói rõ ra đó là tính
tích cực trong nhận thức và điều cần khắc phục chính là phương pháp giảng
dạy của người Thầy. Thật ra, việc sử dụng phương pháp thuyết giảng trong
giảng dạy không nên xem đó là hạn chế nhưng nếu như người Thầy chọn nó

làm phương pháp chủ đạo để truyền đạt kiến thức cho người học trong hầu
Trang 15/17


hết các tiết dạy thì đó mới là chuyện đáng bàn. Liệu chỉ với phương pháp
thuyết giảng, người Thầy có thể làm cho học sinh của mình lĩnh hội được
đầy đủ những kiến thức, thông tin và bên cạnh đó còn thêm những kỹ năng,
kỹ xảo cần thiết, đó là chưa kể đến việc học sinh có trụ nổi đến cùng để
giành được những tri thức đó hay không. Phương pháp dạy học mới, phát
huy tính tính cực nơi người học không phải là phương pháp vạn năng nhưng
ít ra nó cũng có thể làm tốt được yêu cầu đó. Cái người dạy cần, bây giờ là
đừng làm thay cho học sinh những chuyện mà học sinh có thể làm vì cái gì
người người học nghe thì họ quên, khi nhìn thì họ nhớ còn khi làm thì họ
hiểu. Sự hiểu mới là đích nhắm cuối cùng của một mũi tên!

Tài liê êu tham khảo

1. Lê Văn Hồng (Chủ biên). Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm. NXB
ĐHQG Hà Nội.

2. G.S TSKH Thái Duy Tiên Viên khoa học giáo dục. Phát huy tính tích cưc
nhận thức của người học. Được lấy về từ:
/>
3. Th.S Nguyễn Thiết Trường CĐSP Kon Tum. Phát huy tính tích cưc của sinh
viên trong Dạy – Học phần đại số tuyến tình theo chương trình cao đẳng sư
phạm mới. Được lấy về từ:
www.qtttc.edu.vn/index.php?option=com_docman&task

4. Tìm hiểu tính tích cưc học tập của sinh viên năm thứ nhất ĐH KHXH & NV
TP. HCM. Được lấy về từ:

http:// kilobooks.com/.../6805-Tìm-hiểu-tính-tích-cực-học-tập-củasinh-viên-năm-thứ-nhất--Đại-học-Khoa-học-xã-hội-và-Nhân-văn

Trang 16/17


Trang 17/17



×