Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.86 KB, 9 trang )

Quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn là một trong ba
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là quy
luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy
vật trong triết học Mác - Lênin, là hạt nhân của phép
biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực
của sự vận động, phát triển, theo đó nguồn gốc của sự
phát triển chính là mâu thuẫn và việc giải quyết mâu
thuẫn nội tại trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng.

1. Các nhân tố chính
a. Các mặt đối lập
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc
tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược
nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến
trong thế giới. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì
tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng
những mặt trái ngược nhau. Ví dụ như: Trong nguyên
tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng
hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và
tiền. Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy
vật gọi là mặt đối lập.

b. Mâu thuẫn biện chứng
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau theo hướng trái ngược nhau, xung đột lẫn
nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Theo triết học
duy vật biện chứng của Engels thì mâu thuẫn biện


chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự


nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư
duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn
gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng
không phải là ngẫu nhiên, chủ quan, cũng không phải là
mâu thuẫn trong lôgic hình thức. Mâu thuẫn trong lôgich
hình thức là sai lầm trong tư duy.

c. Sự thống nhất
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại
trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các
mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách
rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này
phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các mặt đối
lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ
cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố
giống nhau đó gọi là sự "đồng nhất" của các mặt đối lập.
Với ý nghĩa đó," sự thống nhất của các mặt đối lập" còn
bao hàm cả sự " đồng nhất" của các mặt đó. Engels đã
đưa ra ví dụ:
“ Giai cấp vô sản và sự giàu có là hai mặt đối lập,
với tính cách như vậy chúng hợp thành một chỉnh
thể hoàn chỉnh, thống nhất, chế độ tư hữu với tư
cách là sự giàu có buộc phải duy trì vĩnh viễn
ngay cả sự tồn tại của mặt đối lập của nó là giai
cấp vô sản

— Engels[2]

Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự
triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt
đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự thống nhất của
các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau
của chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu


thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân
bằng của các mặt đối lập.

d. Sự đấu tranh
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn "đấu
tranh" với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác
động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau
giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh của các mặt đối
lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất,
vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều
kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.

2. Nội dung quy luật
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt,
những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu
thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và
phát triển, làm cho cái cũ mất đi cái mới ra đời.

a.Thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa







Sự thống nhất: Sự thống nhất của các mặt đối lập:
Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, đòi
hỏi có nhau, nương tựa vào nhau của các mặt đối
lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Là sự đồng nhất của các mặt đối lập; là sự tác động
ngang nhau của các mặt đối lập.
Đấu tranh: Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự
tác động lẫn nhau, bài trừ và phủ định lẫn nhau của
các mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập có
thể được biểu hiện ở sự ảnh hưởng lẫn nhau hoặc
dùng bạo lực để thủ tiêu lẫn nhau giữa các mặt đối
lập,
Mối quan hệ: Mối quan hệ giũa sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập thể hiện ở chỗ trong




một mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập không tách rời nhau, bởi vì trong sự ràng
buộc, phụ thuộc quy định lẫn nhau thì hai mặt đối lập
vẫn luôn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu
tranh với nhau. Không có sự thống nhất sẽ không có
đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh, còn
đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực
của sự vận động, phát triển.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết

quả của sự đấu tranh của các mặt đối lập. Do sự đa
dạng của thế giới nên hình thức chuyển hóa cũng rất
đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau,
cũng có thể cả hai chuyển thành những chất mới. Sự
chuyển hóa của các mặt đối lập phải có những điều
kiện nhất định.

b.Sự phát triển
Phát triển là sự đấu tranh của các mặt đối lập: Sự phát
triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình
thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn. Sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập là 2 xu hướng tác động
khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.
Như vậy, mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả "sự
thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách
rời nhau, trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn
định tạm thời của sự vật.
Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động
và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các
mặt đối lập là tương đối, tạm thời; sự đấu tranh của các
mặt đối lập là tuyệt đối. Việc hình thành, phát triển và
giải quyết mâu thuẫn là một quá trình đấu tranh rất phức


tạp, trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có những
đặc điểm riêng của nó:

Giai đoạn hình thành mâu thuẫn, biểu hiện: đồng

nhất nhưng bao hàm sự khác nhau; khác nhau bề
ngoài, khác nhau bản chất, mâu thuẫn được hình
thành.

Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn, biểu hiện: các
mặt đối lập xung đột với nhau; các mặt đối lập xung
đột gay gắt với nhau.

Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn, biểu hiện: sự
chuyển hóa của các mặt đối lập, mâu thuẫn được giải
quyết.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu
tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự
thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu
thuẫn phát triển. Lúc đầu mâu thuẫn mới xuất hiện mâu
thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh
hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày
càng phát triển đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung
đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hoá lẫn
nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó thể thống
nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật
cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì
cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau
trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển
bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính
thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Khi
mâu thuẫn đã được giải quyết thì sự vật cũ mất đi, sự

vật mới ra đời lại bao hàm mâu thuẫn mới, mâu thuẫn
mới lại được triển khai, phát triển và lại được giải quyết


làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế sự vật
cũ. Do vậy, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn
đến sự chuyển hóa của các mặt đối lập (giải quyết mâu
thuẫn) là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát
triển. Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt
đối lập không chuyển hóa) thì không có sự phát triển.

c.Tính chất
Mâu thuẫn là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau
của các mặt đối lập bên trong một sự vật, một hiện
tượng. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và
phổ biến. Mâu thuẫn có tính chất khách quan vì nó
là cái vốn có trong sự vật, hiện tượng, là bản chất
chung của mọi sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn có
tính phổ biến vì nó tồn tại trong tất cả mọi sự vật
hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình, tồn tại
trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Vì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến
nên mâu thuẫn rất đa dạng và phức tạp. Trong các
sự vật, hiện tượng khác nhau thì tồn tại những
mâu thuẫn khác nhau, trong bản thân mỗi sự vật,
hiện tượng cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn
khác nhau, trong mỗi giai đoạn, mỗi quá trình cũng
có nhiều mâu thuẫn khác nhau. Mỗi mâu thuẫn có
vị trí, vai trò và đặc điểm khác nhau đối với sự vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng.


3.Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng,
cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của
chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính
phong phú đa dạng được quy định một cách khách


quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác
động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ
thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, có
thể phân biệt thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn
bên ngoài.

Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa
các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự
vật.

Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định
là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ sự vật đó với
các sự vật khác.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong
và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự tương đối, tuỳ theo
phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong
mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài nhưng xét
trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Để
xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong
hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm
vi sự vật được xem xét.

Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối
với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn
mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển
của sự vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu
thuẫn bên ngoài không ngừng có tác động qua lại lẫn
nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể
tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải
quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết
mâu thuẫn bên trong.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của
toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn
cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:


Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất
của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai
đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại
các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự
vật sẽ thay đổi cơ bản về chất.

Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc
trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó
không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó
nảy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật
thay đổi căn bản về chất.
Theo Hồ Chí Minh thì:
“ Khi việc gì có mâu thuẫn, khi phải tìm cách giải
quyết tức là có vấn đề. Khi đã có vấn đề, ta phải
nghiên cứu cho rõ cái gốc của mâu thuẫn là vấn
đề gì. Phải điều tra, phải nghiên cứu các mâu

thuẫn đó. Phải phân tách rõ ràng và có hệ thống,
phải biết rõ cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào là
mâu thuẫn phụ. Phải đề ra cách giải quyết

-Hồ Chí Minh•

Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và
phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các
mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu
thuẫn thứ yếu.

Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu
của một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật và
chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải
quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn
là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát
triển mới.Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ yếu có thể
là một hình thức biển hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ
bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu


thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Việc giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết
từng bước mâu thuẫn cơ bản.

Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và
tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự
vật nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu
thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu

là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn
chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, có thể
chia mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng
và mâu thuẫn không đối kháng.

Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai
cấp những tập đoàn người, có lợi ích cơ bản đối lập
nhau. Như là: Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ,
giữa vô sản với tư sản....

Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa
những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất
với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản,
cục bộ, tạm thời. Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng
và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định
đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết
mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối
kháng.



×