Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Hình phạt bổ sung trong luật hình sự việt nam đối với các tội phạm về ma túy (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh thái nguyên) tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.65 KB, 41 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRNG TH DUNG

HìNH PHạT Bổ SUNG TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
ĐốI VớI CáC TộI PHạM Về MA TúY
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh thái nguyên)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRNG TH DUNG

HìNH PHạT Bổ SUNG TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
ĐốI VớI CáC TộI PHạM Về MA TúY
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh thái nguyên)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NG QUANG PHNG

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRƢƠNG THỊ DUNG


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT BỔ
SUNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................. 10
1.1.

Khái niệm và hệ thống hình phạt bổ sung trong Luật hình sự
Việt Nam............................................................................................ 10

1.1.1. Khái niệm về hình phạt bổ sung ......................................................... 10
1.1.2. Hệ thống hình phạt bổ sung ............................................................... 15
1.2.


Vai trò, mục đích của hình phạt bổ sung ....................................... 17

1.3.

Khái quát lịch sử lập pháp của pháp luật hình sự Việt Nam
về hình phạt bổ sung từ năm 1945 đến năm 1999 ......................... 20

1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985 ............................................... 20
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1999 ............................................... 25
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 29
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ
HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MA
TÚY VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
THÁI NGUYÊN ............................... Error! Bookmark not defined.
2.1.

Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt bổ sung
đối với các tội phạm về ma túy........ Error! Bookmark not defined.


2.1.1. Các hình phạt bổ sung đối với các tội phạm về ma túy trong Bộ
luật hình sự năm 1999 ........................ Error! Bookmark not defined.
2.1.2. So sánh các hình phạt bổ sung đối với các tội phạm về ma túy
trong Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 1985Error! Bookmark
2.1.3. Các hình phạt bổ sung cụ thể đối với các tội phạm về ma túy
trong Bộ luật hình sự năm 1999 ......... Error! Bookmark not defined.
2.2.

Thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung đối với các tội


phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Thái NguyênError! Bookmark not define
2.2.1. Đặc điểm tình hình của tỉnh Thái Nguyên liên quan đến việc áp
dụng các quy định về hình phạt bổ sung đối với các tội phạm về
ma túy ................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Kết quả áp dụng các hình phạt bổ sung đối với các tội phạm về
ma túy ................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Những hạn chế trong việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với các
tội phạm về ma túy và nguyên nhân... Error! Bookmark not defined.
Kết luận chƣơng 2 ......................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG CÁC HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI

PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊNError! Bookmar
3.1.

Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt bổ sung đối

với các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Thái NguyênError! Bookmark n
3.1.1. Yêu cầu tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCNError! Bookmark not defined.
3.1.2. Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và đối với
tội phạm về ma túy nói riêng.............. Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Nhận thức đúng vai trò và ý nghĩa của hình phạt bổ sungError! Bookmark not
3.1.4. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án cũng như
người thân thích của họ ...................... Error! Bookmark not defined.


3.2.

Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt bổ sung


đối với các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Thái NguyênError! Bookmar

3.2.1. Hướng dẫn kịp thời các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015Error! Bookmark
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự về chế định hình phạt bổ
sung đối với các tội phạm về ma túy.. Error! Bookmark not defined.

3.2.3. Tăng cường giải thích pháp luật, tập huấn nghiệp vụError! Bookmark not defin
3.2.4.

Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp
luật và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán Tòa án
các cấp ................................................ Error! Bookmark not defined.

3.2.5. Tăng cường kiểm sát việc áp dụng pháp luật hình sự liên quan

đến những loại người đồng phạm của Viện kiểm sát nhân dânError! Bookmark
Kết luận chƣơng 3 ......................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUÂN .................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 30


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

HPBS:

Hình phạt bổ sung


HPC:

Hình phạt chính

LHS:

Luật hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG
Số
hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng Các vụ án về ma túy đã xét xử sơ thẩm và tỷ lệ trong
Error!
2.1. số tội phạm ma túy của BLHS năm 1999 tại Thái Bookmark
Nguyên
not
defined.
Bảng Các vụ án ma túy có áp dụng hình phạt bổ sung với các
Error!

2.2. bị cáo theo BLHS 1999 tại Thái Nguyên
Bookmark
not
defined.
Bảng Cơ cấu về HPBS đối với các bị cáo phạm tội về ma túy
Error!
2.3. trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Bookmark
not
defined.


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm và hình phạt là những chế định quan trọng nhất trong Luật
hình sự (LHS), có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Khi nói đến LHS, dù đề
cập đến nội dung cụ thể nào thì tập trung lại cũng nhằm đi đến vấn đề tội
phạm và hình phạt. Trong hệ thống hình phạt mà LHS quy định có hình phạt
chính và hình phạt bổ sung (HPBS), hình phạt chính (HPC) và HPBS được
quy định áp dụng riêng biệt trong các tội danh mà Bộ luật hình sự (BLHS)
quy định với tính chất là chế tài mà Nhà nước áp dụng đối với người phạm
tội về các tội danh cụ thể. Hình phạt nói chung và các HPBS đối với các tội
phạm về ma túy vừa là nội dung, vừa là phương tiện của chính sách hình sự
của Nhà nước, bảo đảm cho LHS có thể thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ chế
độ Xã hội chủ nghĩa (XHCN), lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, chống mọi hành vi
phạm tội về ma túy.
Trong đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, HPBS tuy không có ý
nghĩa quyết định như HPC, nhưng trong giới hạn tác động của nó đã phát huy

được vai trò tích cực là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong hệ thống
các biện pháp tác động của Nhà nước và xã hội đến tội phạm [38, tr.142].
Do đó, việc nghiên cứu về“Hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt
Nam đối với các tội phạm về ma túy (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái
Nguyên)” có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật
hình sự. Bởi lẽ, vị trí địa lý và chính trị của Thái Nguyên là một tỉnh ở
phía Đông bắc, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội và là tỉnh nằm trong quy hoạch
vùng thủ đô Hà Nội. Thái Nguyên là một trung tâm kinh tế - xã hội lớn của
khu vực Đông bắc cũng như cả Vùng trung du và miền núi phía bắc.

1


Thái Nguyên hiện đang được nghiên cứu để trở thành vùng kinh tế
trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội. Thái Nguyên cũng được coi là một trung tâm
đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ 3 sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Hằng năm, Ngành tư pháp tỉnh Thái Nguyên xét xử các vụ án về các tội phạm
liên quan đến ma túy chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số án chung đã được xét
xử [52]. Đặc biệt trong thời gian vừa qua tình hình tội phạm về ma túy đang
có những diễn biến hết sức phức tạp và khó lường. Số lượng các vụ án tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy với số lượng lớn ngày càng
gia tăng, tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này ngày càng
nguy hiểm, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Ma túy đã và đang gây nên biết bao hệ
lụy đau lòng cho toàn xã hội như: Gia đình tan nát, tội phạm giết người cướp
của gia tăng, trật tự xã hội bị đe dọa…
Vì vậy, việc học viên chọn đề tài “Hình phạt bổ sung trong luật hình
sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh
Thái Nguyên)” làm luận văn thạc sĩ luật học. Kết quả nghiên cứu của đề tài
góp phần nâng cao chất lượng áp dụng các biện pháp xử lý hình sự trong hoạt
động đấu tranh phòng và chống tội phạm về ma túy qua thực tiễn đấu tranh,

phòng chống tội phạm ma túy của tỉnh Thái Nguyên; giúp cho việc cá thể hóa
trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với hành vi phạm tội về tội phạm ma túy
ở mức cao nhất, đảm bảo tính thống nhất, công bằng trong thực tiễn xét xử
của Tòa án các cấp tại tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
Việc nghiên cứu đề tài này cũng là việc triển khai các nhiệm vụ về cải
cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 và Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 1999 và đóng góp nhiều quan
điểm thực tiễn cho việc tiếp tục hoàn thiện BLHS năm 2015.
2


2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luâ ̣t hình sự về HPBS trong pháp luật hình sự Việt Nam đối với
các tội phạm về ma túy luôn là vấ n đề có ý nghĩa thời sự trong giai đoạn
hiện nay khi mà nước ta đang bước vào thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị
trường hội nhập sâu rộng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vấn đề
hoàn thiện pháp luật về hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam đối với
các tội phạm về ma túy nói chung và về HPBS trong pháp luật hình sự Việt
Nam đối với các tội phạm về ma túy nói riêng được các nhà lập pháp và
đông đảo các nhà nghiên cứu quan tâm, đóng góp sôi nổi tại Diễn đàn lập
pháp của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội trong quá trình sửa đổi
BLHS năm 1985 đến nay. Khi thảo luận về dự thảo BLHS năm 1985, nhiều
ý kiến đưa ra và được thống nhất bổ sung Điều 185p về HPBS đối với các
tội phạm về ma túy, trong đó quy định mức phạt tiền cao và hình phạt tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản [10, tr.3].
Đặc biệt, khi tiến hành thảo luận BLHS năm 2015 có nhiều ý kiến xung
quanh việc áp dụng HPBS đối với tội phạm ma túy. Khi thảo luận, đa số ý

kiến cho rằng, việc bản án xử phạt các bị cáo mức án nhẹ và không áp dụng
HPBS với các bị cáo phạm các tội về ma túy là không đáp ứng được yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm ma tuý đang diễn biến rất phức tạp và có
chiều hướng gia tăng như hiện nay; đồng thời, không thực hiện nghiêm túc
Chỉ thị số 01/2005/CT-TA ngày 30-8-2005 của Chánh án Toà án nhân dân tối
cao về công tác đấu tranh đối với một số tội phạm gây bức xúc trong tình hình
hiện nay, trong đó có các tội phạm về ma tuý như: sản xuất, mua bán, vận
chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma tuý. Chỉ thị số 01/2005/CT-TA
ngày 30-8-2005 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao yêu cầu đối với các tội
phạm về ma tuý, khi xét xử các Toà án áp dụng hình phạt nghiêm khắc theo
khung hình phạt mà điều luật đã quy định; khỉ xét xử mà theo quy định của

3


BLHS có thể áp dụng HPBS thì kiên quyết áp dụng, đặc biệt là đối với những
người phạm các tội ma tuý [33].
Một số công trình khoa học đã tập trung nghiên cứu về HPBS trong
pháp luật hình sự Việt Nam là chủ yếu, rất ít nội dung liên quan đến các tội
phạm về ma túy, thực tiễn áp dụng pháp luật ở một số địa phương cụ thể.
Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào đối tượng nghiên cứu là BLHS
năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ở cấp độ Luận án Tiến sĩ phải
kể đến: Các HPBS trong Luật hình sự Việt Nam của NCS Trịnh Quốc Toản
bảo vệ năm 2010. Luận án cung cấp phương pháp luận và tri thức tương đối
đầy đủ về nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về hình phạt,
như: khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt, HPBS; phân biệt HPBS
với các biện pháp cưỡng chế hình sự khác; khái quát lịch sử hình thành và
phát triển của HPBS trong Luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước
khi ban hành BLHS năm 1999. Phân tích những quy định về HPBS trong
pháp luật hình sự hiện hành của Việt Nam, trong sự so sánh với LHS một số

nước, phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định về HPBS trong
pháp luật hình sự cần khắc phục. Nghiên cứu, đánh giá tình hình áp dụng các
quy định về HPBS của các Tòa án, từ đó chỉ ra những tồn tại, vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng và những nguyên nhân của nó; đề xuất những giải
pháp khả thi góp phần nâng cao hiệu quả của HPBS trong thực tiễn áp dụng.
Nhiều công trình tập trung nghiên cứu vấn đề HPBS ở các khía cạnh khác
nhau: Chương thứ bảy - Hình phạt và biện pháp tư pháp, Trong sách: Sách
chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự
(Phần chung) của GS.TSKH Lê Văn Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2005; Chương XV - Khái niệm hình phạt, hệ thống hình phạt và các biện
pháp tư pháp, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung)
của PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên), Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003 và 2007); Những vấn đề lý
4


luận và thực tiễn về HPBS trong luật hình sự Việt Nam của PGS.TS. Trịnh
Quốc Toản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; Trách nhiệm hình sự và
hình phạt do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên), Nxb Công an nhân dân,
2001; Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000; Chương 8 Khái niệm hình phạt và hệ thống hình phạt, Trong sách: Tội phạm học, luật
hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam (GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.
Dưới góc độ bài viết trên các tạp chí khoa học, đề cập trực tiếp hoặc
gián tiếp đến phạt tiền với tư cách HPBS. Tuy nhiên, rất ít có công trình
nghiên cứu chuyên sâu, chuyên biệt về các quy định và thực tiễn áp dụng
HPBS đối với các tội phạm ma túy. Một số bài viết: Một số vấn đề mới về
hình phạt tiền trong BLHS năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2003 của
TS. Trịnh Tiến Việt; Về hình phạt tiền trong luật một số nước, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 7/2002 của PGS. TS. Trịnh Quốc Toản; Sự mâu thuẫn

của hình phạt tiền quy định tại khoản 1, Điều 30 BLHS với một số tội
phạm cụ thể và những bất cập của hình phạt này, Tạp chí Tòa án nhân dân
8/2006 của PGS.TS. Dương Tuyết Miên; Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng,
Tạp chí Tòa án nhân dân 3/2009 của tác giả Đỗ Văn Chỉnh; Một số vấn đề
lý luận về hình phạt tiền, Tạp chí Tòa án nhân dân 8/2009 của tác giả
Nguyễn Hoàng Lâm; Một số ý kiến về hình phạt tiền theo quy định của BLHS
năm 1999, Tạp chí Kiểm sát 4/2013 của tác giả Lý Văn Tầm;…
Qua nghiên cứu các công trình cho thấy, các HPBS được áp dụng đối
với các tội phạm ma túy chỉ là một phần trong nội dung nghiên cứu của các
tác giả nên chưa nghiên cứu sâu cả về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng tại
một địa phương cụ thể như Thái Nguyên, một tỉnh có số lượng án liên quan
đến ma túy tương đối lớn của miền Bắc.

5


Ngoài ra, có những công trình chỉ tập trung vào phần lý luận nên các
tác giả chưa đưa ra các giải pháp có tính hệ thống, toàn diện nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS năm 1999, đặc biệt BLHS năm
2015 đang được xem xét nghiên cứu chỉnh sửa để hoàn thiện về HPBS đối với
các tội phạm ma túy. Như vậy, dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học, cho
đến nay chưa có công trình nào đề cập riêng đến HPBS với tư cách áp dụng
độc lập với một nhóm tội cụ thể như các tội phạm ma túy trên một địa bàn cụ
thể, cũng như nghiên cứu thực tiễn xét xử của tỉnh Thái Nguyên.
Đề tài mà tác giả nghiên cứu sẽ tập trung nghiên cứu pháp luật và thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Thái Nguyên theo hướng làm rõ lý luận và quy định pháp
luật, những điểm mới, tiến bộ trong so sánh luật gắn với thực tiễn áp dụng tại
tỉnh Thái Nguyên, vì vậy sẽ có giá trị về lý luận hoàn thiện luật pháp lẫn ý
nghĩa áp dụng thực tiễn tại địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản sau:
- Khái quát, hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn HPBS trong pháp
luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy;
- Đánh giá thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về thực tiễn HPBS
trong pháp luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy (qua nghiên
cứu điạ bàn tỉnh Thái Nguyên);
- Chỉ ra những thành công, kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế;
nguyên nhân tồn tại, hạn chế của việc áp dụng pháp luật về HPBS trong pháp
luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy và đề xuất các giải
pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về HPBS trong pháp luật hình sự
Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy.

6


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đa ̣t đươ ̣c mu ̣c đích, luâ ̣n văn có các nhiê ̣m vu ̣ sau đây:
- Nghiên cứu và xây dựng các khái niê ̣m: Khái niệm, hệ thống HPBS; Vai
trò, mục đích, ý nghĩa của HPBS; Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu pháp luâ ̣t hiê ̣n hành về HPBS trong pháp luật hình sự Việt
Nam đối với các tội phạm về ma túy
- Nghiên cứu các yế u tố ảnh hưởng không tić h cực tới thực hiê ̣n pháp
luâ ̣t HPBS trong pháp luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy.
- Đánh giá thực tra ̣ng áp dụng pháp luật về HPBS trong pháp luật hình
sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
- Đưa những giải pháp hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t và tổ chức thực hiê ̣n pháp
luâ ̣t trong quá trình áp dụng quy định HPBS trong pháp luật hình sự Việt Nam
đối với các tội phạm về ma túy tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn áp dụng pháp luật về HPBS trong
pháp luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy tại địa bàn tỉnh
Thái Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp luật về về HPBS trong pháp
luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy; Nghiên cứu các quan
điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về HPBS
trong pháp luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy; Nghiên cứu
các quy định về HPBS trong pháp luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm
về ma túy được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và các
văn bản hướng dẫn thi hành; Nghiên cứu các quy định chỉ đạo thực hiện các
quy định của tỉnh Thái Nguyên nhằm tổ chức triển khai pháp luật về HPBS

7


trong pháp luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: Từ năm 2011 đến 2015.
- Điạ bàn: tỉnh Thái Nguyên.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chính sách hình sự, thực hiê ̣n công bằ ng xã hô ̣i , bảo vệ an ninh chính trị,
đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, luận giải, bình luận… được sử dụng trong
Chương 1 khi nghiên cứu cơ sở lý luận về HPBS trong luật hình sự Việt Nam.

- Phương pháp phân tích, đánh giá, diễn giải, so sánh, tổng hợp, quy
nạp…được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu pháp luật hiện hành về
HPBS trong luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy, thực tiễn
áp dụng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Phương pháp bình luận, tổng hợp…được sử dụng trong Chương 3 khi
nghiên cứu các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về HPBS trong
luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy và các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đối với HPBS trong luật hình sự Việt
Nam đối với các tội phạm về ma túy nói chung và trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên nói riêng.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật
hình sự về HPBS nói chung và đi sâu vào phân tích các HPBS áp dụng đối
với các tội phạm về ma túy.

8


- Đưa ra số liệu, từ đó phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành HPBS đối
với các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Chỉ ra những bất cập, hạn chế trong việc áp dụng các HPBS đối với
các tội phạm về ma túy còn chưa hợp lý, thiếu chính xác dẫn đến việc thi
hành các hình phạt đó trên thực tiễn không khả thi. Từ đó đưa ra những giải
pháp mang tính tham khảo nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình
sự về HPBS đối với các tội phạm về ma túy, nâng cao hiệu quả áp dụng và thi
hành trong thực tiễn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
3 chương bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hình phạt bổ sung trong luật hình

sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt bổ
sung đối với các tội phạm về ma túy và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình
phạt bổ sung đối với các tội phạm về ma túy.

9


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT BỔ SUNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và hệ thống hình phạt bổ sung trong Luật hình sự
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về hình phạt bổ sung
Trong thời gian qua, việc áp dụng pháp luật khi áp dụng HPBS đối với
người phạm tội còn có nhiều nhận thức khác nhau trong quá trình tiến hành tố
tụng nên phần nào đã ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng công tác xét xử và
tính khả thi khi tổ chức thi hành bản án về phần quyết định HPBS. Do vậy,
việc nhận thức chuẩn xác về việc nâng cao chất lượng công tác xét xử các vụ
án hình sự đối với tội phạm mà BLHS có quy định việc áp dụng HPBS là cần
thiết và đảm bảo tính khả thi khi áp dụng HPBS.
Trong khoa học LHS Việt Nam, có nhiều quan niệm về HPBS. Tuy
nhiên, đều có chung một quan niệm về bản chất, cụ thể như trong Bách khoa
toàn thư Việt Nam, HPBS được định nghĩa:
Hình phạt được Toà án quyết định thêm đối với người bị Toà
án quyết định hình phạt chính. Tuỳ từng trường hợp phạm tội cụ
thể, trong bản án, kèm theo hình phạt chính, Toà án có thể tuyên
một hoặc một số HPBS [15, tr.567].

Theo quan điểm của PGS. TS Trần Văn Độ thì:
HPBS là hình phạt được áp dụng kèm theo HPC nhằm
tăng cường hiệu quả của việc áp dụng hình phạt, đáp ứng mục
đích cải tạo, giáo dục người phạm tội, phòng ngừa chung và
phòng ngừa riêng [12].

10


TS Trinh Tiến Việt cho rằng:
HPBS là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất
được quy định trong Luật hình sự, do Tòa án nhân danh Nhà nước
tuyên kèm theo HPC trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật
đối với chính người đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, tước bỏ
hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án
nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội, củng cố, hỗ trợ, tăng cường
tác dụng của HPC; phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng [47].
Tuy nhiên có quan điểm lại cho rằng HPBS là hình phạt được
bổ sung thêm vào HPC và không được tuyên độc lập mà chỉ có thể
tuyên kèm theo một HPC. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của vụ
án mà kèm theo một HPC Toà án có thể tuyên một hoặc vài HPBS.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 28 BLHS năm 1999, thì HPBS gồm:
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt
tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là
hình phạt chính.
Tại BLHS năm 2015 các HPBS đố i với người phạm tội bao gồ m : cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư
trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi
không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt

chính. Đồng thời, quy định đối với mỗi tội phạm, người ph ạm tội chỉ bị áp
dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số HPBS. Bên
cạnh đó, điểm mới nữa là có quy định về các HPBS đố i với pháp nhân thương
mại phạm tội bao gồ m: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực
nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt
chính. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng
một HPC và có thể bị áp dụng một hoặc một số HPBS.
11


Do đó, HPBS đó là một dạng hình phạt bổ trợ cho HPC, được Tòa án
tuyên kèm với HPC mà không được tuyên độc lập, nhằm tăng cường sự răn
đe, giáo dục cùng HPC đối với người bị kết án. Việc áp dụng HPBS có thể là
bắt buộc hoặc tùy nghi, tức là trong trường hợp điều luật về tội phạm cụ thể
quy định cho phép tuỳ nghi áp dụng HPBS thì Toà án phải lựa chọn việc áp
dụng HPBS cho phù hợp. Ví dụ như đối với tội phạm về ma túy được quy
định Điều 192 đến Điều 201 thuộc Chương XVIII- Các tội phạm về ma túy,
tại các khoản cuối cùng của các điều luật này đều có quy định “Người phạm
tội còn có thể bị phạt tiền từ…”. Như vậy, trong trường hợp này điều luật quy
định tuỳ nghi, “có thể bị” áp dụng tức là có thể có hoặc có thể không áp dụng.
HPBS là hình phạt được áp dụng kèm theo HPC (bổ sung cho hình phạt
chính) Nếu người bị kết án không bị áp dụng HPC thì Tòa án không được áp
dụng HPBS đối với họ. Mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình
phạt chính, nhưng lại có thể bị áp dụng một hoặc nhiều loại HPBS. Trong
trường hợp một người bị kết án về nhiều tội, thì HPBS của tội nào chỉ áp dụng
đối với tội ấy, không áp dụng HPBS chung cho tất cả các tội. Đặc biệt, khi áp
dụng HPBS không áp dụng HPBS đối với người chưa thành niên phạm tội.
Hình phạt bổ sung có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, HPBS là biện pháp cưỡng chế Nhà nước ít nghiêm khắc hơn
so với HPC chỉ là bổ trợ đi kèm cùng HPC.

Chúng ta không phủ nhận một thực tế là khi xem xét đánh giá, so sánh
riêng lẻ giữa một số HPBS với HPC, cho thấy mức độ nghiêm khắc của
HPBS có khi còn cao hơn HPC. Ví dụ: Hình phạt tịch thu tài sản so với hình
phạt tiền với tính chất là HPC; hình phạt quản chế với hình phạt cảnh cáo.
Tuy vậy, nhìn một cách tổng thể thì HPC vẫn là biện pháp cưỡng chế Nhà
nước nghiêm khắc hơn nhiều so với HPBS, bởi lẽ có áp dụng HPC mới có
việc xem xét hình phạt bổ sung.

12


HPBS là các biện pháp cưỡng chế không tước tính mạng, tự do thân
thể, không buộc cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội. Trong khi
đó một số HPC lại có thể dẫn đến hậu quả trên cho người bị áp dụng như
hình phạt tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn. Điều này làm cho HPBS
thiên về khía cạnh phòng ngừa, giáo dục người phạm tội nhiều hơn là mục
đích trừng trị họ. Không giống như khi áp dụng HPC thì sự trừng trị của
pháp luật nặng nề hơn.
Mặt khác, mặc dù có một số hình phạt vừa có thể là HPC vừa có thể là
HPBS (như hình phạt trục xuất, phạt tiền) nhưng nếu bị áp dụng với tư cách là
HPC thì sẽ để lại án tích cho người bị kết án trong một thời hạn nhất định.
Đây là một đặc điểm pháp lý bất lợi (hay nặng nề hơn) đối với người phạm tội
của HPC so với HPBS.
Thứ hai, HPBS không được sắp xếp theo một trật tự như HPC.
Khi xem xét đối với tính nghiêm khắc của hình phạt là đối với hệ thống
HPC có thể thấy rõ sự phân hóa trong mức độ nặng nhẹ của từng hình phạt.
Thể hiện rõ nhất điều này thông qua việc sắp xếp các HPC theo mức độ
nghiêm khắc tăng dần. Trong khi đó đối với HPBS thì giữa các hình phạt
dường như rất khó để so sánh tính nghiêm khắc. Bởi lẽ với tư cách là HPBS
cho HPC thì nội dung cải tạo, giáo dục của chúng là rất khác nhau. Mỗi loại

HPBS chỉ có khả năng tác động riêng rẽ và có hiệu quả đối với một số loại tội
phạm nhất định, cũng chỉ có khả năng đi kèm với một hoặc một số loại HPC
nhất định. Ví dụ không thể tuyên HPC là tử hình với một người nhưng lại áp
dụng HPBS là cấm đảm nhiệm chức vụ với họ được. Chính vì sự tác động
riêng rẽ như vậy mà cũng không thể áp dụng HPBS nhẹ hơn (thực tế cũng
không thể xác định) cho người phạm tội theo quy định tại Điểu 47 BLHS
1999 như đối với HPC.

13


Thứ ba, HPBS chỉ được áp dụng kèm theo HPC.
Nói chung thì HPC đã có sự tương ứng với mức độ và hành vi phạm
tội, thể hiện cơ bản thái độ, đánh giá của Nhà nước trước tội phạm. Chính vì
thế trong bất cứ một tội phạm cụ thể, nhà làm luật đều phải quy định chi tiết
HPC áp dụng cho tội phạm đó.
HPBS có vai trò tích cực trong việc phòng ngừa tội phạm và hỗ trợ cho
HPC đạt hiệu quả tốt nhất, giúp cho việc xử lý đối với tội phạm được cụ thể
và triệt để hay nói cách khác là cá thể hóa từng cá nhân phạm tội một cách sâu
sắc hơn. Với vai trò bổ sung như thế đòi hỏi HPBS chỉ có thể đi kèm với HPC
đã tuyên mà thôi. Nếu HPBS được tuyên độc lập thì sẽ không thể hiện được
đầy đủ sự phản ứng của Nhà nước trước tội phạm, không thỏa mãn yêu cầu
của chế tài đối với tội phạm bị xét xử. Vì vậy, HPBS chỉ được áp dụng khi
người phạm tội bị áp dụng HPC; nếu người đó không bị áp dụng HPC thì
cũng không thể áp dụng HPBS để thay thế cho HPC.
Thứ tư, Toà án có thể áp dụng một hoặc một số HPBS kèm theo HPC
đối với mỗi tội phạm.
Về nguyên tắc đối với mỗi tội phạm, Toà án chỉ có thể tuyên một HPC
mà điều luật về tội phạm ấy có quy định, trừ trường hợp vận dụng áp dụng
HPC khác nhẹ hơn luật quy định. Còn đối với HPBS, luật quy định không

được áp dụng độc lập đối với mỗi tội phạm cụ thể và không được áp dụng với
tất cả các tội phạm được quy định trong BLHS. Tòa án chỉ có thể áp dụng
HPBS đối với một người trong một bản án kết tội về một tội phạm mà người
đó thực hiện, nhưng chỉ trên cơ sở điều luật về tội phạm có quy định.
Việc áp dụng HPBS như thế nào đối với người phạm tội sau khi đã xác
định HPC cho họ còn phụ thuộc vào tính chất tùy nghi hay bắt buộc của điều
luật quy định. Nếu quy định cho phép Tòa án được lựa chọn loại việc có áp
dụng HPBS và áp dụng những hình phạt nào thì Hội đồng xét xử căn cứ vào

14


các yếu tố trong vụ án để quyết định. Còn nếu điều luật quy định bắt buộc
phải áp dụng HPBS nào đó đối với tội phạm cụ thể thì Tòa án buộc phải áp
dụng HPBS đó đối với người phạm tội.
Thứ năm, HPBS không áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Không áp dụng HPBS đối với người chưa thành niên phạm tội. Đây là
sự thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng đối với người chưa thành
niên. Bởi nếu áp dụng HPBS đối với người bị kết án là người chưa thành niên
sẽ dẫn tới hiệu quả của hình phạt không cao hoặc không đạt được. Trong lứa
tuổi này, đa số người chưa thành niên chưa có hoặc có nhưng hạn chế về nghề
nghiệp, tiền, tài sản… không đảm bảo cho việc thi hành HPBS. Mặt khác,
người chưa thành niên phạm tội có đặc điểm là họ chưa phát triển đầy đủ về
thể chất và tâm sinh lý, vì vậy nguyên tắc chủ yếu của đường lối xử lý hành vi
phạm tội của họ là nhằm giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật và các quy
tắc của cuộc sống xã hội, giúp đỡ họ có điều kiện sửa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
1.1.2. Hệ thống hình phạt bổ sung
Hệ thống hình phạt trong BLHS năm 1999 (được quy định từ Điều 28
đến Điều 40) gồm 7 HPC và 7 HPBS. 07 HPC là: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo

không giam giữ; trục xuất; tù có thời hạn; tù chung thân và tử hình. 07 HPBS
là: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền;
trục xuất. Trong đó, có 2 hình phạt có thể là HPC, có thể là HPBS là phạt tiền
và trục xuất. Trong 7 HPBS nêu trên thì BLHS năm 1999 có quy định áp
dụng đối với các tội phạm về ma túy 5/7 HPBS bao gồm: Cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; Quản chế;
Tịch thu tài sản; Phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính. Sở dĩ 5
HPBS trên được quy định áp dụng đối với nhóm tội phạm về ma túy vì nó

15


phù hợp và đáp ứng cũng như thỏa mãn vai trò mục đích của hình phạt khi áp
dụng đó là: Bên cạnh việc áp dụng HPC nhằm mục đích trừng trị là chủ yếu
thì việc áp dụng các hình phạt bổ sung trên đối với nhóm tội phạm ma túy sẽ
đảm bảo tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm cũng như mở ra cho Tòa
án khả năng áp dụng hình phạt cho tội phạm một cách cụ thể, chính xác hơn
hay chính là giúp Tòa án cá thể hóa hình phạt, đảm bảo công bằng khi quyết
định hình phạt.
Đến BLHS năm 2015 các HPBS đố i với người phạm tội bao gồ m: cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư
trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi
không áp dụng là HPC; trục xuất, khi không áp dụng là HPC. Đồng thời, quy
định đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một HPC và có thể
bị áp dụng một hoặc một số HPBS. BLHS năm 2015 có điểm mới nữa là quy
định về các HPBS tại Điều 32 các hình phạt đối với người phạm tội. Về mặt
nội dung, Điều luật này kế thừa toàn bộ quy định tại Điều 28 của BLHS năm
1999, chỉ có hai điểm sửa đổi mang tính kỹ thuật: Sửa tên gọi của Điều này
thành “Các hình phạt đối với người phạm tội” để phân biệt với Điều 33 “Các

hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội”; bỏ cụm từ “Hình phạt
bao gồm HPC và HPBS ".
Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 điểm mới nữa là có quy định về các
HPBS đố i với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồ m : Cấm kinh doanh,
cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; Phạt tiền,
khi không áp dụng là hình phạt chính. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương
mại phạm tội chỉ bị áp dụng một HPC và có thể bị áp dụng một hoặc một số
HPBS. Hệ thống hình phạt này trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm nước ngoài;
thống nhất với các quy định của pháp luật về xử phạt hành chính và phù hợp xử
lý đối với các hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại gây ra.

16


1.2. Vai trò, mục đích của hình phạt bổ sung
HPBS cùng với HPC cấu thành nên hệ thống hình phạt theo quy định
của pháp luật. Là một bộ phận của hình phạt nên vai trò HPBS trước hết cũng
thể hiện:
Thứ nhất, hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà
còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ
phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Ngoài ra với những tính
chất, đặc trưng riêng của mình, HPBS còn có những vai trò riêng của nó,
được áp dụng nhằm thực hiện những vai trò riêng so với HPC.
HPBS sẽ giúp cho hệ thống hình phạt chung được đa dạng
hóa hình phạt trong hệ thống hình phạt là điều kiện đảm bảo tính
thống nhất trong thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp, bảo đảm
cho việc xét xử bình đẳng, công bằng. Với nhiều loại hình phạt
khác nhau được quy định thì khả năng cá thể hóa và bảo đảm sự

công bằng càng cao [23].
Thứ hai, HPBS nhằm củng cố những kết quả giáo dục, cải tạo đã đạt
được sau khi người phạm tội đã chấp hành hoặc đang chấp hành HPC. Sự
hiện diện của HPBS trong các chế tài của từng tội phạm cụ thể đã mở ra
khả năng tác động bằng nhiều biện pháp pháp lý khác nhau đối với người
phạm tội. Mỗi loại hình phạt có khả năng tác động đến các loại quyền và
lợi ích khác nhau của người đó. Chính vì thế, việc áp dụng hình phạt mới
có đủ khả năng tạo nên sức mạnh tổng hợp để giúp cải tạo, giáo dục.
Trong sức mạnh tổng hợp đó thì HPC được xem là chủ yếu và HPBS là sự
bổ trợ trên một số mặt mà HPC không thể hoặc khả năng han chế trong
việc tác động tới.

17


×