Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA DI CHUYỂN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ ĐẾN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.96 KB, 13 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA DI CHUYỂN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ ĐẾN THỊ TRƯỜNG
LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1. Khái niệm
Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là
những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao
động đó.
Di chuyển lao động quốc tế về cơ bản là sự phản ứng trước những thay đổi
về phân bổ nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, trật tự thế giới, sự biến đổi của môi
trường, sự phát triển của kinh tế và công nghệ Con người di chuyển từ nơi này đến
nơi khác nhằm tận dụng lợi thế về điều kiện khí hậu, nguồn tài nguyên thiên nhiên
để có được nguồn thu nhập cao hơn, có nhiều việc làm hơn hoặc để thoát khỏi sự
phân biệt đối xử.
2. Các dòng di chuyển lao động quốc tế
- Xuất nhập khẩu lao động
- Di dân
- Di chuyển thể nhân
3. Tác động của di chuyển lao động quốc tế đến thị trường lao động Việt Nam
3.1 Xuất nhập khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một hình thức di chuyển lao động từ nước có nhân lực
dồi dào, chủ yếu là các nước đang phát triển, sang các nước thiếu lao động, chủ
yếu là các nước có nền kinh tế phát triển. Trong thời gian làm việc ở nước ngoài,
người lao động vẫn giữ quốc tịch của nước xuất khẩu.
Về xu hướng xuất khẩu lao động thì hiện nay có hai xu hướng chính. Thứ
nhất là từ các nước đông dân với nền kinh tế đang phát triển hay kém phát triển
sang các nước có nền kinh tế phát triển, điều này sẽ giúp rất nhiều ích lợi cho nước
xuất khẩu lao động như giải quyết được việc làm, xóa đói giảm nghèo… Trong xu


hướng thứ nhất này, lao động xuất khẩu thường là lao động không có tay nghề
hoặc tay nghề thấp. Còn xu hướng thứ hai là việc trao đổi nguồn nhân lực giữa các
quốc gia phát triển với nhau, đối với các lao động có tay nghề cao hoặc có thể nói


là các chuyên gia trong một lĩnh vực nào đó.
Xuất nhập khẩu lao động sẽ làm tăng số lượng lao động của nước nhập khẩu
và giảm ở nước xuất khẩu và ảnh hưởng lớn tới thị trường lao động của nước xuất
khẩu cũng như nước nhập khẩu lao động.
Nhìn chung, nước xuất khẩu sẽ giảm cung thực tế lẫn cung tiền ẩn, còn nước
nhập khầu tăng cung thực tế lẫn cung tiềm ẩn.
Di chuyển lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc được hiểu đó là việc
những người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng lao động,
cung ứng dịch vụ hoặc hiện diện nhân thể và không nhằm mục tiêu định định cư.
Với nội hàm đó, việc di chuyển lao động ra nước ngoài làm việc tác động hai chiều
đến sự phát triển của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê, năm 2015 cả nước đưa đi được 115.980 lao động
(trong đó, 38.640 lao động nữ, chiếm 33,3%); vượt 122% so với kế hoạch năm và
bằng 108,5% so với tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài năm 2014. Đây là
năm thứ hai liên tiếp số lượng lao động Việt Nam đi xuất khẩu lao động vượt mức
100.000 lao động/năm. Tại các thị trường Đài Loan, Nhật Bản số lượng lao động
đưa đi đều tiếp tục tăng so với năm 2014, cụ thể là: Thị trường Đài Loan: 67.121
người tăng 108%, Thị trường Nhật Bản: 27.010 lao động tăng 136.6% so với năm
2014.(nguồn: />Trước hết, di chuyển lao động ra nước ngoài tạo điều kiện để Việt Nam toàn
dụng nguồn nhân lực làm tăng thu nhập quốc gia (GNI). Việt Nam có nguồn lao


động dồi dào và trẻ, người lao động thông minh, cần cù, chịu khó; tất cả đó chỉ là
tiền đề quan trọng cho việc di chuyển lao động ra nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá
trình chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và dịch vụ, một
số lượng lớn lao động bị thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình, đặc biệt là lao động
nông nghiệp. Điều này có nghĩa là một phần nguồn lực lao động không được sử
dụng để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ - tức là họ không tạo ra giá trị mới, trong
khi họ vẫn phải tiêu dùng để duy trì cuộc sống cá nhân và gia đình. ===>Xuất
khẩu lao động làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nước đồng thời giảm được lượng

cung lao động dư thừa.
Di chuyển lao động ra nước ngoài sẽ mở ra cơ hội sử dụng số lao động thất
nghiệp vào việc sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ tại nước khác, mang lại thu nhập
cho người lao động. Đồng thời, góp phần gia tăng thu nhập quốc gia (GNI), vì thu
nhập quốc gia (GNI) là tổng đại số giữa thu nhập quốc nội và thu nhập yếu tố
thuần, mà thu nhập yếu tố thuần lại chính là khoản chênh lệch giữa thu nhập
chuyển về nước và thu nhập của người nước ngoài chuyển ra khỏi Việt Nam. Nhờ
đó, góp phần làm tăng GNI/người, một cấu thành quan trọng trong HDI. Theo
thống kê của Ngân hàng thế giới, năm 2006, người Việt Nam ở nước ngoài gửi tiền
về nước bằng con đường chính thức là 4,8 tỷ USD, tương đương với 7,9% GDP
năm 20061 . Số lượng lao động dồi dào và trẻ, người lao động thông minh, cần cù,
chịu khó mới chỉ là tiềm năng cho việc di chuyển lao động ra nước ngoài nhằm tác
động lên thu nhập quốc gia. Còn mức độ và cường độ tác động do việc di chuyển
lao động ra nước ngoài làm việc lên thu nhập quốc gia phụ thuộc vào chính sách
của Chính phủ và chất lượng lao động Việt Nam.
Hai là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài làm tăng chi tiêu của
gia đình và tiết kiệm làm tăng đầu tư tư nhân trong dài hạn Như đã nói, khi lao
động ra nước ngoài làm việc, tất nhiên là họ có thu nhập, hơn nữa thu nhập cao


hơn làm việc trong nước. Thông thường, người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
có thu nhập ròng cao hơn làm việc trong nước khoảng 3 lần 2 . Nhờ có thu nhập
ròng cao, người lao động gửi khoản tiền đó về gia đình làm khoản tiết kiệm. Theo
ước tính của Ngân hàng Nhà nước và Bộ Lao động - Việt Nam, năm 2007, chỉ
riêng lao động Việt Nam ở nước ngoài chuyển về nước khoảng 2 tỷ USD3 . Khoản
tiền người lao động gửi về nhà được chia là hai phần: một phần gia đình chi tiêu
vào việc nâng cao mức sống, chăm sóc sức khoẻ của gia đình đặc biệt là chi tiêu
cho việc học tập của con cái góp phần nâng cao dân trí; một phần lớn dành để tiết
kiệm nhằm mục đích đầu tư trong tương lai. Theo Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, bình quân hàng năm, mỗi lao động tiết kiệm được xấp xỉ 4.000 USD. Nếu

người lao động đi làm việc 5 năm ở nước ngoài, họ có thể tiết kiệm được 20.000
USD đây là khoản tiền có thể giúp gia đình tự đầu tư hoặc góp vốn sản xuất sản
xuất kinh doanh. Như vậy, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài góp tăng
chi tiêu hộ gia đình và tăng đầu tư tư nhân trong dài hạn.( 1 Migration and
Remittances Factbook is compiled by Dilip Ratha and Zhimei Xu, Migration and
Remittances

Team,

Development

Prospects

Group,

World

Bank.

www.worldbank.org/prospects/migrationandremittances. 2 Lê Hồng Huyên,
Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của xuất khẩu lao động Việt Nam
trong hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Kinh tế phát triển - Đại học Kinh tế Quốc
dân, tháng 7 năm 2008. 3 Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội.) ==>Đó là điều kiện để tăng nhu cầu sử dụng lao động
trong nước,từ đó tăng cầu lao động
Ba là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài thúc đẩy chi tiêu của
Chính phủ cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Để có thể ra nước ngoài làm việc, người lao động phải có kỹ năng nghề
nghiệp và trình độ ngoại ngữ nhất định theo yêu cầu của chủ sử dụng. Tuy nhiên,



không phải tất cả mọi lao động muốn ra nước ngoài làm việc đều có thể đạt được
các yêu cầu của nhà tuyển dụng. Vì vậy, phải tổ chức huấn luyện và đào tạo lại cho
người lao động. Để thực hiện việc này có hiệu quả, Chính phủ phải đầu tư về cơ sở
vật chất, đội ngũ giảng viên và các điều kiện khác đảm bảo cho việc đào tạo và đào
tạo lại người lao động. Điều này sẽ làm tăng chi tiêu của Chính
Bốn là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài tạo điều kiện cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngắn hạn và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng hiện đại trong dài hạn. Trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp
hoá, việc thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp tất yếu làm cho
một số lượng nhất định lao động nông nghiệp mất việc làm. Dưới tác động của
cạnh tranh, các nhà đầu tư có xu hướng lựa chọn phương án đầu tư sử dụng nhiều
vốn. Cả hai khuynh hướng đó làm cho trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp
thu hồi, số lao động được sử dụng sẽ giảm đi đáng kể. Đây là quy luật tất yếu của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong ngắn hạn, di chuyển lao động ra
làm việc ở nước ngoài sẽ là một trong các con đường vừa giải quyết việc làm cho
số lao động thất nghiệp, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu,
nâng cao sức cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập. Trong dài hạn, trình độ người lao
động đi làm việc ở nước ngoài được nâng cao nhờ được đào tạo và đào tạo lại
trong thời gian làm việc ở nước ngoài. Chính người lao động đi làm việc ở nước
ngoài sẽ là động lực của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì đây là nguồn lao
động có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư theo chiều sâu.==> Làm
tăng cầu về lao động,đặc biệt là lao động chất lượng cao.
Năm là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài góp phần trực tiếp
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đặc điểm của lao động là sáng tạo. Người lao
động với vốn kiến thức học vấn và ngoại ngữ cơ bản, nếu được làm việc trong môi
trường công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, thì trình độ tay nghề


và kỹ năng nghề nghiệp ngày càng được nâng cao. Dưới tác động của kỹ thuật, quá

trình lao động, đồng thời cũng chính là quá trình người lao động tự đào tạo. Sau
một thời gian làm việc ở nước ngoài, trình độ tay nghề, ý thức kỷ luật, phong cách
làm việc hiện đại và trình độ ngoại ngữ được nâng cao vượt bậc. Thực tế cho thấy,
một số lượng lớn lao động là nông dân, sau khi đi làm việc ở nước ngoài về nước,
họ trở thành người công nhân hiện đại. Đa số người lao động đi làm việc tại 4 Liên
Xô, Đông Âu trước đây và Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… sau này đang là
những người lao động có trình độ cao trong các nhà máy, xí nghiệp.
Sáu là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài góp phần đưa nhanh các
tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, thúc đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá theo nguyên lý “3I”(Imitation - Bắt chước, Initiative - Cải tiến, Innovation - Sáng tạo). Trong quá trình làm việc, người lao động trực tiếp sử dụng
sử dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại, để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Theo
quy luật nhận thức, người lao động từ bắt chước để làm theo, sau đó là cải tiến và
cuối cùng là sáng tạo. Kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ixraen cho thấy,
những người lao động đi làm việc ở nước ngoài, sau khi về nước, họ mang những
tri thức đã tích luỹ được áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Chính
lực lượng lao động này đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình đưa công nghệ mới
vào sản xuất, kinh doanh và quản lý.==>Điều này góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế theo hướng sử dụng khoa học và công nghệ tiên tiến.
Bảy là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài góp phần tăng cường
đầu tư và mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam trên thị trường thế
giới. Khi là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), doanh nghiệp
Việt Nam có cơ hội to lớn trong việc đầu tư, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sang
các nước thành viên. Theo đó, việc di chuyển lao động theo các quy định của WTO
được thực hiện dàng. Tự do di chuyển lao động Việt Nam sang các nước thành


viên là điều kiện quan trọng giúp các nhà đầu tư lựa chọn phương án sử dụng lao
động tối ưu cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, người lao động Việt
Nam ra làm việc ở nước ngoài cũng góp phần quảng bá hàng hoá và dịch vụ của
Việt Nam với người tiêu dùng của nước sở tại.==>Tăng cầu lao động cả về số

lượng và chất lượng.

Bảng số 1:Tình hình số lao động Việt Nam xuất khẩu lao động ở một số
nước châu á năm 2015
Nước
số lao động
Đài Loan
67121
Nhật Bản
27010
Malaysia
7354
Hàn Quốc
6019
Ả-rập-xê-út
3975
An-gie-ri
1963
( />Theo bảng trên cho thấy,đa số lao động Việt Nam xuất khẩu lao động tại thị
trường Nhật Bản (67121 lao động)và Đài Loan(27010 lao động).
3.1.3.Tác động của vịêc lao động nước ngoài đến Việt Nam ngoài làm việc
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, nền kinh tế thế giới đang gặp nhiều khó
khăn, dòng lao động nước ngoài vào Việt Nam vẫn không ngừng gia tăng trong
những năm gần đây. Theo báo cáo của các Sở
Lao động-Thương binh và xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các Ban
quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, số lượng lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam trong các năm 2010, 2011 và 2012, cụ thể như sau:

Bảng số 1. Số lượng lao động nước ngoài tại Việt Nam



Năm 2010
Số lượng
(người)

56.929

Năm 2011
Tỷ
lệ tăng (%)

Số

Tỷ lệ
tăng (%)

lượng
(người)

2,7

Năm 2012

78.44

Số lượng (tại
thời điểm tháng 7)

32,52


77.087

0
Nguồn: Tổng hợp số liệu báo cáo của các Sở LĐTBXH tại thời điểm tháng 7
năm 2012
Thị trường lao động trong điều kiện nền kinh tế mở cửa đã tạo ra dòng di
chuyển lao động quốc tế ngày càng sôi động hơn, lao động nước ngoài vào Việt
Nam ngày một tăng. Theo báo cáo của các Sở Lao động – Thương binh và Xã hội
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các Ban quản lý khu công nghiệp, khu
chế xuất và khu kinh tế, số lượng lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam năm
2010 là 56.929 người tăng 2,7% so với năm 2009; Năm 2011 tăng lên đến 78.440
người tăng so với năm 2010 là 32,52% và trong 7 tháng đầu năm 2012 tỷ lệ này
giảm 1,7%. Lực lượng Lao động nước ngoài vào Việt Nam tập trung ở một số
thành phố lớn, TP. Hồ Chí Minh là nơi có số LĐNN đông nhất chiểm 23,43%, tiếp
đó là Hà Nội có khoảng 12,73%.
Bảng số 2. Một số địa phương có số lượng lớn lao động nước ngoài
ST

Tỉnh/ TP

T
1

TP Hồ Chí
Minh

Tổng
số( người)

Tỷ lệ trên tổng

số LĐNN(%)

18.065

23,43

2

Hà Nội

9.812

12,73

3

Kiên Giang

9.696

12,58

4

Bình Dương

8.654

11,23


5

Đồng Nai

5.943

7,71

6

Quảng Ninh

2.301

2,98

7

Bắc Ninh

2

2,56

8

Hải Phòng

2.732


3,54

g


9
10

Bà Rịa –
Vũng Tàu
Hải Dương

1.431

1,86

1.138

1,48

Nguồn: Tổng hợp số liệu báo cáo của các Sở LĐTBXH tại thời điểm tháng 7
năm 2012



Vấn đề lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam cũng tồn tại nhiều cơ hội
và thách thức, trước hết, những cơ hội do đối tượng lao động này mang lại:
Một là, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần nâng cao năng
suất lao động xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
Hai là, tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài

vào Việt Nam.
Ba là, tạo môi trường cạnh tranh giữa lao động Việt Nam với lao động nước
ngoài.
Bốn là, góp phần đào tạo nhân lực tại chỗ theo tương tác thẩm thấu.



Bên cạnh những cơ hội, lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam kéo theo
nhiều tác động tiêu cực, nhiều thách thức như:
Một là, làm giảm thu nhập yếu tố thuần (NX) trong tổng thu nhập quốc gia
(GNI). Người lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc họ có thu nhập và được
chuyển về nước phần thu nhập còn lại. Chính điều này làm giảm thu nhập yếu tố
thuần trong tổng thu nhập quốc gia; kết quả là làm giảm tổng thu nhập quốc gia.
Hai là, du nhập lối sống và văn hoá ngoại lai không phù hợp với thuần
phong, mỹ tục của người Việt, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức, văn hoá truyền
thống. Một số lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc, họ mang theo văn hoá
của dân tộc và đất nước họ. Cùng với những yếu tố văn minh, hiện đại; đồng thời
họ cũng mang theo lối sống, văn hoá độc hại không phù hợp với thuần phong, mỹ
tục và bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam đến từ hơn 60 quốc gia, trong đó,
khoảng 58% mang quốc tịch châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,


Malaysia…), mang quốc tịch châu Âu chiếm khoảng 28,5% (Anh, Pháp…) và các
nước khác chiếm khoảng 13,5%.

Về trình độ học vấn phản ánh nhu cầu lao động nước ngoài trình độ cao để
bù đắp “khoảng trống” của thị trường lao động trong nước. Có 82,6% LĐNN trong
mẫu khảo sát có trình độ đại học trở lên và gần 6% có trình độ cao đẳng và cao
đẳng nghề.

Tuy nhiên vẫn có một tỷ lệ nhỏ là nghệ nhân, thợ lành nghề của các nghề
truyền thống, còn lại là nhóm LĐNN không đủ điều kiện vẫn vào Việt Nam làm
việc theo kênh phi chính thức
Tóm lại,Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc thúc đẩy đầu
tư của các doanh nghiệp nước ngoài và thương mại quốc tế, thực trạng dòng lao
động nước ngoài tại Việt Nam đến từ nhiều châu lục khác nhau cũng tăng lên. Lực
lượng này đã bổ sung cho thị trường lao động trong nước trong khi nguồn nhân lực
nội địa chưa đáp ứng được. Lao động nước ngoài đã đóng góp vào sự phát triển và
tăng trưởng kinh tế nước ta, Tuy nhiên, lực lượng này cũng đã mang đến không ít
những hệ lụy trong quản lý thị trường lao động như lao động không xin giấy phép,
không gia hạn giấy phép, làm việc không đúng trình độ đã được cấp phép; tình
hình an ninh trật tự, sự hiểu biết pháp luật và phong tục Việt nam chưa cao…
3.2 Di dân
Di dân là một thuật ngữ mô tả quá trình di chuyển dân số hoặc quá trình con
người rời bỏ hoặc hội nhập, hoặc thiết lập nơi cư trú mới vào một đơn vị hành
chính - địa lý trong một thời gian nhất định. Di dân có thể liên quan đến sự di
chuyển của một hay cá nhân, một gia đình, thậm chí cả một cộng đồng.


Quy mô di dân quốc tế diễn ra ngày càng lớn, tác động to lớn làm thay đổi
nhân khẩu, phân bố lao động, cơ cấu giới ở từng địa phương và trên phạm vi cả
nước. Hình thái di dân quốc tế cũng đa dạng hơn từ di dân lao động, di dân hôn
nhân, di dân du lịch - giải trí, di dân truyền giáo và thụ giáo đến di dân tự do xuyên
biên giới......
Việc di dân từ nước này sang nước khác làm ảnh hưởng rất nhiều đến số
lượng dân số và lực lượng lao động ở cả hai bên. Cụ thể nước có luồng di dân đến
số lượng lao động và lượng dân số sẽ tăng lên đáng kể, còn nước luồng di dân đi số
lượng lao động giảm xuống, kéo theo dân số giảm
Theo số liệu của Tổ chức Di cư quốc tế (IMO) lấy từ nguồn dữ liệu của Vụ
Liên hiệp quốc về vấn đề kinh tế và xã hội (UN DESA), từ năm 1990 đến năm

2015 có 2.558.678 người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Như vậy tính trung bình
trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100 nghìn người Việt di cư ra nước ngoài.
Di dân cũng ảnh hưởng tới cung lao động hiện tại và cung lao động tiềm
năng. Di dân lập tức làm thay đổi cung lao động hiện tại của đất nước có luồng di
dân đi (làm giảm). Hoạt động di dân thường diễn ra do con người cảm thấy không
thể có điều kiện sống tốt ở nơi cũ nên có nhu cầu chuyển đến nơi mới, dễ tìm việc
làm hơn. Nên hoạt động di dân thường thường kéo theo nước có luồng di dân đến
sẽ tăng lượng cung lao động hiện tại.
Các hình thái di cư của công dân Việt Nam ngày càng đa dạng và phức tạp,
quy mô di cư ngày càng gia tăng.
Hầu hết người Việt Nam di cư đến các nước phát triển, trong đó tập trung
đông nhất là ở Mỹ (hơn 1,3 triệu người), Pháp (125,7 nghìn người), Đức (gần 113
nghìn người), Canada (182,8 nghìn người), Úc (227,3 nghìn người), Hàn Quốc
(114 nghìn người),...


Tại các nước Đông Âu, và một số nước châu Á như Lào, Campuchia,
Malaysia mỗi nước có khoảng trên 10.000 người Việt di cư đến đây. Cũng theo tổ
chức này, trong năm 2015, 2,67% công dân Việt Nam sinh sống tại nước ngoài.
Điều này cho thấy quy mô di cư ở Việt Nam ngày càng tăng, dẫn đến việc
cung lao động Việt Nam ngày càng giảm đi.
Xét về cung lao động tiềm năng, nước có luồng di dân đi sẽ bị giảm. Là do
cung lao động hiện tại cũng là cung lao động tiềm năng, nếu di dân cả một gia đình
hay cộng đồng vấn đề này càng được thể hiện rõ hơn. Ngược lại nước có luồng di
dân đến cung lao động tiềm năng sẽ tăng lên
Tính đến tháng 12-2014, cả nước có 76.309 lao động nước ngoài đang làm
việc. Trong đó, số lao động không thuộc diện cấp phép lao động là 5.610 người,
chiếm 7,35%. Lao động nước ngoài đến từ 74 quốc gia (người có quốc tịch châu Á
chiếm 58%, quốc tịch châu Âu chiếm 28,5%)
Như vậy nguồn cung lao động tiềm năng ở Việt Nam vẫn ở mức thấp. Trong

khi lao động Việt nam di cư sang nước ngoài thì lại chiếm số lượng lớn.
3.3 Di chuyển thể nhân
Di chuyển thể nhân: Là sự di chuyển của cá nhân từ nước này qua nước khác
để cung cấp một dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định.
Cho đến nay Việt Nam đã ký hiệp định miễn thị thực cho người mang hộ
chiếu ngoại giao, công vụ, phổ thông với 74 nước trên thế giới, góp phần tạo điều
kiện thuận lợi cho con người trong việc di chuyển để giao lưu, hội nhập và phát
triển kinh tế xã hội.
- Như vậy các nhân sự có chuyên môn cao có thể tự do luân chuyển công
việc từ quốc gia này tới bất kỳ quốc gia nào khác trong khối.
- Điều này tác động đến lượng di chuyển thể nhân từ các nước sang Việt
Nam. Với những rào cản thủ tục hành chính gần như bằng 0 như vậy sẽ có khả


năng nhiều nhân sự cấp cao có kinh nghiệm và chuyên môn tốt sẽ tìm đến các
doanh nghiệp lớn, bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu tại Việt Nam.
- Tuy nhiên, xét ở chiều ngược lại, các nhân sự tốt ở Việt Nam cũng có thể
rời doanh nghiệp để sang một quốc gia khác tìm việc làm có thu nhập cao hơn, môi
trường làm việc tốt hơn, dễ đẫn đến hiện tượng “chảy máu chất xám”. Việc này đòi
hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải có những chính sách hợp lí nhằm giữ chân
nhân sự.
Tù đó là giảm cung lao động thực tế giảm cung tiền ẩn sẽ giảm ở nước di
chuyển nhưng chỉ ở trong thời gian ngắn.



×