Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Vốn xã hội trong sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình người ê đê ở xã ea tu, thành phố buôn ma thuột, tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 105 trang )

LÊ THỊ HỒNG GÁI

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ HỒNG GÁI

XÃ HỘI HỌC

VỐN XÃ HỘI TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
CỦA HỘ GIA ĐÌNH NGƯỜI Ê – ĐÊ Ở XÃ EA TU,
THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
KHÓA VI- ĐỢT I/2015
HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ HỒNG GÁI

VỐN XÃ HỘI TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
CỦA HỘ GIA ĐÌNH NGƯỜI Ê – ĐÊ Ở XÃ EA TU,
THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 03 01.



LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN ĐỨC CHIỆN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực. Các kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào. Luận văn có thừa kế kết quả nghiên cứu của
một số nghiên cứu khác dưới dạng trích dẫn. Nguồn trích dẫn được liệt kê trong
mục tài liệu tham khảo.

Người thực hiện

Lê Thị Hồng Gái


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn “Vốn xã hội trong sản xuất nông nghiệp
của hộ gia đình người Ê-đê ở xã Ea Tu, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk”
tôi đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ của rất nhiều người, nhiều tổ chức.
Trước hết, xin dành lời trân trọng cảm ơn đến PGS.TS. Nguyễn Đức Chiện người thầy đã chia sẻ cho tôi những ý kiến quý báu về khoa học, định hướng, chỉ
bảo tận tình để tôi hoàn thành luận văn đúng thời hạn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Xã hội học, Học viện
Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã giảng dạy, cung cấp

các kiến thức, kỹ năng nghiên cứu để tôi có thể thực hiện nghiên cứu này.
Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của Lãnh đạo Viện Khoa học xã hội vùng
Tây Nguyên, sự chia sẻ, giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị, bạn bè đồng nghiệp đã
giúp cho tôi thực hiện luận văn này một cách thuận lợi.
Cuối cùng, cảm ơn các cô, chú, bác anh chị, làm việc tại UBND xã Ea Tu,
các bác trưởng, phó buôn, trưởng các Đoàn thể và toàn thể người dân ở buôn Ju và
buôn Ea Nao A đã chia sẻ, cung cấp tài liệu để tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 24 tháng 02 năm 2016
Người thực hiện

Lê Thị Hồng Gái


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ........................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 14
4. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu ........................................................ 15
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................................. 15
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .......................................................... 19
7. Cơ cấu của luận văn............................................................................................ 20
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................. 21
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 21
1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và thực trạng sản xuất nông nghiệp xã Ea
Tu……….. .............................................................................................................29
1.3. Tiểu kết ........................................................................................................... 33
Chương 2. SỬ DỤNG VỐN XÃ HỘI TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
CỦA HỘ GIA ĐÌNH NGƯỜI Ê-ĐÊ ..................................................................... 35
2.1. Loại hình mạng lưới xã hội của hộ gia đình .................................................. 35

2.2. Sử dụng vốn xã hội trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp .....................50
2.3. Tiểu kết ........................................................................................................... 65
Chương 3. TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐẾN SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH NGƯỜI Ê-ĐÊ .................................................... 67
3.1. Tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội đến sản xuất nông nghiệp của hộ gia
đình……………………………………………………………………………….67
3.2. Liên kết mạnh và liên kết yếu của vốn xã hội đối với các hộ gia đình .......... 74
3.3. Tiểu kết ........................................................................................................... 77
KẾT LUẬN………………………………………………………………………79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Viết tắt
CSXH
MLXH
PVS
TĐHV

THCS
THPT
Tr.
UBND
VXH

Viết đầy đủ
Chính sách xã hội
Mạng lưới xã hội
Phỏng vấn sâu
Trình độ học vấn
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trang
Ủy ban Nhân dân
Vốn xã hội


DANH MỤC BẢNG
Bảng
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng 2.8
Bảng 2.9
Bảng 2.10

Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3

Tên bảng
Tham gia của hộ gia đình vào các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương
Sự tham gia của hộ gia đình vào các hội, nhóm tự
nguyện
Sự trợ giúp khi gặp rủi ro trong sản xuất nông
nghiệp của các hộ gia đình
Mức độ tin tưởng của hộ gia đình trong các liên kết
mạng lưới xã hội
Mối quan hệ giữa nhóm tuổi với việc tham gia vào
hội nghề nghiệp
Mối quan hệ giữa trình độ học vấn của chủ hộ với
sự tham gia vào các hội/nhóm tự nguyện
Mối quan hệ giữa mức sống hộ gia đình với sự
tham gia vào các hội/nhóm tự nguyện
Mối quan hệ giữa quy mô gia đình với sự tham gia
vào các hội/nhóm tự nguyện
Mối quan hệ giữa nghề nghiệp với sự tham gia vào
các hội/nhóm
Nguồn vay vốn của các hộ gia đình người Ê-đê
Tác động tích cực của vốn xã hội đến hoạt động sản
xuất nông nghiệp của hộ gia đình
Tác động tiêu cực của vốn xã hội đến hoạt động sản
xuất nông nghiệp của hộ gia đình
Liên kết mạnh và liên kết yếu của vốn xã hội đối
với các hộ gia đình


Trang
37
39
41
44
46
47
48
48
49
56
68
70
75


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HỘP
Tên biểu đồ, hộp

Biểu đồ, hộp

Trang

Sử dụng mạng lưới xã hội trong tư vấn hoạt động
Biểu đồ 2.1
Biểu đồ 2.2

sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình
Sử dụng mạng lưới xã hội trong hoạt động vay
vốn của hộ gia đình


Biểu đồ 2.3
Biểu đồ 2.4
Biểu đồ 2.5

Hộp 2.1

Hộp 2.2

Hộp 2.3

50

55

Sử dụng mạng lưới xã hội của hộ gia đình trong
khâu làm đất, gieo trồng và chăm sóc

59

Sử dụng mạng lưới xã hội trong hoạt động thu
hoạch sản phẩm của hộ gia đình

60

Sử dụng mạng lưới xã hội trong tìm kiếm thị
trường tiêu thụ của hộ gia đình

63


Sử dụng mạng lưới xã hội trong tư vấn hoạt động
sản xuất nông nghiệp

51

Sự hỗ trợ về vốn của Hội Nông dân và hội Phụ nữ
buôn Ju

54

Mạng lưới xã hội trong khâu chọn giống, gieo
trồng và chăm sóc

57

Hộp 2.4

Mạng lưới xã hội trong khâu thu hoạch

61

Hộp 2.5

Mạng lưới xã hội trong khâu tiêu thụ sản phẩm

62

Hộp 2.6

Hộp 3.1


Mô hình liên kết với công ty liên doanh chế biến cà
phê Đăk Man

64

Câu chuyện về tính khép kín, cục bộ gia đình,
dòng họ làm kìm hãm sự phát triển

71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong khoảng 2 thập kỷ gần đây, các nghiên cứu về vốn xã hội (VXH) ngày
càng gia tăng, nhiều học giả trong và ngoài nước đã sử dụng khái niệm VXH và
phát triển những lý thuyết để xem xét các tác động của nguồn vốn này đến sự phát
triển. VXH được coi là chất kết dính các thành phần xã hội lại với nhau, là môi
trường mà trong đó các thể chế có thể tạo nên những liên kết. VXH cùng với các
nguồn lực khác như vốn vật chất, vốn con người, vốn kinh tế,… là yếu tố tiềm năng
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phúc lợi của con người qua đó tạo nên những
hiệu ứng cho sự phát triển xã hội. Có thể nói, VXH có vai trò rất quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế, xã hội và việc nghiên cứu về VXH là cần thiết cho quá trình
phát triển nói chung, gắn với sự phát triển của các dân tộc thiểu số nói riêng.
Ê-đê là một trong 12 dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên, cư trú chủ yếu ở
tỉnh Đắk Lắk, chiếm 17% tổng dân số của tỉnh, cư trú ở hầu khắp các huyện, thành
phố, thị xã. Ở thành phố Buôn Ma Thuột người Ê-đê chiếm 11,2% dân số, tập trung
ở các xã Ea Tu, Ea Kao, Cư Ebur, Ea Tam, trong đó, Ea Tu là xã có người Ê-đê cư
trú đông nhất, chiếm 18,4% tổng dân số người Ê-đê ở thành phố Buôn Ma Thuột và
chiếm 47% tổng dân số toàn xã. Xã Ea Tu sản xuất nông nghiệp là chủ đạo, chiếm

85% tỷ trọng kinh tế toàn xã [38].
Người Ê-đê ở Ea Tu từ truyền thống đến nay vẫn duy trì nền sản xuất nông
nghiệp, tuy nhiên đã có sự chuyển biến về cơ cấu nông nghiệp cho phù hợp với nền
kinh thị trường hiện nay. Là xã hội nông nghiệp, đề cao tính cộng đồng trong ứng
xử, các mối quan hệ của họ gắn với gia đình, dòng họ, cộng đồng. Tuy nhiên, hiện
nay, quá trình di cư của các các lớp người từ nơi khác đến cùng với sự tác động của
kinh tế thị trường,… đã có tác động rất lớn đối với họ cả về kinh tế, văn hóa và xã
hội. Với một nền kinh tế thị trường đầy biến động và trước những biến đổi mạnh mẽ
về kinh tế, xã hội trong thập kỷ qua, người Ê-đê đang đứng trước nhiều thách thức
cũng như những cơ hội trong quá trình phát triển kinh tế. Chính vì vậy, họ cần thiết
phải tạo ra những nguồn lực hỗ trợ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của mình.

1


Trước đây, nguồn vốn chủ yếu trong các hoạt động kinh tế là vốn vật chất và vốn tài
chính. Tuy nhiên, hiện nay, trong nền kinh tế thị trường người ta thấy cần thiết phải
có thêm những nguồn vốn khác như: VXH, vốn con người, vốn văn hóa,… trong quá
trình sản xuất, trong đó, VXH ngày càng có vai trò quan trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp hộ gia đình.
VXH ở người Ê-đê là các mối quan hệ gia đình, dòng họ, cộng đồng làng; các
tổ chức xã hội và các quan hệ xã hội mà họ có, bên cạnh đó là lòng tin, là chuẩn mực
mà các cá nhân thể hiện trong các mối quan hệ của họ cũng như quá trình mà họ tham
gia vào các hoạt động xã hội. Vấn đề đặt ra là: Người Ê-đê đã sử dụng VXH như thế
nào trong quá trình phát triển kinh tế? Việc sử dụng VXH có tác động gì trong hoạt
động sản xuất nông nghiệp của họ? Là những câu hỏi cần có lời giải đáp.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về VXH và
cũng có rất nhiều nghiên cứu về dân tộc Ê-đê ở Đắk Lắk, song nghiên cứu chuyên
sâu về VXH trong cộng đồng người Ê-đê nói riêng và VXH trong cộng đồng các
dân tộc thiểu số nói chung còn vắng bóng. Vì vậy, nghiên cứu này của chúng tôi

vừa có ý nghĩa lý luận trong việc lần đầu nghiên cứu về VXH của một tộc người cụ
thể ở Tây Nguyên, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong việc giúp cho chính quyền địa
phương đánh giá, xem xét trong công tác hoạch định chính sách phát triển nhằm rút
ngắn khoảng cách giữa người Ê-đê với các nhóm dân cư khác trên địa bàn.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Vốn xã hội trong sản xuất
nông nghiệp của hộ gia đình người Ê-đê ở xã Ea Tu, thành phố Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Nghiên cứu ngoài nước
Ở các nước phát triển, VXH được quan tâm nghiên cứu sớm hơn ở Việt Nam,
từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, hướng nghiên cứu này đã được
quan tâm. Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về VXH được tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau. Tuy nhiên, do những hạn chế về nguồn lực, chúng tôi chỉ tiếp cận được
một số bài viết, nghiên cứu cơ bản sau.

2


Những nghiên cứu khởi nguồn về lý thuyết, khái niệm, các quan điểm khác
nhau về VXH mà sau này chúng ta kế thừa, làm nền tảng cho các nghiên cứu về
VXH không thể không kể đến Bourdieu, Coleman; Putnam, Fukuyama,… Dưới đây
là một số các quan điểm của các tác giả dẫn theo nghiên cứu của Trần Hữu Quang
(2014) [26].
Trong nghiên cứu của mình vào năm 1980, Bourdieu đã du nhập khái niệm
vốn (capital) của lĩnh vực kinh tế vào lĩnh vực xã hội học để phân tích quá trình
lưu thông của các loại tài sản khác nhau trong không gian xã hội. Ngoài vốn kinh tế,
ông còn phân biệt thêm ba loại vốn nữa là vốn văn hóa, VXH và vốn biểu tượng.
Theo đó, VXH được định nghĩa là một “mạng lưới lâu bền bao gồm các mối liên hệ
quen biết nhau và nhận ra nhau, ít nhiều đã được định chế hóa” và “khối lượng
VXH của một tác nhân cụ thể nào đó phụ thuộc vào mức độ liên hệ rộng hay hẹp

mà anh ta có thể huy động được trong thực tế” [26, tr.50]. Hạn chế của Bourdieu là
ông nhấn mạnh đến VXH của một cá nhân chứ không đề cập đến VXH của gia đình
hay cộng đồng.
Năm 1990, nhà xã hội học người Mỹ Coleman đưa ra một cách định nghĩa về
VXH khác với Bourdieu, ông hiểu VXH bao gồm các đặc trưng trong đời sống xã
hội như sau: các MLXH (social network), các chuẩn mực (norms) và sự tin cậy
trong xã hội (social trust) - là những cái giúp cho các thành viên có thể hành động
chung với nhau một cách có hiệu quả nhằm đạt tới mục tiêu chung [26, tr.51]. Năm
1995, Putnam đã lặp lại ý tưởng của Coleman và đưa ra định nghĩa trong nghiên
cứu Chơi Bowling một mình (Bowling Alone): Hiểu một cách tương tự như vốn vật
thể và vốn con người, VXH nói tới những khía cạnh đặc trưng của tổ chức xã hội
như các MLXH, các chuẩn mực và sự tin cậy xã hội vốn tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phối hợp và sự hợp tác nhằm đạt đến lợi ích hỗ tương” [26, tr.52].
Như vậy, trong khi Bourdieu nhấn mạnh đến VXH với tư cách là một tài sản
của mỗi cá nhân, bỏ qua tính cộng đồng thì ngược lại Coleman và Putnam lại hiểu
VXH như là một thứ tài sản chung của cả cộng đồng hay xã hội mà bỏ quên những
nỗ lực của cá nhân.

3


Bên cạnh các nghiên cứu lý thuyết trên, khá nhiều các nghiên cứu khác đề cập
đến vai trò của VXH đối với kinh tế và đời sống con người. Vai trò của VXH trong
phát triển kinh tế được khẳng định bởi Woolcock (1998) qua nghiên cứu Vốn xã hội
và phát triển kinh tế: Hướng tới sự tổng hợp một lý thuyết và khung chính sách. Tác
giả này nhấn mạnh VXH có vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn lực nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu Nguồn vốn xã hội và phát triển kinh tế của
Patrick Francois (2010) đã phân tích những vấn đề lý thuyết về VXH và phát triển kinh
tế, mối quan hệ giữa các cá nhân trong doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với nhau,
những vấn đề lý luận liên quan đến niềm tin, uy tín, sự đoàn kết trong nội bộ doanh

nghiệp,… Tuy vậy, đối tượng hướng đến của hai tác giả này là các doanh nghiệp ở các
nước phát triển chứ không đề cập đến kinh tế nông nghiệp ở các vùng nông thôn.
Dưới một góc nhìn khác, Grootaers (1999) qua nghiên cứu Vốn xã hội với sự
thịnh vượng và đói nghèo của các hộ gia đình ở Indonesia đã phân tích vai trò của
VXH trong lĩnh vực kinh tế vi mô. Tác giả này chỉ ra rằng, VXH đã làm giảm khả
năng rơi vào đói nghèo của các hộ gia đình ở Indonesia và cho rằng VXH mang lại
lợi ích lâu dài trong việc tiếp cận dịch vụ tín dụng để tạo thu nhập ổn định cho các
hộ gia đình. Nghiên cứu này đã quan tâm đến VXH của hộ gia đình và việc vận
dụng nó vào công tác giảm nghèo của họ.
Francis Fukuyama (2001) Vốn xã hội, xã hội dân sự và phát triển đã đề cập tới
mối quan hệ giữa VXH và xã hội dân sự. Ông cho rằng VXH là những chuẩn mực
không chính thức thúc đẩy sự hợp tác giữa các cá nhân, theo ông, trong các hoạt động
kinh tế, mỗi cá nhân sẽ giảm được chi phí giao dịch nhờ vào VXH giữa họ. Tuy nhiên,
một trong những hạn chế của ông là chỉ đề cập đến chuẩn mực phi chính thức mà bỏ
qua chuẩn mực chính thức. Trong một nghiên cứu khác của ông Vốn xã hội và phát
triển: Chương trình nghị sự sắp tới (2002) đã nhấn mạnh đến tính tích cực của VXH.
Ông chỉ ra cách mà VXH đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đã
lấy dẫn chứng cụ thể rằng VXH đã giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhiều
doanh nghiệp ở Mỹ Latinh. VXH cũng giúp cho nhiều người vượt ra khỏi những khó
khăn trong bối cảnh suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng ở khu vực này.

4


Alejandro Portes (2003) qua nghiên cứu Vốn xã hội: nguồn gốc và những áp
dụng trong xã hội học hiện đại đã chỉ ra nguồn gốc của VXH nằm ngay trong cơ
cấu quan hệ xã hội của họ chứ không phải ở bản thân họ và nguồn gốc cuối cùng
của VXH là sự liên kết xã hội và ràng buộc, quy chế xử, phạt trong các nhóm/cộng
đồng. Tác giả cũng đề cập đến những hệ quả tác động của VXH thông qua phân tích
một số ví dụ về những tác động tích cực và tác động tiêu cực của VXH đến con

người, kinh tế, xã hội trong nhiều bối cảnh khác nhau. Tuy nhiên, ông chưa nghiên
cứu sâu về sự áp dụng VXH vào các hoạt động phát triển kinh tế hộ gia đình.
Về mặt phương pháp: Trần Hữu Quang cho rằng, vì tính chất tổng hợp và
phức tạp của khái niệm này nên khó lòng đo lường hay định lượng hóa được VXH
mà chỉ có thể đề cập đến nó về mặt định tính. Tuy vậy, vẫn có thể đo lường và định
lượng những biểu hiện bên ngoài của nó như sự tin cậy, sự hợp tác, sự tham gia
vào các hội đoàn và MLXH [26].
Tóm lại, những nghiên cứu trên cũng tập trung đã đưa ra những quan điểm, lý
thuyết, khái niệm VXH và vai trò của VXH trong phát triển kinh tế, sức khỏe, xóa
đói giảm nghèo và đời sống xã hội của con người.
2.2. Nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, kể từ đầu những năm 2000, giới nghiên cứu đã bắt đầu chú ý
đến VXH như một yếu tố cho phát triển và được nghiên cứu rầm rộ trong những
năm gần đây. Các nghiên cứu được thể hiện chủ yếu dưới dạng các bài báo, bài viết
đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành hoặc các webside, các luận văn, luận án, các
công trình nghiên cứu chủ yếu là nghiên cứu trường hợp nhỏ chứ hầu như chưa có
nghiên cứu tổng quan, bao trùm về vấn đề này.
Đến nay, có thể chia các nghiên cứu về VXH trong nước thành 2 nhóm. Nhóm
thứ nhất, quan tâm đến việc tổng kết, giới thiệu lý thuyết về VXH và nhóm thứ hai, tập
trung vận dụng lý thuyết VXH trong các nghiên cứu thực tiễn ở Việt Nam.
2.2.1. Các nghiên cứu về lý thuyết, khái niệm vốn xã hội

5


Các nghiên cứu tập trung nhiều đến việc đưa ra các quan điểm khác nhau về
khái niệm VXH của các tác giả trong và ngoài nước, từ đó, đưa ra đánh giá, kết luận
của bản thân về vấn đề đó.
Điển hình cho những nghiên cứu lý thuyết giai đoạn khởi nguyên là Trần
Hữu Dũng (2003) trong nghiên cứu này, ông đã tổng kết lại các khái niệm VXH của

các tác giả nước ngoài như Pierre Bourdieu; James Coleman; Robert Putnam;…
trên cơ sở đó có sự so sánh quan điểm của các tác giả. Tác giả cũng đề cập đến mối
liên hệ giữa VXH và kinh tế như là sự dự báo về nguồn lực này đối với sự phát triển
kinh tế [14].
Đặc biệt, trong bối cảnh nghiên cứu về VXH còn mang tính mới mẻ, hội thảo
khoa học “Vốn xã hội trong phát triển” do Tạp chí Tia Sáng - Bộ Khoa học và
Công nghệ tổ chức vào ngày 24 tháng 6 năm 2006 được xem là cuộc hội thảo đầu
tiên - chính thức ở Việt Nam đã được đông đảo các học giả, trí thức khoa học,
những nhà kinh tế có uy tín trong và ngoài nước tham dự. Các tác giả đã giới thiệu,
tập trung làm rõ khái niệm VXH cùng với những dạng thức tồn tại, vai trò của nguồn
vốn này trong bối cảnh Việt Nam. Trần Hữu Dũng một lần nữa chỉ ra mối liên hệ giữa
VXH và phát triển kinh tế [15]; Nguyễn Quang A hình dung VXH là khả năng của
các tài sản xã hội nằm trong các mối quan hệ, trong MLXH. Các tài sản xã hội có
thể là các định chế như gia đình, nhóm, câu lạc bộ, hiệp hội, hệ thống an sinh xã
hội, hay các tài sản vô hình như hệ thống luật pháp, các tập quán,… [1]. Cũng như
các tác giả trên, Nguyễn Ngọc Bích đã tóm lược các điểm chính theo một số nhà
nghiên cứu trên thế giới. Sau đó đề cập đến sự nghiên cứu của Fukuyama và liên hệ
một số điểm chính yếu của ông với thực tế của nước ta để tìm xem VXH của chúng
ta cao hay thấp. Liên hệ với sự phát triển kinh tế ông cho rằng, nguồn vốn này sẽ
làm giảm chi phí khi thực hiện các công việc, các giao dịch kinh tế [8].
Trong hội thảo này, một số bài viết đã đề cập đến tính hai mặt của VXH, đó là
hướng đến sự phát triển hay thiên về tính bảo tồn, kìm hãm phát triển, có thể làm hài
hòa lợi ích của mọi thành viên trong cộng đồng nhưng cũng có thể tạo nên xung đột
giữa các cộng đồng [26]. Vấn đề lòng tin, cơ sở để tạo ra VXH cũng được quan tâm

6


phân tích với các chiều cạnh khác nhau [26,tr.50]. Tuy nhiên, tất cả những công trình
này chủ yếu tiếp cận ở tầm vĩ mô, các minh chứng cho nguồn VXH trong bối cảnh Việt

Nam chủ yếu được dựa trên cơ sở lý luận, những sự kiện trong lịch sử và những nhận
xét về các quan sát hiện thực trong cuộc sống. Nhiều tác giả khác như Nguyễn Đăng
Doanh, Trần Kiêm Đoàn, Nguyễn Trung, Thái Kim Lai, Đoàn Khắc Xuyên,… đều có
những nhận định về VXH và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế dưới góc nhìn từ
thực tiễn Việt Nam.
Trần Hữu Quang (2006) trong Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội cũng dựa trên
cách định nghĩa của các tác giả kinh điển như Piere Buordieu, James Coleman,
Robert Putnam,… để giải nghĩa VXH và theo ông, VXH thường được định nghĩa
xoay quanh ba yếu tố có liên hệ mật thiết với nhau là: khả năng làm việc chung với
nhau; sự tin cậy giữa con người với nhau và các MLXH. Sau đó, ông cũng đi vào
phân tích các kích thước văn hóa và định chế của VXH và cho rằng mỗi xã hội có
những kiểu liên kết đặc thù giữa con người với con người, do đó mỗi xã hội có thể
có một kiểu VXH riêng biệt, không giống với VXH ở các xã hội khác [24].
Trong mấy năm gần đây, các nghiên cứu lý thuyết vẫn tiếp tục được đem ra
mổ xẻ, bàn luận. Nguyễn Tuấn Anh (2011) đã lược sử những quan điểm khác nhau
về VXH và cho rằng, sự bất đồng giữa các quan điểm về VXH bên cạnh thuận lợi
nó cũng tạo ra những khó khăn trong việc thao tác và ứng dụng vào nghiên cứu thực
tiễn. Tác giả cũng đã chỉ ra tác động hai chiều của nguồn vốn này đến con người,
đời sống xã hội và sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng điểm qua một số
nghiên cứu ở Việt Nam và đưa ra một số vấn đề cần quan tâm, lưu ý khi nghiên cứu
VXH ở Việt Nam [6]. Mới đây nhất là cuốn sách Lòng tin và vốn xã hội (2014)
được xuất bản là sự tổng hợp các bài viết của nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về
VXH như: Trần Hữu Quang quan tâm đến thành tố lòng tin; Lê Minh Tiến quan tâm
đến vấn đề đo lường; Lương Văn Hy đề cập đến dòng quà tặng - một trong những
hình thức đầu tư, duy trì VXH phổ biến trong xã hội Việt Nam đương; Nguyễn Đức
Lộc đề cập đến vai trò của mạng lưới thân thuộc trong ứng phó với rủi ro của công
nhân,… Tóm lại, các bài viết đều quan tâm đến việc phân tích và đo lường khái

7



niệm VXH, xem xét cấu trúc của nó trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Một số bài
viết đã có sự vận dụng vào thực tiễn ở các cộng đồng dân cư, ở tầng lớp công nhân
ở nước ta [26].
Nguyễn Vũ Quỳnh Anh (2014) đã vận dụng lý thuyết VXH trong nghiên cứu
vai trò của nó đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. Theo đó, tác giả đã vận
dụng 3 lý thuyết: lý thuyết MLXH; lý thuyết VXH của Pierre Bourdieu và lý thuyết
VXH của James Coleman. Việc vận dụng cách tiếp cận VXH trong nghiên cứu này
cho thấy vai trò tích cực cũng như một số hạn chế của VXH trong các hoạt động của
doanh nghiệp. Điều này phụ thuộc vào các loại hình VXH mà các doanh nghiệp tích
lũy được [4].
Gần đây nhất, Nguyễn Quý Thanh và cộng sự đã lần lượt đưa ra 2 công trình
nghiên cứu khá tổng quát của mình cả về lý thuyết và liên hệ thực tiễn về VXH.
Điểm đặc biệt là nghiên cứu này lần đầu tiên đề cập đến vai trò của VXH đối với
các dân tộc thiểu số, trong đó, MLXH, lòng tin và sự tham gia được nhóm nghiên
cứu xem là những thành tố chủ chốt của VXH. Tuy mới chỉ tiếp cận bước đầu
nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đối với các dân tộc thiểu số thì quan hệ gia đình, dòng
họ, cộng đồng là chủ yếu và quan trọng nhất trong MLXH của họ. Đồng thời, lòng tin
và sự tham gia xã hội như là giải pháp nhằm duy trì, củng cố và phát triển VXH trong
cộng đồng các dân tộc thiểu số [27]; [28]. Đây là tư liệu quý giá cho chúng tôi trong
nghiên cứu này cũng như tiếp cận về VXH dưới góc độ tộc người.
2.1.2. Vận dụng lý thuyết vốn xã hội trong các hướng nghiên cứu thực nghiệm
Cho đến nay đã có một số lượng đáng kể nghiên cứu xã hội học thực nghiệm
nhằm lý giải vai trò của VXH trong một số lĩnh vực như di cư, tạo việc làm, doanh
nghiệp hay sự phát triển nguồn nhân lực,…
Chẳng hạn, nghiên cứu của Đặng Nguyên Anh (1998) về MLXH trong di cư.
Thông qua kết quả nghiên cứu định lượng đã cho thấy tác động của MLXH đến người
di cư thể hiện ở quyết định lựa chọn nơi chuyển đến và hình thức trợ giúp về kinh tế
của mạng lưới xã hội [2].


8


Lê Ngọc Hùng cũng là người có nhiều nghiên cứu về VXH trong giai đoạn
đầu, trong một nghiên cứu của ông vào năm 2003, đã đề cập đến lý thuyết và
phương pháp tiếp cận MLXH trong tìm kiếm việc làm của sinh viên. Theo tác giả,
nên sử dụng lý thuyết tương tác xã hội của Georg Simmel, thuyết cấu trúc - chức
năng của Emile Durkheim,... và có thể kết hợp 2 phương pháp định tính và định
lượng trong nghiên cứu. Ở một nghiên cứu khác, ông đã đưa ra mô hình tổng hợp về
VXH, vốn con người và MLXH qua một số nghiên cứu thực tiễn; những phát hiện về
nó qua việc áp dụng trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên đồng thời gợi mở một
số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ở Việt Nam [18], [19].
Khẳng định VXH là động lực phát triển đặc biệt là về kinh tế, Trịnh Hoà
Bình (2007) đã chỉ ra những thuộc tính của VXH, khẳng định vai trò của VXH
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bằng những phân tích từ lịch sử đến hiện
tại, bài viết khẳng định khái niệm VXH có nội hàm rộng, bao chứa nhiều vấn đề cho
đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Trong bài viết của mình, ông khẳng định,
VXH là nguồn lực, còn hơn thế - là động lực để phát triển xã hội [9]. Trong một
nghiên cứu của Ngô Đức Thịnh (2008) dưới góc độ văn hóa, ông cho rằng môi
trường họ hàng thân tộc và làng - xã mãi trường tồn trong xã hội nông thôn Việt
Nam ở cả hiện tại và tương lai, tức là khẳng định vai trò của mạng lưới gia đình dòng họ - cộng đồng trong đời sống và trong phát triển kinh tế. Tuy vậy, tác giả
cũng chỉ ra được mặt hạn chế của mạng lưới này ở nông thôn như tính cục bộ, sự
ganh đua, thiếu sự bứt phá,… và những điều này làm kìm hãm sự phát triển [31].
Hoàng Bá Thịnh (2009) bên cạnh việc nêu rõ chức năng, tầm quan trọng của VXH
trong cộng đồng thì tác giả còn tập trung phân tích những “phí tổn” trong việc duy
trì MLXH và VXH [30].
Nguyễn Thị Minh Phương (2011) qua nghiên cứu định tính và định lượng
cũng bàn về VXH ở một cộng đồng nông thôn và kết quả nghiên cứu cho thấy:
VXH chưa thực sự phát huy được thế mạnh như vốn có, chưa chuyển hóa được
thành các nguồn lực để có thể sinh lợi. Theo tác giả “nếu nhìn theo góc độ tình cảm

thì có lẽ cộng đồng này giàu có VXH. Nhưng nếu nhìn theo góc độ tăng trưởng thì

9


VXH chưa thực sự mạnh”. VXH hiện tại chưa đủ sức để tạo nên những cú hích kinh
tế từ bên trong [23]. Đây là một trong những nhận định khá mới so với những
nghiên cứu đi trước về VXH ở nông thôn. Cùng bàn luận về vai trò của nguồn lực
này, Nguyễn Vũ Quỳnh Anh (2013) cũng đã lần nữa khẳng định vai trò của VXH
đối với kinh tế ở nông thôn cả ở loại hình nông nghiệp và phi nông nghiệp. VXH
giúp người dân nâng cao khả năng tìm kiếm và huy động các nguồn lực để phát
triển kinh tế gia đình. Nghiên cứu này cũng gợi mở rằng, cần xem xét VXH là một
nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn và nhất thiết phải đứng ở cả
hai chiều cạnh tích cực và tiêu cực để có thể phát huy được vai trò to lớn của nó
trong phát triển nông thôn bền vững [3]. Những nghiên cứu trên đây cũng mới chỉ
thấy được vai trò của VXH, tính hai mặt của VXH chứ chưa có những nhận định
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Nghiên cứu về vai trò của VXH đối với doanh nghiệp cũng là một trong
những chủ đề thu hút sự quan tâm, Trần Tú Hoa (2010) qua kết quả nghiên cứu định
tính và định lượng đã chỉ ra được thực trạng của việc sử dụng VXH trong các doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, qua đó, tác giả cũng chỉ ra được những khó khăn trong
việc sử dụng VXH và những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn vốn này trong quá trình
phát triển các doanh nghiệp [17]. Cũng sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu
định tính và định lượng, Nguyễn Vũ Quỳnh Anh (2015) đã bàn về vai trò của VXH
đối với các doanh nghiệp ở nông thôn - là điểm nhấn khá mới có đóng góp vào kho
tàng nghiên cứu thực tiễn về VXH. Trong nghiên cứu này, tác giả nhấn mạnh vào các
MLXH, uy tín và chuẩn mực, giá trị của doanh nghiệp là những thành tố của VXH.
Tác giả cũng đã phân tích khá rõ về vai trò của VXH trong việc phát triển các doanh
nghiệp ở nông thôn đồng thời chỉ rõ một số hạn chế của VXH đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn [5]. Nguyễn Thị Ánh Tuyết cùng các cộng sự (2016)

trong nghiên cứu Vốn xã hội trong phát triển ngành nghề phục vụ xây dựng nông
thôn mới qua kết quả điều tra, khảo sát kết hợp nghiên cứu định lượng và định tính
trên phạm vi cả nước đã khẳng định vai trò quan trọng của VXH trong việc phát triển
các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn Việt Nam và gắn nó với việc huy động cho

10


quá trình xây dựng nông thôn mới [33]. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ giới
hạn nghiên cứu với khách thể là các doanh nghiệp, với ngành nghề phi nông nghiệp
chứ chưa đề cập đến vai trò của VXH đối với những người sản xuất nông nghiệp ở
khu vực nông thôn.
Quan tâm đến vai trò của VXH đối với sinh kế của người dân ở đô thị, bài
viết của Nguyễn Duy Thắng (2007) đã chỉ ra được thực trạng sử dụng những
MLXH, uy tín của những mối quan hệ cá nhân trong chiến lược sinh kế của các cư
dân ven đô trước ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình đô thị hóa [32]. Tác giả Nguyễn
Thị Bích Thủy (2015) lại hướng đến một khách thể khác là những người nhập cư một trong những đối tượng đặc thù ở các đô thị hiện nay là điểm mới ấn tượng.
Nghiên cứu đã phân tích rõ vai trò của VXH với người nhập cư từ khi có ý định di
cư đến khi tìm việc việc làm, chỗ ở tại nơi ở mới và cách thức mà họ xây dựng, phát
triển các quan hệ xã hội của họ. Lòng tin và sự có đi - có lại được nhấn mạnh trong
nghiên cứu này và tác giả cho rằng nó là rường cột để phát triển các MLXH hay
VXH với người nhập cư [35].
Trịnh Thị Ngọc Diệp (2014) qua nghiên cứu định tính và định lượng đã có
điểm nhấn mới trong nghiên cứu về VXH khi quan tâm đến vai trò của nguồn vốn
này đối với sự phát triển nguồn nhân lực trẻ. Theo đó, tác giả đã phân tích thực
trạng sử dụng VXH; những tác động tích cực và tác động tiêu cực của VXH cũng
như những yếu tố tác động đến VXH của nguồn nhân lực trẻ ở Nghệ An. Hạn chế
của nghiên cứu này là chỉ nghiên cứu nguồn nhân lực trẻ làm việc ở khu vực Nhà
nước tại đô thị chứ chưa quan tâm đến nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn - một trong
những nguồn cung lao động lớn [12].

Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2015) trong nghiên cứu mới nhất của mình cũng đã
bàn về vai trò của VXH trong chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp của người lao động
ở nông thôn đồng bằng sông Hồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy rõ, vai trò của các
MLXH mà cụ thể là các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nhóm tự nguyện, bạn bè,
gia đình,… là đầu mối quan trọng trong việc chuyển đổi nghề nghiệp của mỗi cá
nhân. Tác giả cũng phân tích khá rõ những yếu tố tác động đến VXH của các cá

11


nhân trong bối cảnh nông thôn đồng bằng sông Hồng đang trong thời kỳ chuyển đổi
mạnh mẽ từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp [34].
Những nghiên cứu về vốn xã hội trong sản xuất nông nghiệp:
Về vai trò và tác động của VXH đối với các hoạt động sản xuất nông nghiệp
của nông dân ở nông thôn, Thomése & Nguyễn Tuấn Anh (2007) đã tìm hiểu quan
hệ họ hàng trong việc dồn điền đổi thửa và sử dụng ruộng đất. Với cách tiếp cận
VXH, bài viết chỉ ra rằng người nông dân đã khai thác hiệu quả nguồn VXH - với
biểu hiện cụ thể là tinh thần trách nhiệm và sự tin cậy lẫn nhau giữa những người có
quan hệ họ hàng - để nhận chung ruộng cùng nhau khi dồn điền đổi thửa, hay
thuê/mượn ruộng của nhau sau dồn điển đổi thửa [37]. Trong một nghiên cứu khác
gần đây, Nguyễn Tuấn Anh (2012) một lần nữa đã khẳng định vai trò của quan hệ
họ hàng trong phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn. Theo đó, tác giả đã phân tích
khá rõ việc quan hệ họ hàng là nguồn VXH mà các hộ gia đình vận dụng nhằm hợp
tác với nhau trong một số lĩnh vực sản xuất. Ông cũng khẳng định, dù ở xã hội nào
thì vai trò của quan hệ họ hàng luôn được khẳng định [7]. Các nghiên cứu này gắn
với hoạt động sản xuất nông nghiệp của người nông dân nhưng chỉ mới đề cập đến
mạng lưới quan hệ họ hàng mà chưa đề cập những MLXH khác.
Ngô Thị Phương Lan (2011) đã phân tích vai trò của VXH trong việc giảm
thiểu rủi ro và đem lại những hiệu quả to lớn trong thời khắc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ. Nghiên cứu đã chỉ rõ việc người nông

dân vùng đồng bằng sông Cửu Long đã vận dụng triệt để VXH bao gồm: các tổ
chức xã hội quan phương; các tổ chức xã hội và MLXH phi quan phương được thiết
lập dựa trên sự tin cậy và quan hệ có đi - có lại từ hai phía vào các hoạt động
chuyển đổi sinh kế và cho rằng những tổ chức này có vai trò rất lớn trong hoạt động
sản xuất của người dân [20].
Khúc Thị Thanh Vân là tác giả có nhiều nghiên cứu khá sâu sắc về lĩnh vực
này. Trong bối cảnh các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ đang có sự chuyển biến mạnh mẽ
về cơ cấu kinh tế, tác giả đã khẳng định VXH có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
và thúc đẩy kinh tế hộ gia đình phát triển, trong đó có hoạt động sản xuất nông

12


nghiệp. Tác giả khẳng định, các quan hệ xã hội và MLXH là thành tố quan trọng
của VXH, bên cạnh vốn “đóng” (trong phạm vi cộng đồng) thì vốn “mở” (các mối
quan hệ ngoài cộng đồng) có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở địa
bàn nghiên cứu [45]; [46].
Nguyễn Đức Chiện (2015) thông qua nghiên cứu định tính cũng đã góp phần
nhận diện loại hình MLXH, nhận diện về sự liên kết MLXH trong phát triển kinh tế
của các nhóm hộ gia đình ở nông thôn, trong đó lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Tác
giả cũng đưa ra một số bàn luận về liên kết mạng lưới trong phát triển kinh tế hộ gia
đình trong bối cảnh nông thôn đồng bằng sông Hồng đang chuyển đổi nhanh và
ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng [10]. Cùng bàn về MLXH, Lê Hữu Phước
(2016) qua nghiên cứu định tính đã bàn về MLXH đối với việc sản xuất, kinh doanh
của các hộ trang trại ở nông thôn Tây Nguyên. Tác giả đã khảo tả về MLXH và việc
vận dụng mạng lưới đó vào quá trình sản xuất, kinh doanh của các hộ trang trại. Kết
quả cho thấy, bên cạnh những tác động tích cực nhờ vào các mối quan hệ đan xen,
hỗn hợp thì cũng có những tác động tiêu cực do mối quan hệ khép kín của buôn
làng mang lại và làm kìm hãm sự phát triển. Điểm đặc biệt trong nghiên cứu này là
tác giả đã đề cập đến sự khác biệt trong vận dụng MLXH giữa các dân tộc và cho

thấy các dân tộc thiểu số trên địa bàn còn khá khép kín và chủ yếu liên kết mạnh với
quan hệ gia đình, dòng họ, cộng đồng [22]. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung
với đối tượng là kinh tế trang trại mà không đề cập đến hoạt động trồng trọt - hoạt
động sinh kế chủ yếu của các nông hộ ở Đắk Lắk.
Tóm lại, những nghiên cứu về VXH mà chúng tôi đã tiếp cận được ở trên đã
xoay quanh những vấn đề sau:
- Thứ nhất, hệ thống lý thuyết, khái niệm về VXH; dự báo về VXH từ thực tiễn
Việt Nam;
- Thứ hai, về vai trò của VXH đối với các doanh nghiệp; với các ngành nghề
phi nông nghiệp;
- Thứ ba, vai trò của VXH đối với người di cư, việc làm, sinh kế của nông dân
ven đô; với chuyển đổi nghề nghiệp; với phát triển nguồn nhân lực;

13


- Thứ tư, vai trò của VXH đối với sự phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn,
trong đó, sản xuất nông nghiệp được đề cập đến như một yếu tố sinh kế chủ yếu ở
nông thôn.
- Thứ năm, về phương pháp, hầu hết các tác giả đều sử dụng kết hợp giữa
nghiên cứu định tính và định lượng để đo lường, phân tích VXH. Một số tác giả sử
dụng thuần túy định tính hoặc định lượng. Phương pháp phân tích tài liệu được sử
dụng chủ đạo ở các nghiên cứu về lý thuyết.
Những nghiên cứu trên cho thấy vai trò của VXH đối với hoạt động sản xuất
nông nghiệp của người nông dân ở nông thôn đã được nhiều nghiên cứu đề cập đến.
Tuy nhiên, VXH đối với dân tộc thiểu số chỉ được nhắc tới qua nghiên cứu của Lê
Hữu Phước và Nguyễn Qúy Thanh chứ chưa có những nghiên cứu chuyên sâu về nó.
Trên cơ sở của những nghiên cứu đi trước, luận văn nghiên cứu về VXH trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp gắn với dân tộc Ê-đê - một dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây
Nguyên có thể được xem là điểm nhấn mới trong nghiên cứu thực nghiệm về VXH.

Luận văn sẽ tập trung nhận diện VXH của hộ gia đình người Ê-đê tại địa bàn nghiên
cứu và việc sử dụng nguồn vốn này vào hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện các loại hình VXH và việc sử dụng chúng trong sản xuất nông
nghiệp của hộ gia đình người Ê-đê, trên cơ sở đó đánh giá tác động của VXH đến
sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình người Ê-đê trên địa bàn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận của luận văn: làm rõ các khái niệm chủ chốt và lý
thuyết áp dụng trong luận văn.
- Tìm hiểu các loại hình VXH và việc sử dụng VXH trong sản xuất nông
nghiệp của hộ gia đình người Ê-đê.
- Phân tích tác động tích cực và tiêu cực của VXH đến sản xuất nông nghiệp;
liên kết mạnh và liên kết yếu trong các nhóm hộ gia đình người Ê-đê trên địa bàn.

14


4. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu
4.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng: Nghiên cứu về VXH trong sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình
người Ê-đê.
Khách thể: Các nhóm hộ gia đình người Ê-đê tại xã Ea Tu, thành phố Buôn
Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại địa bàn xã Ea Tu, thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Phạm vi thời gian: Để tìm hiểu các hoạt động kinh tế nông nghiệp của các hộ
gia đình người Ê-đê, chúng tôi nghiên cứu, cập nhật các số liệu từ năm 2015 đến

giữa năm 2016.
4.3. Địa bàn nghiên cứu
Xã Ea Tu, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu dựa trên quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Mác để tìm hiểu, nhận thức các vấn đề nghiên cứu.
Trên quan điểm phương pháp luận của Mác, mọi sự vật, hiện tượng phải được xem
xét trong mối liên hệ, tác động qua lại và quá trình vận động, phát triển không
ngừng của lịch sử. Mặt khác, mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không gian,
thời gian nhất định. Người nghiên cứu cần xem xét sự vật, hiện tượng trên những cơ
sở khoa học đó.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phương pháp luận xã hội học để tiếp
cận, tìm hiểu cấu trúc và lý giải về các loại hình VXH và việc sử dụng VXH vào
hoạt động sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình người Ê-đê ở xã Ea Tu, thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Câu hỏi nghiên cứu

15


- VXH đã được sử dụng như thế nào trong các hoạt động sản xuất nông
nghiệp của các hộ gia đình người Ê-đê ở xã Ea Tu?
- VXH có những tác động tích cực và tiêu cực như thế nào đối với việc phát
triển kinh tế của hộ gia đình người Ê-đê?
5.2.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Các hộ gia đình người Ê-đê đã sử dụng các MLXH, chuẩn mực và lòng tin
vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp như: tư vấn hoạt động sản xuất nông
nghiệp, vay vốn, chọn giống, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và tiêu thụ.

- VXH có tác động tích cực thúc đẩy phát triển sản xuất, tạo sự gắn kết, chia
sẻ giữa các thành viên đồng thời cũng có những tác động tiêu cực làm kìm hãm sự
phát triển sản xuất, gây mâu thuẫn, sự phân hóa trong cộng đồng.
5.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phân tích tài liệu: Luận văn sưu tầm và đọc các tài liệu, các tạp chí, sách
chuyên khảo, các đề tài nghiên cứu về VXH, về người Ê-đê ở địa phương. Đồng
thời chúng tôi cũng thu thập các tài liệu thứ cấp từ địa phương liên quan đến đề tài
nghiên cứu. Trên cơ sở những nghiên cứu đi trước, những số liệu thứ cấp tại địa bàn
giúp tác giả có những gợi mở cho vấn đề nghiên cứu của mình.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả cũng sẽ tiếp tục tìm tòi, cập nhật
những nghiên cứu về VXH để tham khảo, học hỏi, tiếp tục bổ sung vào nghiên cứu
những kiến thức về lý luận và thực tiễn về VXH. Tác giả cũng ý thức được việc so
sánh, đối chiếu những nhận định, kết luận rút ra từ nghiên cứu so với kết quả của
các nghiên cứu khác.
- Nghiên cứu định tính và định lượng: Chúng tôi sử dụng kết hợp phương
pháp nghiên cứu định tính và định lượng để thu thập thông tin phục vụ mục tiêu
nghiên cứu.
Người Ê-đê ở xã Ea Tu cư trú ở 6 buôn là: buôn Ea Nao A, buôn Ea Nao B,
buôn Kô Tam, buôn Ju, buôn Krông A, buôn Krông B. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện đề tài, do hạn chế về thời gian, kinh phí, nhân lực,… chúng tôi không tiến

16


hành khảo sát ở cả 6 buôn này mà chỉ chọn điểm 2 buôn để nghiên cứu bởi người Êđê khá đồng nhất về môi trường cư trú, tổ chức xã hội cũng như cách thức sản xuất.
Tiêu chí chọn buôn nghiên cứu dựa vào vào mức độ cư trú xen cư giữa người Ê-đê
với các dân tộc khác trên địa bàn. Theo đó, chúng tôi chọn buôn Ea Nao A người Ê-đê chiếm 87,3% (158 hộ) tổng dân số toàn buôn và buôn Ju - là buôn có
sự xen cư với các dân tộc khác, trong đó, người Ê-đê chiếm 55,7% (329 hộ) tổng
dân số toàn buôn. Hai buôn này, các hộ gia đình người Ê-đê 100% là sản xuất

nông nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu định tính: Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu.
Với đề tài này, chúng tôi dự kiến sẽ tiến hành phỏng vấn sâu 20 trường hợp, trong
đó sẽ đảm bảo đủ các đối tượng là cán bộ xã, cán bộ ban tự quản của 2 buôn, cán
bộ của các tổ chức chính trị - xã hội và người dân ở 2 buôn làng. Cơ cấu mẫu
định tính cũng được quan tâm nhằm tìm hiểu khác biệt về quan điểm và ý kiến
của các nhóm trong mẫu khảo sát.
Với đặc thù của dân tộc Ê-đê ở Đắk Lắk, phỏng vấn sâu có thể khai thác triệt
để thông tin hơn là phương pháp định lượng, vì vậy đây là phương pháp chủ đạo
trong việc thu thập thông tin cho đề tài nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu định lượng: Những thông tin thu thập thông qua
bảng hỏi mang tính định lượng sẽ bổ sung bằng chứng cho những luận điểm từ
nghiên cứu định tính nhằm nâng cao tính xác thực cho kết quả luận văn.
Dung lượng mẫu: nghiên cứu sử dụng cách tính dung lượng mẫu theo công
thức sau:

N   2  s2
n
N  m2   2  s 2
(Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh, 2001, tr. 193-194)
Trong đó:
n: dung lượng mẫu được chọn
N: mẫu tổng thể (1.420 hộ)
𝜀 = 1,96 ứng với mức tin cậy r = 95%
17


×