Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Vốn xã hội trong sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình người ê đê ở xã ea tu, thành phố buôn ma thuột, tỉnh đắk lắk tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.53 KB, 25 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ HỒNG GÁI

VỐN XÃ HỘI TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
CỦA HỘ GIA ĐÌNH NGƯỜI Ê-ĐÊ Ở XÃ EA TU,
THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC CHIỆN

Phản biện 1: ........................................:..............................
............................................................................
Phản biện 2: .......................................................................
............................................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội..............giờ.....ngày.....tháng ....năm....

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Ê-đê là một trong 12 dân tộc thiểu sô tại chỗ ở Tây Nguyên, cư
trú chủ yếu ở tỉnh Đắk Lắk, chiếm 17% tổng dân số của tỉnh. Người
Ê-đê ở Ea Tu chiếm 47% tổng dân số toàn xã. Xã Ea Tu sản xuất
nông nghiệp là chủ đạo, chiếm 85% tỷ trọng kinh tế toàn xã.
Người Ê-đê ở Ea Tu từ truyền thống đến nay vẫn duy trì nền
sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên đã có sự chuyển biến về cơ cấu nông
nghiệp cho phù hợp với nền kinh thị trường hiện nay. Là xã hội nông
nghiệp, đề cao tính cộng đồng trong ứng xử, các mối quan hệ của họ
gắn với gia đình, dòng họ, cộng đồng. Trước đây, nguồn vốn chủ yếu
trong các hoạt động kinh tế là vốn vật chất và vốn tài chính. Tuy
nhiên, hiện nay, trong nền kinh tế thị trường người ta thấy cần thiết
phải có thêm những nguồn vốn khác như: VXH, vốn con người, vốn
văn hóa,… trong quá trình sản xuất, trong đó, VXH ngày càng có vai
trò quan trong hoạt động sản xuất nông nghiệp hộ gia đình.
VXH ở người Ê-đê là các mối quan hệ gia đình, dòng họ, cộng
đồng làng; các tổ chức xã hội và các quan hệ xã hội mà họ có, bên
cạnh đó là lòng tin, là chuẩn mực mà các cá nhân thể hiện trong các
mối quan hệ của họ cũng như quá trình mà họ tham gia vào các hoạt
động xã hội. Vấn đề đặt ra là: Người Ê-đê đã sử dụng VXH như thế
nào trong quá trình phát triển kinh tế? Việc sử dụng VXH có tác
động gì trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ? Là những câu
hỏi cần có lời giải đáp.
Nghiên cứu này của chúng tôi vừa có ý nghĩa lý luận trong
việc lần đầu nghiên cứu về VXH của một tộc người cụ thể ở Tây
Nguyên, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong việc giúp cho chính quyền
địa phương đánh giá, xem xét trong công tác hoạch định chính sách
1



phát triển nhằm rút ngắn khoảng cách giữa người Ê-đê với các nhóm
dân cư khác trên địa bàn.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Vốn xã hội
trong sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình người Ê-đê ở xã Ea
Tu, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Nghiên cứu ngoài nước
Những nghiên cứu khởi nguồn về lý thuyết, khái niệm các
quan điểm khác nhau về VXH mà sau này chúng ta kế thừa, làm nền
tảng cho các nghiên cứu về VXH không thể không kể đến Bourdieu,
Coleman; Putnam, Fukuyama,… Dưới đây là một số các quan điểm
của các tác giả dẫn theo nghiên cứu của Trần Hữu Quang (2014).
Trong nghiên cứu của mình vào năm 1980, Bourdieu đã du
nhập khái niệm vốn (capital) của lĩnh vực kinh tế vào lĩnh vực xã hội
học để phân tích quá trình lưu thông của các loại tài sản khác nhau
trong không gian xã hội. Ngoài vốn kinh tế, ông còn phân biệt thêm
ba loại vốn nữa là vốn văn hóa, vốn xã hội và vốn biểu tượng. Hạn
chế của Bourdieu là ông nhấn mạnh đến VXH của một cá nhân chứ
không đề cập đến VXH của gia đình hay cộng đồng.
Năm 1990, nhà xã hội học người Mỹ Coleman đưa ra một cách
định nghĩa về VXH khác với Bourdieu, ông hiểu VXH bao gồm các
đặc trưng trong đời sống xã hội như sau: các mạng lưới xã hội (social
network), các chuẩn mực (norms) và sự tin cậy trong xã hội (social
trust) - là những cái giúp cho các thành viên có thể hành động chung
với nhau một cách có hiệu quả nhằm đạt tới mục tiêu chung.
Alejandro Portes (2003) qua nghiên cứu Vốn xã hội: nguồn
gốc và những áp dụng trong xã hội học hiện đại đã chỉ ra nguồn gốc
2



của VXH nằm ngay trong cơ cấu quan hệ xã hội của họ chứ không
phải ở bản thân họ; sự đoàn kết trong một nhóm/cộng đồng khi chịu
chung hoàn cảnh, chia sẻ những giá trị chung và nguồn gốc cuối
cùng của VXH là sự liên kết xã hội và ràng buộc, quy chế xử, phạt
trong các nhóm/cộng đồng. Portes đã đề cập đến VXH trong phạm vi
cộng đồng với những định chế, quy tắc chung, tuy nhiên cũng như
các nghiên cứu khác, ông chưa nghiên cứu sâu về sự áp dụng vxh
vào các hoạt động phát triển kinh tế hộ gia đình.
Những nghiên cứu trên đưa ra những quan điểm, lý thuyết,
khái niệm VXH và vai trò của VXH trong phát triển kinh tế, sức
khỏe, xóa đói giảm nghèo và đời sống xã hội của con người.
2.2. Nghiên cứu trong nước
2.2.1. Các nghiên cứu về lý thuyết, khái niệm vốn xã hội
Điển hình cho những nghiên cứu lý thuyết giai đoạn khởi
nguyên là Trần Hữu Dũng (2003) trong nghiên cứu này, ông đã tổng
kết lại các khái niệm VXH của các tác giả nước ngoài như Pierre
Bourdieu; James Coleman; Robert Putnam;… trên cơ sở đó có sự so
sánh quan điểm của các tác giả, chỉ ra sự phù hợp và không phù hợp
giữa các quan điểm khái niệm. Tác giả cũng đề cập đến mối liên hệ
giữa VXH và kinh tế như là sự dự báo về nguồn lực này đối với sự
phát triển kinh tế.
Trần Hữu Quang (2006) trong Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội cũng
dựa trên cách định nghĩa của các tác giả kinh điển như Piere Buordieu,
James Coleman, Robert Putnam,… để giải nghĩa VXH. Theo ông, VXH
thường được định nghĩa xoay quanh ba yếu tố có liên hệ mật thiết với
nhau là: khả năng làm việc chung với nhau; sự tin cậy giữa con người với
nhau và các MLXH.

3



Gần đây nhất, Nguyễn Quý Thanh và cộng sự đã lần lượt đưa ra 2
công trình nghiên cứu khá tổng quát của mình cả về lý thuyết và liên hệ
thực tiễn về VXH. Tuy mới chỉ tiếp cận bước đầu nhưng nghiên cứu đã
chỉ ra rằng, đối với các DTTS thì quan hệ gia đình, dòng họ, cộng đồng
là chủ yếu và quan trọng nhất trong mạng lưới xã hội của họ. Đồng thời,
lòng tin và sự tham gia xã hội như là giải pháp nhằm duy trì, củng cố và
phát triển VXH trong cộng đồng các DTTS. Đây là tư liệu quý giá cho
chúng tôi trong nghiên cứu này cũng như tiếp cận về VXH dưới góc độ
tộc người.
2.1.2. Vận dụng lý thuyết vốn xã hội trong các hướng nghiên cứu
thực nghiệm
Nghiên cứu của Đặng Nguyên Anh (1998) là một trong những
người có nghiên cứu khá sớm về VXH qua một nghiên cứu về MLXH
trong di cư.Thông qua kết quả nghiên cứu định lượng đã cho thấy tác
động của MLXH đến người di cư thể hiện ở quyết định lựa chọn nơi
chuyển đến và hình thức trợ giúp về kinh tế của mạng lưới xã hội.
Lê Ngọc Hùng (2008) đã đưa ra mô hình tổng hợp về VXH, vốn
con người và mạng lưới xã hội qua một số nghiên cứu thực tiễn; những
phát hiện về VXH, vốn con người và mạng lưới xã hội; đưa ra dẫn
chứng về mạng lưới xã hội truyền thống và mạng lưới xã hội hỗn hợp
trong trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên; gợi mở một số vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu ở Việt Nam.
Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2015) cho thấy vai trò của các mạng lưới
xã hội mà cụ thể là các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nhóm tự nguyện,
bạn bè, gia đình,… là đầu mối quan trọng trong việc chuyển đổi nghề
nghiệp của mỗi cá nhân. Tác giả cũng phân tích khá rõ những yếu tố tác
động đến VXH của các cá nhân trong bối cảnh nông buôn đồng bằng


4


sông Hồng đang trong thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ từ nông nghiệp sang
phi nông nghiệp.
Những nghiên cứu về vốn xã hội trong sản xuất nông nghiệp:
Khúc Thị Thanh Vân là tác giả có nhiều nghiên cứu khá sâu
sắc về lĩnh vực này.. Tác giả khẳng định, các quan hệ xã hội và mạng
lưới xã hội là thành tố quan trọng của VXH, bên cạnh vốn “đóng”
tức là các quan hệ gia đình, dòng họ, các tổ chức chính trị - xã hội tại
địa phương (trong phạm vi cộng đồng) thì vốn “mở” (các mối quan
hệ ngoài cộng đồng) có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế ở địa
bàn nghiên cứu.
Gần đây nhất, nghiên cứu của Lê Hữu Phước (2016) qua
nghiên cứu định tínhđã bàn về MLXH đối với việc sản xuất, kinh
doanh của các hộ trang trại ở nông thôn Tây Nguyên hiện nay. Tuy
nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung với đối tượng là kinh tế trang trại
mà không đề cập đến hoạt động trồng trọt, hoạt động sinh kế chủ yếu
của các nông hộ ở Đắk Lắk.
Trên cơ sở của những nghiên cứu đi trước, luận văn nghiên
cứu về VXH trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp gắn với dân tộc Êđê một dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên có thể được xem là
điểm nhấn mới trong nghiên cứu thực nghiệm về VXH. Luận văn sẽ
tập trung nhận diện VXH của người Ê-đêtại địa bàn nghiên cứu và
việc sử dụng nguồn vốn này vào hoạt động sản xuất nông nghiệp của
họ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện các loại hìnhVXH và việc sử dụng chúng trong sản
xuất nông nghiệp của hộ gia đình người Ê-đê, trên cơ sở đó đánh giá


5


tác động của VXH đến sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình người
Ê-đê trên địa bàn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận của luận văn: làm rõ các khái niệm chủ
chốt và lý thuyết áp dụng trong luận văn.
- Tìm hiểu các loại hình VXH và việc sử dụng VXH trong sản
xuất nông nghiệp của hộ gia đình người Ê-đê.
- Phân tích tác động tích cực và tiêu cực của VXH đến sản xuất
nông nghiệp; liên kết mạnh và liên kết yếu trong các nhómhộ gia
đình người Ê-đê trên địa bàn.
4. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu
4.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng: Nghiên cứu về VXH trong sản xuất nông nghiệp
của hộ gia đình người Ê-đê. Khách thể: Người Ê-đê.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại địa bàn xã Ea Tu, thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Phạm vi thời gian: Để tìm hiểu các hoạt động kinh tế nông
nghiệp của các hộ gia đìnhngười Ê-đê, chúng tôi nghiên cứu, cập
nhật các số liệu từ năm 2015 đến giữa năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu dựa trên quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Mác để tìm hiểu, nhận thức
các vấn đề nghiên cứu. Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp luận xã
hội học để tiếp cận, tìm hiểu và lý giải về các loại hình VXH và việc


6


sử dụng VXH vào hoạt động sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình
người Ê-đê ở xã Ea Tu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Có những loại hình VXH nào đang tồn tại trong các hộ gia đình
người Ê-đê ở xã Ea Tu?
- VXH đã được sử dụng và tạo dựng chuẩn mực, lòng tin như thế
nào trong các liên kết sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình người Êđê ở xã Ea Tu?
- VXH có những tác động tích cực, tiêu cực và liên kết mạnh yếu
như thế nào đối với việc phát triển kinh tế của hộ gia đình?
5.2.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Có nhiều loại hình VXH đang tồn tại và có sự khác biệt về
VXH giữa các nhóm hộ gia đình ở địa bàn nghiên cứu. Đó là sự khác
biệt về TĐHV, về độ tuổi, nghề nghiệp, mức sống, quy mô gia đình,
tất cả những yếu tố này đã chi phối đến sự tham gia vào các MLXH
khác nhau và do đó việc khai thác VXH vào sản xuất nông nghiệp
cũng có sự khác biệt.
- Hộ gia đình Ê-đê đã khai thác các MLXH khác nhau vào
các hoạt động sản xuất nông nghiệp như: tư vấn hoạt động sản xuất
nông nghiệp, vay vốn, chọn giống, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch
và thị trường,… Để duy trì, phát triển các quan hệ xã hội, họ đã tạo
dựng những chuẩn mực, sự có đi - có lại và lòng tin của họ nhằm tạo
thuận lợi trong liên kết sản xuất của hộ gia đình.
- VXH có những tác động tích cực thúc đẩy phát triển sản xuất,
tạo sự gắn kết, chia sẻ giữa các thành viên đồng thời cũng có những
7



tác động tiêu cực làm kìm hãm sự phát triển sản xuất, gây mâu thuẫn,
sự phân hóa trong cộng đồng. Bên cạnh đó, các hộ gia đình người Êđê có liên kết mạnh với các quan hệ gia đình, dòng họ, cộng đồng,…
và liên kết yếu với các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề
nghiệp, hội cùng sở thích, các đại lý mua/bán,…
5.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp
sau:
Phân tích tài liệu: Luận văn sưu tầm và đọc các tài liệu, các tạp
chí, sách chuyên khảo, các đề tài nghiên cứu về VXH, về người Ê-đê ở
địa phương. Đồng thời chúng tôi cũng thu thập các tài liệu thứ cấp từ địa
phương liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu định tính: Sử dụng phương pháp
phỏng vấn sâu. Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu. Với đề tài này,
chúng tôi dự kiến sẽ tiến hành phỏng vấn sâu 20 trường hợp, trong đó
sẽ đảm bảo đủ các đối tượng là cán bộ xã, cán bộ ban tự quản của 2
buôn, cán bộ của các tổ chức chính trị - xã hội và người dân ở 2 buôn
làng.
Phương pháp nghiên cứu định lượng: Đề tài sử dụng bảng hỏi
điều tra xã hội học ở xã Ea Tu là 150 hộ, số hộ tương ứng ở 2 buôn
là: buôn Ea Nao A là 72 hộ và buôn Ju 78 hộ. Cơ cấu mẫu đảm bảo
các tiêu chí về độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp.
Phương pháp quan sát không tham dự: Phương pháp này giúp
tác giả nhìn nhận, đánh giá vấn đề nghiên cứu bên cạnh làm việc trực
tiếp với khách thể nghiên cứu. Tư liệu chủ yếu là ghi chép và chụp
ảnh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
8



6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã hệ thống, cung cấp các cứ liệu ở cấp độ vi mô về
VXH, đặc biệt là góp phần bổ sung vào khoảng trống nghiên cứu về
VXH ở các DTTS, làm phong phú thêm những nghiên cứu thực
nghiệm về VXH ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng mang lại những kiến
thức mới về vai trò của VXH, các quan điểm lý luận về VXH được sử
dụng lý giải thực tiễn VXH trong hoạt động sản xuất nông nghiệp ở một
cộng đồng dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã cho thấy vai trò của VXH đối với kinh tế hộ và
khẳng định nó là một trong những nguồn lực cho sự phát triển kinh
tế ở một tộc người thiểu số. Bên cạnh đó, chỉ ra được tác động tích
cực và tiêu cực của loại vốn này đối với sự phát triển kinh tế của hộ
gia đìnhngười Ê-đê trên địa bàn. Điều này góp phần giúp cho các nhà
hoạch định chính sách địa phương tham khảo nhằm đưa ra những
giải pháp thiết thực, phù hợp để đầu tư, phát triển và sử dụng VXH ở
địa phương.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, đề tài được chia làm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2:Sử dụng vốn xã hội trong sản xuất nông nghiệp của
hộ gia đình người Ê-đê.
Chương 3: Tác động của vốn xã hội đến sản xuất nông nghiệp
của hộ gia đình người Ê-đê

9



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
Vốn xã hội: Với đề tài này, quan tâm nghiên cứu về một cộng
đồng dân tộc thiểu số với nhiều nét đặc thù không gian cư trú, tổ
chức xã hội,… Vì vậy, VXH bao gồm các thành tố sau: 1, MLXH và
sự tham gia vào MLXH; 2, chuẩn mực và quan hệ có đi - có lại; 3,
lòng tin.
Mạng lưới xã hội (social network): MLXH có thể được xem là
một tập hợp các mối quan hệ liên kết, đan xen và bao bọc xung
quanh chủ thể, tạo ra không gian xã hội của chủ thể.
Sự tham gia xã hội: Tham gia xã hội được xem như yếu tố xúc
tác nhằm mở rộng MLXH của cá nhân thông qua việc tham gia càng
nhiều vào các hình thức tổ chức chính thức hoặc phi chính thức, tình
nguyện,…
Lòng tin xã hội (social trust): Lòng tin chính là giá trị xã hội
quan trọng, là sự chấp nhận và cởi mở của cá nhân với các cá
nhân và nhóm xã hội khác.
Chuẩn mực: Là những quy tắc của một tập thể, một cộng đồng
hay một xã hội mà mỗi cá nhân, thành viên buộc phải tuân thủ trong
các hành vi và ứng xử của mình.
Quan hệ có đi - có lại (reciprocity): là một trong những chuẩn
mực phi chính thức và là đặc trưng trong các quan hệ xã hội. Tính
chất này liên quan trực tiếp đến mức VXH khả dụng của cá nhân, khi
họ khai thác, sử dụng hiệu quả các quan hệ xã hội mà họ có.
Hộ gia đình: Theo điều 106, Bộ Luật Dân sự 2005: “Hộ gia
đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để
10



hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc
một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là
chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”.
Sản xuất nông nghiệp: Trong phạm vi của nghiên cứu này, sản
xuất nông nghiệp của người Ê-đê chỉ giới hạn ở 2 khía cạnh là trồng
trọt và chăn nuôi.
Từ việc đưa ra những khái niệm cơ bản trên, chúng tôi cho
rằng Vốn xã hội trong sản xuất nông nghiệp của người Ê-đêlà nguồn
lực xã hội kết tinh dưới các hình thức cơ bản là MLXH và sự tham
gia của họ vào mạng lưới đó, niềm tin và sự có đi - có lại mà người
Ê-đê tạo dựng, duy trì và vận dụng nó vào trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp, tác động tích cực, tiêu cực có nó đến phát triển kinh tế
hộ gia đình.
1.2.2. Lý thuyết áp dụng
- Lý thuyết vốn xã hội: Vận dụng lý thuyết VXH vào nghiên
cứu VXH trong sản xuất nông nghiệp của người Ê-đê nhằm làm rõ
các thành tố của VXH, tức là xem xét sự kết nối thành các MLXH
của họ, chuẩn mực, lòng tin và sự có đi - có lại qua các liên kết đó.
Bên cạnh đó, nhấn mạnh đến việc làm rõ các dạng thức của VXH ở
người Ê-đê, có sự so sánh giữa 3 loại hình VXH, trong đó, nhấn
mạnh đến tác động tích cực và tác động tiêu cực của mỗi loại hình
đến hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ.
- Lý thuyết mạng lưới xã hội: Sử dụng lý thuyết MLXH trong
nghiên cứu VXH trong sản xuất nông nghiệp của người Ê-đê để trả
lời các câu hỏi: MLXH đóng vai trò như thế nào trong hoạt động sản
xuất nông nghiệp của họ? Họ đã sử dụng MLXH như thế nào vào các
hoạt động đó? Bên cạnh việc chỉ rõ thực trạng, thì việc chỉ ra những
liên kết mạnh và liên kết yếu giữa các mạng lưới, lòng tin giữa các

11


mối quan hệ, so sánh vai trò khác nhau giữa hai loại liên kết này để
thấy được hạn chế trong VXH của người Ê-đê là điểm nhấn cần tập
trung làm rõ dưới ánh sáng của lý thuyết MLXH.
1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và thực trạng sản xuất
nông nghiệp xã Ea Tu
1.2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế, xã hội
Vị trí địa lý: phía Đông giáp xã Hòa Thuận và huyện Krông
Păc; phía Tây giáp với phường Tân An, Tân Lập; phía Nam giáp với
phường Tân hòa; xã Hòa Đông; phía Bắc giáp với huyện Cư M’gar.
Khí hậu: hàng năm có hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa,
mùa khô thường kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, khí hậu
mát lạnh, độ ẩm thấp; Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, khí hậu ẩm
và dịu mát. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,50C, lượng mưa hàng
năm khoảng từ 1.900-2.200 mm và tập trung chủ yếu về mùa mưa.
Đất đai: Diện tích đất tự nhiên là: 2.862 ha. Xã Ea Tu có 4 loại
đất chính: đất nâu đỏ trên đá Bazan; đất nâu vàng trên đá Bazan; đất
đỏ vàng trên đá phiến sét và đất dốc tụ thung lũng.
Nước: Diện tích mặt nước ở Ea Tu là 16,2 ha (bao gồm hồ, ao,
sông suối và mặt nước chuyên dùng); đảm bảo nước phục vụ tưới
tiêu cho cây trồng.
Kinh tế: Kinh tế chủ đạo của Ea Tu là sản xuất nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế hiện tại của xã là: nông nghiệp – thương mại, dịch vụ
- tiểu thủ công nghiệp, trong đó, tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm
75%, dịch vụ thương mại chiếm 15%, tiểu thủ công nghiệp chiếm
10%.
Về xã hội,
- Dân cư và nguồn lao động: Tính đến tháng 12/2015, toàn xã có

3.442 hộ; với 15.574 nhân khẩu. Lao động trong độ tuổi có 9.867 người
12


chiếm 67,5% số dân, trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo mới chỉ đạt
15%.
Thành phần dân tộc: Xã Ea Tu có 17 dân tộc cùng sinh sống,
trong đó, dân tộc Kinh chiếm 51,8%; dân tộc Ê-đê chiếm 47,5%, các
dân tộc còn lại chiếm số ít khoảng 0,7%.
Tôn giáo: xã có 3 Tôn giáo chính, gồm Phật giáo có 1.283
người, Thiên Chúa giáo có 1.809 người, Đạo Tin lành có 3.169
người, trong đó, đạo Tin Lành chủ yếu là người Ê-đê.
Tỷ lệ nghèo: Đầu năm 2016, xét theo chuẩn nghèo đa chiều, tỷ
lệ hộ nghèo tăng lên 5,11% trong đó, hộ người Kinh là 29 hộ chiếm
16,57%, hộ DTTS 146 hộ chiếm 83,43%.
1.2.2. Thực trạng sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình người Ê-đê
Đặc điểm kinh tế truyền thống: Người Ê-đê kinh tế chủ đạo là
làm rẫy. Bên cạnh trồng trọt chăn nuôi cũng phổ biến. Nghề thủ công
gia đình phổ biến như đan lát mây tre làm đồ gia dụng, nghề trồng
bông dệt vải. Người Ê-đê truyền thống sống nhờ vào rừng dưới hình
thức hái lượm và săn bắn.
Đặc điểm xã hội truyền thống
Về tổ chức xã hội: Trong xã hội cổ truyền, đơn vị cư trú cơ sở
và cũng là cao nhất của người Ê-đê được gọi là buôn, giữa các buôn
làng bình đẳng, tách biệt với nhau. Luật tục đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong đời sống cộng đồng buôn làng, là cơ sở pháp lý để
mọi thành viên trong buôn dựa vào đó mà sống và hoạt động. Người
Ê-đê gọi luật tục là klei bhiăn kđi.
Về quan hệ gia đình, dòng họ, hôn nhân: Là xã hội mẫu hệ nên
dòng họ được tính theo dòng mẹ, theo tiếng Ê-đê dòng họ gọi là

djuê. Con gái là người chủ động trong việc xây dựng gia đình, con
trai khi lập gia đình về sống ở nhà vợ và toàn tâm toàn ý lo lắng cho
13


dòng họ bên vợ mình. Trong hôn lễ, nhà trai thách cưới, nhà gái lo
mọi phí tổn trong hôn lễ.
Người Ê-đê truyền thống thường cư trú trong các ngôi nhà sàn
dài hay còn gọi là các đại gia đình mẫu hệ bao gồm nhiều tiểu gia
đình được chứa đựng trong các đại gia đình đó.
Thực trạng sản xuất nông nghiệp: bao gồm trồng trọt và chăn
nuôi.
Trồng trọt: Người Ê-đê ở Ea Tu, trồng trọt là chủ yếu, với đa dạng
các loại cây trồng như: Cây hàng năm gồm lúa, ngô, khoai, sắn, rau,…
Cây lâu năm gồm: cà phê, hồ tiêu, cao su, cây ăn quả,…
Chăn nuôi: Hiện nay, với sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường,
tư duy kinh tế thay đổi, người Ê-đê đã bắt đầu chú trọng chăn nuôi vì mục
đích kinh tế, nhằm cải thiện thu nhập cho gia đình.
1.3. Tiểu kết
Chương này, tác giả đã trình bày: 1, Khái quát về cơ sở lý luận
của đề tài bao gồm: hệ thống các khái niệm cơ sở liên quan đến nội
dung nghiên cứu nhằm làm rõ hơn nội hàm vấn đề nghiên cứu. Trình
bày hai lý thuyết áp dụng trong đề tài là lý thuyết vốn xã hội và lý
thuyết MLXH như là kim chỉ nam dẫn dắt nghiên cứu. 2, Về cơ sở
thực tiễn: chúng tôi đã trình bày khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội của xã Ea Tu.
Chương 2
SỬ DỤNG VỐN XÃ HỘI TRONG SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH NGƯỜI Ê-ĐÊ
2.1. Loại hình vốn xã hội của hộ gia đình

2.1.1. Tham gia mạng lưới xã hội
- Mạng lưới gia đình, dòng họ, quan hệ hôn nhân và quan hệ
cộng đồng
14


Hiện nay, ở các buôn làng Ê-đê, gia đình hạt nhân là chủ yếu.
Bố mẹ thường sống cùng với con gái út, những người con gái khác
hầu như đều ở riêng và cư trú gần với bố mẹ.
Với người Ê-đê ở xã Ea Tu, sự gắn kết của những người cùng
dòng họ và nơi cư trú thể hiện qua việc tham gia mạnh mẽ vào các
nghi lễ trong vòng đời người, các sự kiện trong các gia đình thuộc dòng
họ. Trong sinh hoạt thường ngày, người Ê-đê hầu như rất ít có các hoạt
đông qua lại, với họ, anh em trong gia đình, dòng họ là thứ tình cảm
luôn luôn cố hữu nên không cần thiết phải thăm hỏi thường xuyên.
Quan hệ dòng họ của người Ê-đê không chỉ là mối quan hệ
theo dòng mẹ mà còn mối quan hệ theo dòng cha. Và rộng hơn nữa,
mạng lưới này còn bao gồm cả những người thông gia (họ hàng của
anh chị em ruột tức là cả bên vợ hoặc chồng của những anh/chị em
ruột đó nữa). Do đó, mối quan hệ đồng tộc này càng thêm gắn bó,
khăng khít hơn.
Về quan hệ cộng đồng: Hiện nay, ở các buôn làng Ê-đê không
còn thuần túy người Ê-đê như trước mà có sự xen cư với các dân tộc
khác như Kinh, Tày, Mường,… do quá trình di từ nơi khác đến. Do
vậy, mối quan hệ cộng đồng của người Ê-đê ở Ea Tu không chỉ giới hạn
là cộng đồng những người đồng tộc mà còn là mối quan hệ giữa người
Ê-đê với các dân tộc khác cùng cộng cư trong một buôn làng. Do cư trú
xen cư nên tình trạng hôn nhân ngoại tộc có xu hướng gia tăng, đây là
một trong những đặc điểm chủ yếu mở rộng VXH ra bên ngoài của
người Ê-đê.

- Các tổ chức chính trị - xã hội và sự tham gia
Kết quả khảo sát 150 hộ gia đình ở Ea Tu cho thấy hầu như các
hộ gia đình đều tham gia vào các tổ chức chính trị - xã hội. Chỉ có 9
hộ gia đình không tham gia vào tổ chức nào. Trong đó, hội thu hút sự
15


tham gia đông đảo nhất là Hội Phụ nữ và Hội Nông dân, do vậy, 2 tổ
chức này hoạt động hiệu hơn so với các tổ chức khác.
Các thành viên trong một hộ gia đình có thể là hội viên của các
hội đoàn khác nhau và một thành viên có thể là hội viên của nhiều
đoàn hội. Với những mối quan hệ chằng chéo, mạng lưới quan hệ xã
hội của các hộ gia đình với các tổ chức cũng khá đa dạng.
Bên cạnh các tổ chức chính trị - xã hội trên, các đơn vị sự
nghiệp Nhà nước cũng có vai trò rất quan trọng và có những mối liên
kết nhất định với các hộ gia đình người Ê-đê đó là Ngân hàng Chính
sách xã hội và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại
địa bàn.
- Các hội/nhóm tự nguyện và sự tham gia của hộ gia đình
Trong đời sống, ngoài các MLXH chính thức, hộ gia đình còn
tham gia vào các MLXH phi chính thức, với những mối quan hệ xã hội
đặc thù. Người Ê-đê tham gia vào nhiều hội nhóm khác nhau như: tổ
chức tôn giáo, tổ liên gia, hội cùng sở thích, hội nghề nghiệp…
Tổ chức tôn giáo: Người Ê-đê ở Ea Tu 90% theo tôn giáo, trong
đó chủ yếu là đạo Tin Lành, một số ít theo đạo Thiên Chúa.
Tổ liên gia: Theo chủ trương chung, mỗi buôn tùy vào số lượng
và diện tích mà chia thành các tổ liên gia cho dễ quản lý. Buôn Ju chia
thành 19 tổ liên gia, buôn Ea Nao A chia thành 5 tổ liên gia. Mỗi tổ đều
có tổ trưởng và tổ phó chịu trách nhiệm quản lý, thông báo các hoạt
động của buôn đến từng hộ gia đình.

Các hội, nhóm bạn bè bao gồm: Bạn đồng niên, bạn học, bạn
cùng sở thích,… mỗi người dù ít hay nhiều đều tham gia vào ít nhất
một nhóm bạn bè. Tình trạng mỗi người tham gia vào nhiều hội
nhóm bạn bè khác nhau khá phổ biến ở lớp trẻ.

16


Hội/Nhóm nghề nghiệp: Người Ê-đê ở Ea Tu có 3 nhóm nghề
nghiệp chủ yếu là nhóm trồng cà phê liên kết với công ty Đăk Man;
nhóm thợ hồ và nhóm tham vào thị trường lao động tự do (còn gọi là
chợ người). Bên cạnh đó, còn một số nhóm khác như nhóm dệt thổ
cẩm, nhóm học nghề mộc, nhóm buôn bán nhỏ,… của một số hộ có
các nghề nghiệp khác.
Tổ hùn vốn: Tổ hùn vốn do hội Phụ nữ lập nên qua hình thức
góp vốn tiết kiếm, bốc thăm theo thứ tự để được nhận tiền hàng
tháng. Tổ này thành viên tham gia chủ yếu là chị em trong Hội Phụ
nữ.
Công đoàn công ty: Trên địa bàn xã Ea Tu có 2 công ty đóng
chân là Công ty cao su 30/4 và Công ty may Đắk Lắk. Do vậy, một
số thành viên ở các hộ gia đình làm công nhân trong các công ty trên.
2.1.2. Sự khác biệt về tham gia mạng lưới xã hội của các nhóm hộ
gia đình
Theo độ tuổi: Kết quả kiểm định Chi-Square ở 3 nhóm tuổi
(theo tuổi của chủ hộ) từ 20 - 35; 36 - 45 và trên 46 tuổi. Khi tìm
hiểu mối liên hệ giữa yếu tố tuổi với sự tham gia vào các loại hình
MLXH mà cụ thể là sự tham gia vào nhóm nghề nghiệp cho thấy, với
giá trị sig = 0,031 tức là < 0,05, điều này có nghĩa là độ tuổi có mối
liên hệ với nhóm nghề nghiệp.
Trình độ học vấn: Kết quả kiểm định Chi-Square về mối liên hệ

giữa TĐHV và việc tham gia vào các nhóm tự nguyện cho các giá trị
sig < 0,05 tức là có ý nghĩa thống kê. Dữ liệu này có thể khẳng định
TĐHV có mối liên hệ với các hội nhóm như: hội nghề nghiệp, nhóm
bạn học, hội cùng sở thích và tổ hùn vốn.
Mức sống hộ gia đình: Kết quả kiểm định Chi-Square về mối
liên hệ này cho thấy các giá trị sig < 0,05 tức là có thể khẳng định
17


mức sống có mối liên hệ với sự tham gia vào các hội, nhóm của các
hộ gia đình. Mức sống càng cao tỷ lệ tham gia vào các hội nhóm
càng cao và ngược lại, nhóm hộ nghèo, tỷ lệ tham gia vào các hội
nhóm thấp hơn so với 2 nhóm còn lại.
Quy mô gia đình: Kết quả kiểm định Chi-Square cho thấy, giá
trị sig <0,05 chỉ có ở hội nghề nghiệp và tổ hùn vốn tức là chấp chận
giả thuyết H1 và khẳng định, quy mô gia đình có mối liên hệ với 2
hội/nhóm này.
Nghề nghiệp khác của hộ gia đình: Kết quả kiểm định ChiSquare đều cho giá trị sig < 0,05 tức là chấp nhận giả thuyết H1 và
khẳng định rằng, nghề nghiệp có mối liên hệ với sự tham gia vào các
hội, nhóm tự nguyện của các hộ gia đình. Dữ liệu trên cho thấy trong
số những người kinh doanh, dịch vụ thì tỷ lệ tham gia vào các hội,
nhóm cao hơn so với những người lao động tự do và làm nông
nghiệp.
2.2. Sử dụng vốn xã hội và tạo dựng chuẩn mực, lòng tin trong
liên kết sản xuất nông nghiệp
2.2.1. Liên kết mạng lưới xã hội trong các khâu sản xuất
Tư vấn hướng sản xuất nông nghiệp
Có 3 tổ chức, cá nhân có những hỗ trợ nhiều nhất đối với các
hộ gia đình Ê-đê theo thứ tự ưu tiên là các tổ chức chính trị - xã hội
(84%); đại lý thu mua/bán vật tư nông nghiệp (78%) và bạn bè cũng

hội nhóm tự nguyện (52%).
Người Ê-đê đã sử dụng tổng hợp sự trợ giúp của những người
thân quen trong MLXH của họ để học hỏi về kỹ thuật sản xuất mới.
Họ học tập từ anh em, họ hàng, từ những cán bộ trong buôn. Bên
cạnh đó, họ tham gia các lớp tập huấn do Ban Khuyến nông xã tổ
18


chức để học hỏi thêm các kinh nghiệm, các kỹ thuật mới hoặc học
hỏi kỹ thuật sản xuất trong quá trình đi làm thuê cho người Kinh trên
địa bàn.
Vay vốn: Mạng lưới mà người Ê-đê có thể sử dụng để vay vốn
theo thứ tự ưu tiên là đại lý thu mua/bán vật tư nông nghiệp (86%);
bạn bè cũng hội/nhóm tự nguyện mà chủ yếu là những người chuyên
cho vay lãi (57,4%); bố mẹ, anh chị em ruột và ngân hàng (46,7%).
Như vậy, trong hoạt động này, vai trò của các MLXH bên ngoài thể
hiện mạnh mẽ hơn so với MLXH trong cộng đồng.
Chọn giống, gieo trồng và chăm sóc: Ở đây, MLXH co cụm
bao gồm gia đình, dòng họ, cộng đồng, các tổ chức chính trị - xã hội tại
buôn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tri thức KHKT và
phương tiện sản xuất cho người Ê-đê trong tiến trình chăm sóc cây
trồng. MLXH vươn ra bên ngoài chỉ ở một số ít người là cán bộ buônvà
một số người trẻ tuổi năng động, có trình độ học vấn do họ thường
xuyên tham gia vào các hoạt động xã hội, thường xuyên cập nhật các tin
tức mới.
Thu hoạch: Với những người Ê-đê ở Ea Tu hiện nay, MLXH
trong việc huy động nguồn lao động vào mùa thu hoạch chủ yếu của
họ là gia đình, dòng họ và cộng đồng buôn làng. Bên cạnh đó, các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức tôn giáo cũng có sự giúp đỡ cho họ
khi cần thiết về lao động giúp họ đảm bảo các khâu sản xuất, thu

hoạch kịp thời vụ
Thị trường tiêu thụ: Năng lực tiếp cận thị trường của người Êđê ở Ea Tu vẫn còn nhiều hạn chế, họ khá thụ động trong việc tìm
kiếm và mở rộng thị trường. Tuy nhiên, do những ràng buộc trong hoạt
động khác như vốn, vật tư nông nghiệp nên hầu hết người Ê-đê đều bán
sản phẩm của mình cho một nhà tiêu thụ cố định. Mối liên kết này đơn
19


giản là liên kết dọc giữa các hộ sản xuất với các thương nhân nhỏ
chứ chưa có các mối liên kết ngang hay liên kết mang tính chất bắc
cầu. Thương nhân nhỏ vẫn là nhân tố trung gian cho mạng lưới này.
2.2.2. Chuẩn mực liên kết và sự có đi - có lại
Chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử đã được đề cập đến nhiều
trong luật tục Ê-đê. Bên cạnh đó, hiện nay người Ê-đê hầu hết đều
theo đạo Tin Lành, cách ứng xử của họ cũng bị ảnh hưởng bởi giáo
lý, giáo luật. Chuẩn mực trong các quan hệ còn được biểu hiện ở việc
sẵn sàng giúp đỡ khi hộ gia đình nào đó gặp rủi ro. Qua khảo sát, rủi
ro thường gặp phải nhất trong thời gian qua là tình trạng mất mùa do
hạn hán kéo dài (90%); sự biến động của giá cả thị trường theo xu
hướng “được mùa mất giá, mất mùa được giá” khiến các nông hộ lao
đao (24%), sâu, dịch bệnh (30,2%),...
2.2.3. Lòng tin
Lòng tin vào mối quan hệ gia đình, dòng họ: Dữ liệu thống kê
cho thấy, 100% đều lựa chọn mức độ tin tưởng trở lên đối với mạng
lưới gia đình, dòng họ, cho thấy lòng tin vẫn tuyệt đối. Tuy nhiên, do
tiềm lực có hạn, mối quan hệ này chưa thực sự là nguồn lực đối với
sự phát triển kinh tế của các hộ gia đình và do vậy trong nhiều khâu
của quá trình sản xuất nông nghiệp, họ phải vận dụng các mối quan
hệ bên ngoài.
Lòng tin vào cộng đồng: buôn làng ngày xưa tính cộng đồng

luôn được đề cao, một con thú săn được chia cho cả làng, bởi làng
ngày xưa sở hữu chung một mảnh rừng thiêng, một bến nước riêng,
cúng cùng một ông thần,… Do vậy có nhiều sự ràng buộc.
Lòng tin vào các hội, nhóm tự nguyện: Việc thoải mái lựa chọn
tham gia vào một hội nhóm tự nguyện nào đó có thể khẳng định một
điều rằng, họ sẽ thu được lợi ích nhất định nào đấy do vậy, họ cũng
20


có niềm tin nhất định vào tổ chức mà mình tham gia. Tỷ lệ tin tưởng
trở lên chiếm khá cao, tỷ lệ ít tin tưởng chiếm 10% là các nhóm sở
thích, nhóm bạn học,… thiên về giải trí hơn là trao đổi, học hỏi về
kinh tế.
2.3. Tiểu kết
Thứ nhất, các hộ gia đình Ê-đê đã và đang tồn tại trong các
loại hình VXH khác nhau. Nó bao gồm mạng lưới gia đình, dòng họ,
cộng đồng; các hội, nhóm tự nguyện và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ hai, thực tế, người Ê-đê đã và đang sử dụng nỗ lực cá
nhân, hộ gia đình để khai thác và vận dụng những MLXH mà họ có
vào trong hoạt động sản xuất nông nghiệp và ở mỗi khâu của quá
trình sản xuất họ sử dụng một MLXH phù hợp nhằm đạt hiệu quả
cao nhất.
Thứ ba, Các hộ gia đình Ê-đê đã tạo dựng chuẩn mực và lòng
tin trong các MLXH nhằm duy trì và phát triển VXH.
Chương 3
TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐẾN SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH NGƯỜI Ê-ĐÊ
3.1. Tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội đến sản xuất nông
nghiệp của người Ê-đê
Tác động tích cực: Thúc đẩy phát triển sản xuất: Các quan hệ

xã hội mà mỗi cá nhân, gia đình người Ê-đê có được đều được coi
như là nguồn lực hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế. Sự tham gia vào
các MLXH khác nhau giúp họ chia sẻ thị trường, trao đổi khoa học
kỹ thuật, các kinh nghiệm sản xuất, liên kết trong sản xuất, vay vốn
hỗ trợ sản xuất và phương tiện lao động dễ dàng hơn. Sự hỗ trợ này
giúp giảm chi phí giao dịch và thời gian tìm hiểu, học hỏi của các cá
nhân, hộ gia đìnhtrong sản xuất.
21


Tác động tiêu cực: Kìm hãm sự phát triển sản xuất, Sự cố kết
chặt chẽ của mạng lưới thân tộc dẫn đến tính cục bộ dòng họ ăn sâu
vào trong tâm thức dẫn đến một số hạn chế nhất định, thiếu tầm nhìn
và đôi khi tạo nên những vấn đề bức xúc không đáng có trong cộng
đồng. MLXH chỉ loanh quanh buôn làng dẫn đến việc trao đổi, chia
sẻ kết nối về thông tin KHKT, thông tin thị trường chỉ trong phạm vi
nhóm mà không hề có sự tương tác, trao đổi đối với những người bên
ngoài. Bên cạnh đó, người Ê-đê sản xuất đơn lẻ hộ gia đình theo kiểu
“mạnh ai nấy làm”, không có sự hợp tác, liên kết hay sự ràng buộc
nào trong sản xuất và do vậy không tạo nên động lực hỗ trợ nhau để
cùng phát triển, vươn lên.
3.2. Liên kết mạnh và liên kết yếu của vốn xã hội đối với các hộ
gia đình
- Quan hệ yếu: Với người Ê-đê thì mối quan hệ này bao gồm:
những người họ hàng ở xa (xã, huyện khác); các nhóm bạn bè như
bạn học, bạn cùng nhóm sở thích, bạn đồng ngũ, người cho vay lãi,
những tổ chức chính thức như Chính quyền địa phương, Ngân
hàng,…
- Quan hệ mạnh: Với người Ê-đê đó là các mối quan hệ với bố
mẹ, anh chị em ruột trong gia đình, họ hàng ở cùng buôn, hàng xóm

trong buôn làng, bạn đồng niên thân thiết trong buôn, những người
cùng tổ chức tôn giáo, tổ liên gia, hội cà phê, và một số tổ chức có
cường độ tiếp xúc cao như hội Phụ nữ, hội Nông dân,…
3.3. Tiểu kết
Trong nội dung này, tính hai mặt của VXH được phân tích khá
sâu sắc. Một mặt, VXH có tác động thúc đẩy phát triển sản xuất nhờ
sự tương hỗ trong suốt quá trình sản xuất đồng thời tạo sự gắn kết,
tăng cường chia sẻ, tình cảm giữa các thành viên thông qua quá trình
22


tương hỗ, giao lưu, trao đổi,… Mặt khác, VXH có tác động làm kìm
hãm sự phát triển sản xuất do những đặc điểm của VXH co cụm
mang lại như sự cố kết thân tộc chặt chẽ, tính khép kín, ngại giao
tiếp,… trở thành những rào cản của sự phát triển.
KẾT LUẬN
Loại hình VXH cơ bản của người Ê-đê là sự tham gia vào các
MLXH chính thức tức là các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương
và các MLXH phi chính thức bao gồm các mối quan hệ gia đình,
dòng họ, cộng đồng, tổ chức tôn giáo và một số mối quan hệ bên
ngoài khác. Niềm tin và sự có đi - có lại gần như là tuyệt đối trong
các mối quan hệ của người Ê-đê.
Người Ê-đê vận dụng các MLXH khác nhau vào hoạt động sản
xuất nông nghiệp trong đó, mỗi khâu, mỗi công đoạn vận dụng một
MLXH chủ đạo khác nhau tùy vào nhu cầu của họ.
VXH có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển
đồng thời có những tác động tiêu cực làm kìm hãm sự phát triển do
những hạn chế mà VXH co cụm mang lại. Bên cạnh đó, việc mở
rộng VXH bên ngoài tạo cơ hội cho nhiều hộ gia đình Ê-đê có cơ hội
vươn lên thoát nghèo, điều này làm phân hóa giàu nghèo, ảnh hưởng

đến tính cộng đồng của người Ê-đê, tạo nên sự phân hóa theo dòng
họ, theo nhóm trong cộng đồng kìm hãm sự phát triển.

23


×