Tải bản đầy đủ (.pdf) (0 trang)

57 6 chìa khóa khớp cắn của andrew

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.22 KB, 0 trang )







SSO -Tự học chỉnh nha
sso.
ysem
www
inar
.bsc
.vn
hinh
nha
.com

© Bản quyền thuộc Y company

Tháng 15 - Tuần 2: 6 chìa khoá khớp cắn của
Andrew (báo cáo)
Andrews, Lawrence và Will: "6 yếu tố cho Sự hài hòa Răng Mặt",
phần trình bày trực tiếp tại ORTO 2004SPO ở Sao Paulo, Brasil,
ngày 09/10/2004
-------------------------

Tóm tắt bởi McGann
Có khoảng 500 thính giả trong phần thuyết trình dài 4 tiếng này ở Sao Paulo, đó
là một số lượng lớn trong số 3000 bác sĩ chỉnh nha tham dự hội nghị, trong khi
có 10 bài thuyết trình khác bằng tiếng địa phương diễn ra cùng lúc. Họ đã cung
cấp tai nghe dịch thuật bằng tiếng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, và có khoảng


95% số người tham dự sử dụng tai nghe này.
Larry Andrews, người cha, bắt đầu phần trình bày, nói rằng đây có thể chỉ là
phần tổng quan của chương trình học 12 ngày nhằm cung cấp các nội dung tổng
quát. Bất kỳ ai quan tâm sau phần trình bày này, hãy tham dự khoá học sau đó.
Nền tảng (nghiên cứu) của Andrews hiện nay là 6 yếu tố cho sự hài hòa của
khuôn mặt, một trong số đó là 6 Chìa khóa khớp cắn được giới thiệu trước đây
năm 1972. Các khí cụ dây thẳng (KCDT) là một cách để đạt được 6 chìa khóa
khớp cắn, trong đó 6 yếu tố này là "tiêu chuẩn", được xem là "tối ưu" .
Larry Andrews cho rằng các bác sĩ chỉnh nha nên là các chuyên gia về cắn khớp
và chức năng, cho những nha sĩ khác biết họ hiểu rõ cách thức các răng nên hoạt
động thế nào, không thua kém các nhà hàm học. Để đạt được trình độ hiểu biết
này, cần đưa mẫu hàm mỗi bệnh nhân lên giá khớp; trong khóa học, họ đã phát
triển loại giá khớp mới "dùng một lần" cho mỗi bệnh nhân chỉ với 30USD mỗi

Chịu trách nhiệm chương trình: Y company | BS. Lê Yến Minh | BS. Hồ Mộng Thùy Dương |


Tháng 15 - Tuần 2: 6 chìa khoá khớp cắn của Andrew!

PAGE

2

trường hợp theo giá sỉ. Ông nghĩ rằng chỉnh hình răng mặt KHÔNG xứng tầm là một
chuyên ngành, với tình trạng các tiêu chuẩn hiện nay và không có khả năng kết nối các
mục tiêu điều trị cuối cùng. Phân loại Angle KHÔNG đủ để phân loại các trường hợp.
Sáu yếu tố là:
1. Hình dạng và chiều dài cung răng: được xác định để giải quyết tranh cãi giữa nhổ
răng hay không nhổ răng
2. Vị trí hàm theo hướng trước- sau

3. Vị trí hàm sang bên
4. Vị trí hàm trên dưới
5. Độ nhô của Pogonion
6. 6 chìa khóa khớp cắn
Sáu chìa khóa cho sự hài hòa của răng, 6 yếu tố cho sự hòa hợp răng mặt, sự hài hòa
nhất mà bệnh nhân có thể đạt được. Mục tiêu điều trị 6 yếu tố thường liên quan đến
phẫu thuật chỉnh hình, và thường là quy trình ngoại trú tại San Diego. Larry đã thực
hành dựa trên 6 yếu tố này trong 15 năm, và bây giờ đã đủ hài lòng với các kết quả để
bắt đầu cho cuốn sách tiếp theo của mình về chủ đề này. Nếu không có sự đồng ý phẫu
thuật, thì bằng chỉnh nha đơn thuần bạn sẽ đạt được càng gần tiêu chuẩn càng tốt.
Sau đó, ông cho thấy những hình ảnh trước và sau điều trị (Ảnh mặt nghiêng bên phải
khi cười và ảnh khớp cắn bên phải) của 20 bệnh nhân để minh họa 6 yếu tố trên. Hầu
như tất cả đều kết hợp phẫu thuật chỉnh hàm và chỉnh nha. (Vậy ai hoàn tất kết quả
cuối cùng? Phẫu thuật viên hay Andrews? Nhiều thính giả lắc đầu vì phẫu thuật chỉnh
hàm hiếm có ở Brasil, quá tốn kém và thiếu phẫu thuật viên lành nghề).
Mỗi bệnh nhân được chỉ định dạng cung răng riêng biệt, được Andrews gọi là "dãy
WALA" viết tắt của Will Andrews và Larry Andrews, phát âm tương tự như
"Voilà" (Đây) trong tiếng Pháp. Đây là ranh giới niêm mạc – nướu răng chủ yếu ở mặt
ngoài của răng, và thường ở vị trí xương vỏ mặt ngoài. [Nhớ rằng McGann đã phát
hiện ra bóng lưỡi, phản ánh hình dạng của hàm dưới]. Andrews đánh dấu bằng tay mỗi
dây cung theo hình dạng và kích thước của dãy WALA. Không có gì được làm sẵn từ
trước.
Andrews tạo một bản mẫu với mặt phẳng nhai, các răng cửa trên nghiêng 7o và các
răng cửa dưới nghiêng -1o so với mặt phẳng này (như độ nghiêng của 120 trường hợp
bình thường được nghiên cứu để làm KCDT). Andrews thực hiện vẽ phim sọ nghiêng,
sau đó dời đến vị trí "đúng" của răng cửa bằng bản mẫu này, nơi chân răng nằm ở
chính giữa xương ổ răng hàm trên và vùng cằm xương hàm dưới (trên xương nền).

Chịu trách nhiệm chương trình: Y company | BS. Lê Yến Minh | BS. Hồ Mộng Thùy Dương |



Tháng 15 - Tuần 2: 6 chìa khoá khớp cắn của Andrew!

PAGE

3

[điều này cũng giống như khái niệm "bù trừ" trước phẫu thuật chỉnh hàm]. Nếu vẫn
còn sự chênh lệch trước-sau như còn cắn chìa, thì cần phẫu thuật để sửa chữa, sau khi
đã bù trừ bằng chỉnh nha để đạt được vị trí lý tưởng này. Chân răng ở trung tâm trên
xương nền và thân răng theo 6 chìa khóa. Ông KHÔNG dùng các phép đo sọ, CŨNG
KHÔNG dựa vào tương quan răng cối lớn. Ông muốn các răng cối lớn ở trung tâm của
xương (theo chiều ngoài-trong), điều này không thể thấy trên phim sọ nghiêng.
Ông nhận xét về việc nong ở trẻ em, có thể nong rộng xương ổ răng nhưng tất nhiên
không xâm lấn đến xương nền. Bạn sẽ không muốn làm bất cứ điều gì trên trẻ em mà
bạn không làm ở người lớn, Andrews nói.
Chỉnh nha cần có một tham chiếu để đặt các răng cửa trên nhằm tạo sự hài hòa khuôn
mặt tốt nhất. Mặt phẳng nhai và điểm FA để định vị các mắc cài theo 6 chìa khóa là
phổ biến. Thân răng sau đó sẽ nghiêng vì chúng phải hoạt động chức năng.
Kết luận Phần 1: Trợ thủ sẽ tạo dạng cung răng theo dãy WALA, rộng hơn điểm FA.
Do đó, KCDT sắp xếp răng theo dãy WALA, thỏa mãn Phần 1.
McGann bình luận về Phần 1: Tôi đồng ý với quan niệm dây cung được tạo cho mỗi
trường hợp, theo một tham chiếu riêng ở mỗi cá nhân, trong trường hợp này là dãy
WALA. Nhưng, điều này nghĩa là TẤT CẢ bệnh nhân sẽ nhận được hình dạng và kích
thước cung răng thường "duy trì" như hình dạng và kích thước cung răng ban đầu,
không nhắc tới những suy nghĩ xa hơn về việc nới rộng, thu hẹp, và dây cung không
phối hợp trong kế hoạch điều trị được lựa chọn. Ít nhất đây không phải là những bệnh
nhân đang điều trị theo "lý tưởng bình thường" như 120 bệnh nhân được nghiên cứu,
bổ sung thêm yếu tố cá nhân hóa cho dây cung. Thực tế, theo cách này, tôi không thấy
được việc dây cung đã được bẻ trước cho mỗi bệnh nhân, trước đó việc tạo dây cung

cho mỗi bệnh nhân theo quan niệm cung răng chẩn đoán (không khác nhau nhiều,
ngoại trừ việc Andrews dựa vào xương, còn cung răng chẩn đoán dựa vào răng) bị
giới chuyên môn phản đối. Andrews nói răng ở mọi chỗ, và tôi hoàn toàn đồng ý. Hệ
thống IP của bóng lưỡi và dây cung tạo sẵn, xem xét từng bệnh nhân VÀ ĐIỀU TRỊ, có
vẻ là câu trả lời thực tế hơn nhiều.

Will Andrews
Người con trai phụ trách trình bày Phần 2, 3, 4, 5. "Sẽ không bao giờ có" một vị trí nào
chính xác. Trong Phần 2, các răng ở phần 1 được đặt ngoài xương hàm, vậy bây giờ
xương hàm sẽ ở đâu? Cần có một đường tham chiếu. Cộng đồng sẽ quyết định đường
tham chiếu này, và Andrews liên kết đường này với trán vì đây là phần ổn định nhất
của đầu. Họ đã thu thập 1000 bức ảnh từ các tạp chí trong đó có hiện trán và các răng

Chịu trách nhiệm chương trình: Y company | BS. Lê Yến Minh | BS. Hồ Mộng Thùy Dương |


Tháng 15 - Tuần 2: 6 chìa khoá khớp cắn của Andrew!

PAGE

4

hàm trên để xác định sự chấp nhận của xã hội. Mặt phẳng trán của đầu sau đó được xác
định bởi trung điểm của Glabella và đường chân tóc (Trichion) và một đường thẳng
đứng tại trung điểm này của trán được vẽ ra theo "quyết định" của các bác sĩ. Các răng
cửa trên sẽ liên hệ với đường tham chiếu này. Đường đứng dọc thứ hai được kẻ song
song với mặt phẳng trán này từ điểm Glabella, tạo thành một "phạm vi" cho sự chấp
nhận vị trí răng cửa trên.
Họ nhận thấy rằng hiếm khi nào các răng cửa trên nghiêng ra phía trước đường (đứng
dọc) Glabella này, và hầu như không bao giờ nghiêng về phía sau đường thẳng đứng

FFA (trung điểm của trán). Sự đa dạng chủng tộc không quan trọng, cũng không khác
biệt giữa nam và nữ, kể cả tuổi (không cần dự báo tăng trưởng). Các đường tham chiếu
được rút ra bởi "ước lượng". Mặt phẳng ngang Frankfurt bị bỏ qua trong khi là một
tham chiếu tin cậy trong tất cả phép đo sọ khác. Họ cho thấy lên giá khớp mẫu hàm mà
mặt phẳng Frankfurt đưa ra dấu in mặt phẳng nhai sai lầm. Họ nói rằng: Hãy vứt bỏ
phim đo sọ.
Ông thảo luận về góc mũi môi và mặt phẳng E, cho thấy không nhất thiết phải có bất
kỳ mối liên hệ nào giữa môi và răng nằm dưới môi. Một số chủng tộc có môi dày hơn,
số khác có mô mềm phía trước răng mỏng hơn.
Tìm kiếm đường tham chiếu liên quan đầu tiên đến việc tìm kiếm FAA (điểm trục mặt
phía trước) của trán. Có 3 dạng trán, trán thẳng có FAA giữa Trichion và Glabella. Trán
"tròn" có một điểm khác gọi là "Superion" nằm trên đường cong nơi trán trở nên không
đáng kể về mặt lâm sàng so với mặt, với FAA giữa Superion và Glabella. Trán góc,
nghĩa là nó thẳng, đường cong gần chân tóc, Superion ở chỗ lồi của đường cong này,
và FAA giữa Superion và Glabella.
Sau đó ông làm một ước tính về độ nghiêng của răng theo chiều thẳng đứng của mặt từ
điểm này, chỉ ra "về trước 2 mm" hoặc "ra sau 2 mm" so với đường tham chiếu này.
Trán càng nghiêng, bắt đầu từ 7o, răng có thể về phía trước nhiều hơn 0,5mm cho 1o
nghiêng thêm, nhưng không bao giờ vượt quá Glabella.
Điểm Inferion là điểm trên răng cửa trên, ở phía trước hoặc phía sau mặt phẳng trán
của đầu. Sau đó họ chụp phim sọ nghiêng, đặt keo bari trên trán tại điểm Trichion,
FAA và Glabella, để có thể nhìn thấy những điểm này trên phim sọ nghiêng. Sau đó
"đánh giá lâm sàng" được chuyển đến các bản ghi phim sọ nghiêng, và từ đó quyết
định mục tiêu điều trị răng cửa lùi sau hay ra trước.

Chịu trách nhiệm chương trình: Y company | BS. Lê Yến Minh | BS. Hồ Mộng Thùy Dương |


Tháng 15 - Tuần 2: 6 chìa khoá khớp cắn của Andrew!


PAGE

5

Họ đã nghiên cứu về "quyết định" để xác định mặt phẳng trán từ các bức ảnh và xác
định độ lệch chuẩn là 1- 2 mm (tôi nhớ 1 ĐLC là 67% ile, vì vậy điều này không quá
ấn tượng với tôi, nhưng họ tất nhiên không giải thích độ lệch tiêu chuẩn).

Phần 3: vị trí ngoài trong của xương hàm
Điều này liên quan đến răng theo chiều rộng ngoài trong của hàm. Độ nghiêng chính
xác của răng cối lớn nên là -30o cho các răng 6 dưới và -7o cho các răng 6 trên, được đo
ở mặt ngoài. 5o tương đương 1mm răng di chuyển bằng nghiêng răng phía chóp trong
mở rộng hàm bằng dây tròn. Andrews nhìn vào răng cối lớn dưới để xác định xem
chúng cần được dựng thẳng để có độ nghiêng thích hợp hay không, sau đó xác định
việc nong rộng cần thiết. Điều này tất nhiên dẫn tới nhiều phẫu thuật nong rộng và
nong rộng nhanh chóng (50% xương là những gì tôi nhớ từ nong rộng nhanh chóng,
nhưng không cần chú trọng trong việc tính toán).

Phần 4:
Từ đường chân tóc đến Glabella nên có tỷ lệ 1/3 của khuôn mặt, cũng như từ
Glabella đến Subnasale, và từ Subnasale đến Menton. Ở phía sau, lỗ ống tai ngoài (tai
trên khuôn mặt) đến Gonion mô mềm cũng nên là tỷ lệ 1/3. Điều này dường như giúp
họ lập kế hoạch phẫu thuật.
Phần 5: Răng cửa dưới đến Pogonion.
Bạn không muốn Pogonion ở phía trước các răng cửa dưới. Hơn 10 bệnh nhân cho
thấy vậy, tất cả được phẫu thuật để đáp ứng tiêu chí này.

Larry Andrews trở lại
6 chìa khóa là phần cuối cùng. Có các công cụ và quy tắc, dùng để đạt được KCDT.
Ông vẫn đề nghị một số thông số cho các mắc cài nhổ răng, trong đó nhấn mạnh

chuyển động nghiêng và xoay khi đóng khoảng nhổ răng.
Sau đó, ông mô tả quá trình họ đề nghị: 3 ngày để chẩn đoán, 3 ngày để lên giá khớp
và làm máng, giải quyết các RLTDH trước chẩn đoán chỉnh nha với chẩn đoán thực
sự về tương quan trung tâm.
Chỉ sử dụng một khí cụ cho tất cả bệnh nhân sẽ là thiếu sót. Giá khớp occlusofacial giá khớp khớp cắn sọ mặt nên được sử dụng cho mọi bệnh nhân điều trị để có tương
quan trung tâm.

Chịu trách nhiệm chương trình: Y company | BS. Lê Yến Minh | BS. Hồ Mộng Thùy Dương |


Tháng 15 - Tuần 2: 6 chìa khoá khớp cắn của Andrew!

PAGE

6

Vào lúc phần trình bày về 6 chìa khóa bắt đầu, có khoảng 50% số thính giả còn lại so
với ban đầu. Vào cuối buổi trình bày, khoảng 90% đã vắng mặt. Câu hỏi được đặt ra:
1. 014N chỉ được sử dụng trong vài tháng đầu tiên vì không thể đo theo dãy WALA,
tiếp theo phải bẻ tuỳ chỉnh trên dây thép không gỉ.
2. Không có VTO và dự báo tăng trưởng vì giữ nguyên các tỷ lệ .

McGann nhận xét:
Đây là thói quen cũ cố gắng điều trị mọi người đạt đến tiêu chuẩn, trong số 120 bệnh
nhân lý tưởng ban đầu mà không chỉnh hình trước đó. Một nỗ lực nhỏ cá nhân hóa
được thực hiện với dây cung và 11 bộ mắc cài nhổ răng, nhưng cách rút ngắn chẩn
đoán bệnh nhân cá nhân hóa, lập kế hoạch điều trị, và điều trị theo ý kiến của tôi.
Phẫu thuật đã được tin là mang đến cho mọi người "sự lý tưởng ", điều này rất nguy
hiểm. Chúng tôi không bao giờ tạo sự phù hợp với tất cả mọi người theo tiêu chuẩn
nào, thay vì phải đối xử với mỗi cá nhân theo giá trị riêng của chính họ.


Chịu trách nhiệm chương trình: Y company | BS. Lê Yến Minh | BS. Hồ Mộng Thùy Dương |



×