Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

huy động vốn của các ngân hàng điển hình tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.86 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HCM
Khoa: Quản Trị Kinh Doanh


Môn: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG

Đề Tài: HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN
HÀNG ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM


MỤC LỤC
Lời mở đầu………………………………………………………………………………..2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI………………………..3
1.1. Hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường…………………………..3
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại……………………………………
3
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại……………………………………..3
1.2. Vốn huy động và công tác huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại…………………………………………………………………...4
1.2.1. Khái niệm về vốn………………………………………………………….4
1.2.2. Khái niệm và vai trò vốn huy động………………………………………5
1.2.3. Các hình thức huy động vốn……………………………………………..6
1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn……………………………10
1.3.1. Các nhân tố khách quan………………………………………………10
1.3.2. Các nhân tố chủ quan………………………………………………….11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI ĐIỂN HÌNH TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY……………….14
2.1.
Tình
hình


vốn………………………………………………………..14

huy

động

2.1.1. Tình hình huy động vốn của ngân hàng Vietcombank………………14
2.1.2.Tình hình huy động vồn tại ngân hàng TMCP Á Châu…………….....16
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn tại ngân hàngVietcombank và Á
Châu..………………………………………………………….………………………...17
2.2.1. Tình hình kinh tế năm 2011…….…………….………………………..17
2.2.2. Chính sách của Ngân Hàng Nhà Nước…………………………...........17
2.2.3.
Sức
mạnh
…………………………………...............17
2.2.4.
Mạng
lưới
……………………………...........18

thương
hoạt

hiệu……...
động………………..

2.2.5. Trình độ công nghệ ngân hàng………………………………………….19
2.3. So sánh tình hình huy động vốn của các loại hình ngân hàng tại việt nam..19
2.3.1. Thị phần huy động vốn………………..………………………………..19



2.3.2.
Lợi
thế
cạnh
vốn…………………………...21

tranh

trong

việc

huy

động

Tài liệu tham khảo………………………………………………………………………23

LỜI MỞ ĐẦU
Nguồn vốn huy động của ngân hàng chính là lượng tiền nhàn rỗi trong nền
kinh tế, mà được gửi vào ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư.
Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò trung gian vốn, phân phối lại nguồn vốn
này, làm tăng nhanh quá trình luôn chuyển vốn, kích thích hoạt động kinh tế phát
triển. Các hoạt động này quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, cũng
như sự hoạt động hiệu quả của ngân hàng là công cụ hiệu quả để nhà nước điều tiết
nền kinh tế.
Hiện nay, huy động vốn ở các ngân hàng đang gặp khó khăn bởi sự khủng
hoảng của nền kinh tế cũng như sự cạnh tranh của chính các ngân hàng với nhau,

cạnh tranh với các định chế phi ngân hàng (công ty tài chính, bảo hiểm, công ty
cho thuê tài chính, các quỹ đầu tư, bưu điện). Vì vậy, các ngân hàng phải nâng cao
uy tín của mình, quy mô của ngân hàng và trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật
cần được cải thiện không ngừng để thu hút nguồn vốn của nền kinh tế, đồng thời
các ngân hàng ở nước ta hiện nay còn chạy đua lãi suất, thực hiện các hình thức
khuyến mãi, tặng quà dành cho khách hàng gửi tiền tại ngân hàng. Sau đây, nhóm
em xin trình bày thực trạng huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam và ngân hàng Á Châu.


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Để đưa ra được một định nghĩa về ngân hàng thương mại, người ta thường phải
dựa vào tính chất mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi khi còn kết
hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động. Theo Luật của các TCTD tại Việt Nam.
“NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.
Trong đó: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán”.
Mặc dù trên thế giới có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng khi phân tích khai
thác nội dung của các định nghĩa đó, người ta dễ nhận thấy các NHTM đều có chung một
tính chất, đó là việc nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp
vụ cho vay, đầu tư và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Từ khái niệm về NHTM nêu trên áp dụng vào thực tế nước ta, một nước có hơn
70% dân số sống bằng nghề nông, việc phát triển sản xuất theo chiều hướng CNH - HĐH
rất cần đến NHTM với vai trò to lớn của nó. Nhất là khi quá trình CNH - HĐH của chúng

ta đã đi vào chiều sâu, yêu cầu cần có vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng tốc đầu tư,
từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu
bền, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế năm thì vai trò của các NHTM
càng được Đảng và Nhà nước ta coi trọng.
a. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và
các tổ chức trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, có
mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất
và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế. Điều đó
muốn làm được lại cần có vốn. Vốn được coi như nguồn “thức ăn” chính thức cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Khi “thức ăn” bị thiếu, doanh nghiệp sẽ
mất đi cơ hội đầu tư mới hoặc không tiến hành kịp thời quá trình tái sản xuất. NHTM
chính là người đứng ra tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân,
mọi thành phần kinh tế... Thông qua hình thức cấp tín dụng, ngân hàng đã tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, thiết bị, đổi mới qui
trình công nghệ, nâng cao năng suất lao động đem lại hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là
đưa doanh nghiệp lên những nấc thang cạnh tranh cao hơn. Cạnh tranh càng mạnh mẽ,
kinh tế càng phát triển. Như vậy với khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở thành một
trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.


b. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, giúp cho các nhà kinh
doanh trong xây dựng chiến lược quản lý doanh nghiệp
Thị trường ở đây được hiểu ở hai góc độ, thị trường đầu vào và thị trường đầu ra
của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, doanh
nghiệp cần phải tham gia vào thị trường đầu vào nhằm thực hiện thành công chiến lược
5P: Product (sản phẩm), Price (giá cả), Promotion (giao tiếp, khuyếch trương), Place (địa
điểm) và People (con người). Từ đó tiếp cận mạnh mẽ vào thị trường đầu ra, tìm kiếm lợi
nhuận. Qui trình đó chỉ được bắt đầu khi doanh nghiệp trang bị được đầy đủ vốn cần
thiết. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng về tài chính. Do vậy,

buộc họ phải tìm kiếm vốn phục vụ chính họ. Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ giúp các
doanh nghiệp giải quyết những khó khăn đó, tạo cho doanh nghiệp có đủ khả năng thoả
mãn tối đa nhu cầu của thị trường trên mọi phương diện: giá cả, chủng loại, chất lượng,
thời gian, địa điểm... NHTM sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn
cả về không gian và thời gian.
c. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá như hiện nay thì vai trò này ngày càng thể
hiện rõ rệt hơn. áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập
phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực về tài chính. Nhưng làm thế
nào để có thể hoà nhập nền tài chính của một quốc gia với phần còn lại của thế giới? Câu
hỏi đó sẽ được giải đáp nhờ vào hệ thống các NHTM vì hệ thống này có khả năng cung
cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc đầu tư từ nước ngoài vào trong
nước theo các hình thức: thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái, cho vay uỷ thác đầu tư...
giúp cho luồng vốn ra, vào một cách hợp lý, đưa nền tài chính nước nhà bắt kịp với nền
tài chính quốc tế. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết cho tiến trình hội nhập
kinh tế ở các quốc gia trên thế giới.
d. Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế vì
hoạt động Ngân hàng góp phần chống lạm phát
Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua con
đường tín dụng. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ tăng tỉ lệ vào dự trữ bắt
buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua các ngân hàng
thương mại thay đổi lại lượng tiền trong lưu thông. Các Ngân hàng thương mại sẽ kiểm
soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Từ đó ngân hàng xác định
được hướng đầu tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý những tác động xấu ảnh hưởng đến
nền kinh tế, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, góp phần điều hoà lưu thông
tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
1.2. Vốn huy động và công tác huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về vốn
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo

lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh


khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại, quyết định sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng bao gồm:
+ Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu

của ngân hàng. Nó mang tính ổn định và căn cứ để quyết định đến khả năng và khối
lượng vốn huy động của ngân hàng.
+ Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế
và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để kinh doanh. Vốn huy động là tài sản
thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng và phải hoàn trả đúng
gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến động, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan
trọng đối với mọi hoạt động của ngân hàng.
+ Vốn đi vay là phần vốn các Ngân hàng đi vay để bổ sung vào vốn hoạt động của mình
trong trường hợp tạm thiếu vốn khả dụng. Nó có chi phí tương đối cao cho nên chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
+ Vốn khác là phần vốn phát sinh trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ thanh toán…
1.2.2. Khái niệm và vai trò vốn huy động
Vốn huy động là công cụ chính đối với các hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nó
là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng và giữ vị trí
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặc dù bị giới hạn về mức huy
động vốn, song nếu các NHTM sử dụng tốt nguốn vốn này thì không những nguồn lợi
của ngân hàng được tăng lên mà còn tạo cho ngân hàng uy tín ngày càng cao. Qua đó
ngân hàng có thể mở rộng được vốn và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn
bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với
Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là tiền tệ với đặc
thù hoạt động kinh doanh là “đi vay để cho vay” nên nguồn vốn đối với hoạt động kinh

doanh của Ngân hàng lại càng có vai trò hết sức quan trọng. Vốn là điểm đầu tiên trong
chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Ngoài vốn ban đầu cần thiết tức là đủ vốn điều lệ theo
luật định thì để bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình, việc đầu tiên mà ngân hàng phải
làm là huy động vốn. Vốn huy động sẽ cho phép ngân hàng cho vay, đầu tư... để thu lợi
nhuận. Nói cách khác, nguồn vốn mà ngân hàng huy động được nhiều hay ít quyết định
đến khả năng mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Nguồn vốn huy động được nhiều thì cho vay
được nhiều và mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Với chức năng tập trung và phân phối cho các nhu cầu của nền kinh tế, một nguồn
vốn huy động dồi dào sẽ tạo cho ngân hàng điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh,
đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư, giảm thiểu rủi ro, tạo dựng
được uy tín cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động của ngân hàng quyết định đến khả năng cạnh
tranh. Nếu nguồn vốn huy động lớn sẽ chứng minh rằng qui mô, trình độ nghiệp vụ,
phương tiện kĩ thuật của ngân hàng hiện đại.


Các ngân hàng thực hiện cho vay và nhiều hoạt động khác đều chủ yếu dựa vào
vốn huy động. Còn vốn tự có chỉ sử dụng trong những trường hợp cần thiết. Vì vậy, khả
năng huy động vốn tốt sẽ là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng
quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động
về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng.
Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ
tăng lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh
doanh, đảm bảo uy tín và năng lực trên thị trường.
Với những vai trò hết sức quan trọng đó, các ngân hàng luôn tìm cách đưa ra
những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ những người gửi tiền và những
người cho vay khác nhau đến việc sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả. Bên cạnh đó,
các nhà quản trị ngân hàng cũng luôn tìm cách để đổi mới, hoàn thiện chúng cho phù hợp
với tình hình chung của nền kinh tế. Đó là một trong những điều kiện tiên quyết đưa ngân
hàng đến thành công.

1.2.3. Các hình thức huy động vốn
a.. Tiền gửi của khách hàng
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp cơ quan
Nhà nước và các định chế tài chính trung gian cùng cá nhân trong và ngoài nước có quan
hệ gửi tiền tại ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: Tiền gửi của doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
 Tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế bao gồm:

- Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và ngân hàng phải
thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, thực chất đó là khoản tiền gửi dùng để đảm bảo
trong thanh toán.
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký ýthác vào ngân hàng để thực hiện các khoản
chi trả khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng một cách
thuận tiện và tiết kiệm. Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chờ thanh toán mà không
phải để dành. Bởi vậy đối với khách hàng đây là một tài sản mà họ kýý thác uỷ nhiệm
cho ngân hàng bảo quản và thực hiện các nghiệp vụ liên quan theo yêu cầu của khách
hàng. Do vậy khách hàng không mất quyền sở hữu, cũng như quyền sử dụng số tiền đó.
Họ có quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ ai và bất kỳ thời gian nào. Khách
hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương tiện thanh toán dùng để chi trả như
séc, uỷ nhiệm chi, thư chuyển tiền…
Đối với ngân hàng đây là một khoản nợ mà ngân hàng có nghĩa vụ thực hiện lệnh
thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi này, lãi suất thường thấp hơn lãi suất
trả cho các khoản tiền gửi có lãi khác.Nhưng khi khách hàng mở và sử dụng các loại tài


khoản này thì được ngân hàng cung ứng các loại dịch vụ miễn phí hoặc thu với tỷ lệ thấp,
lượng tiền vốn ở tài khoản thanh toán thường chiếm gần 1/3 tiền gửi ngân hàng.
Như vậy các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn trong việc bảo quản

vốn và trong qúa trình thanh toán trả tiền hàng hoá dịch vụ, ngoài ra khách hàng còn
được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và một số dịch vụ miễn phí. Còn đối với ngân hàng
phải bỏ ra một số chi phí cho bộ máy kế toán theo dõi và nghi chép các nghiệp vụ phát
sinh, chi phí phát hành séc và một số dịch vụ kèm theo. Chi phí này khá lớn, nhưng nó
được bù đắp lại bởi vì trên thực tế do lượng tiền gửi vào và số lượng tiền rút ra không
cùng một lúc và chủ tài khoản thường không sử dụng hết số tiền của mình trên tài khoản.
Do đó luôn tồn tại một số tiền trên tài khoản trong một thời gian dài số dư ấy được ngân
hàng dùng để đầu tư cho vay đối với một số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn sản xuất,
kinh doanh để thu lợi nhuận. Như vậy đối với tài khoản tiền gửi thanh toán số dư trên tài
khoản giao dịch không những bù đắp được chi phí mà còn có thể mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng.
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ mới được ứng
dụng vào hoạt động ngân hàng. Vì vậy đã có nhiều doanh nghiệp, cá nhân mở tài khoản
giao dịch tại ngân hàng, làm cho lượng tiền gửi này ngày càng gia tăng. Đó là những
nguồn vốn dùng để cho vay hết sức quan trọng của ngân hàng, đồng thời lợi nhuận thu về
từ nguồn vốn này cũng ngày càng tăng.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp, chưa sử dụng
đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời gian này được xác định trước. Do đó
cá doanh nghiệp thường gửi vào ngân hàng dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Phần lớn
các nguồn tiền gửi này xuất phát từ nguồn tích luỹ của các doanh nghiệp mà có. Về
nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn và được hưởng số tiền lãi trên số
tiền gửi đó. Nhưng hiện nay để thu hút vốn nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng, các NHTM cho phép khách hàng rút tiền ra trước thời hạn. Trong trường hợp
này khách hàng không được hưởng lãi hoặc chỉ được hưởng theo lãi suất của tiền gửi
không kỳ hạn.
Do tính chất của loại tiền vốn tương đối ổn định, ngân hàng có thê sử dụng phần lớn
số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn. Nếu nguồn vốn này chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo điều kiện thuận lợi, chủ động của ngân hàng
trong quá trình kinh doanh, các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn nhằm đáp ứng

nhu cầu tiền gửi của khách hàng. Hiện tại các NHTM có các loại tiền gửi có kỳ hạn 1
tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng 9 tháng, 1 năm, 2 năm. Với mỗi một kỳ hạn khác nhau
thì ngân hànng áp dụng một loại lãi suất khác nhau. Thông thường thì thời hạn càng dài
thì lãi suất càng cao. Các NHTM thường khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn
dài, vì loại tiền này tương đối ổn định, ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh. Để thu
hút được nhiều nguồn vốn dài hạn thì tốc độ phát triển nền kinh tế phải ổn định, giá trị
đồng tiền được đảm bảo, lạm phát vừa phải (thường là một con số một năm) và tình hình
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng có hiệu quả.


 Tiền gửi tiết kiệm dân cư:

Tiển gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi các nhân được gửi vào Ngân hàng,
nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập bằng tiền gửi
của cá nhân chưa sử dụng được gửi vào tổ chức tín dụng. Nó là một dạng đặc biệt của
tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Khi gửi tiền người gửi tiền được giao một sổ tiết
kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân hàng. Đến thời hạn khách hàng rút
tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền gửi tích kiệm.
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi bất
kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không được sử dụng
các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác, lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao
hơn và phần lớn những người gửi tiền tiết kiệm là do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu
cụ thể trong tương lai, nhưng lại hưởng mức lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tích kiệm có kỳ hạn trên cơ sở thoả
thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi suất theo qui định và khách hàng
chỉ được rút tiền ra khi đến hạn. Nhưng trong thực tế ở nước ta hiện nay để khuyến khích
người gửi tiền các NHTM vẫn cho khách hàng rút ra trước thời hạn và được hưởng lãi

suất thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn (thông thường bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn).
Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định, cho nên các NHTM
thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau như loại 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24
tháng… nhằm thu hút càng nhiều nguồn vốn với lãi suất của các kỳ hạn khác nhau.
Thông thường kỳ hạn ngày càng dài thì lãi suất huy động ngày càng cao (lãi suất tiền gửi
có kỳ hạn lớn hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán).
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng lớn thứ hai trong
tổng số các loại tiền gửi vào ngân hàng và nó phục thuộc rất lớn vào thu nhập bình quân
theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập của dân cư, chất lượng phục vụ của
NHTM, sự ổn định đồng tiền và nền kinh tế tăng trưởng vững chắc.
b. Tạo vốn qua phát hành công cụ nợ
Vốn phát hành của ngân hàng, đây là hình thức huy động vốn thông qua phát hành kỳ
phiếu, trái phiếu…Đó là các công cụ nợ của ngân hàng.
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Mục đích
huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn. Nguồn vốn này được huy động theo
nhiều thời hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Thời hạn càng dài thì lãi suất
càng cao. Hiện nay ở Việt nam các NHTM thường huy động nguồn vốn này dưới hình
thức phát hành kỳ phiếu có mục đích và trái phiếu trung, dài hạn.


 Phát hành kỳ phiếu có mục đích.

Khi các NHTM có nguồn vốn tài chính dồi dào để tài trợ cho các nguồn vốn có qui
mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hoặc liên doanh,
liên kết với các tổ chức kinh tế mà các nguồn vốn tự có chưa đáp ứng được, NHTM trình
ngân hàng Nhà nước xin phép phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn vốn tín dụng tương đối
lâu dài cho các hoạt động này.
Như vậy kỳ phiếu là một chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn, người sở
hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận của ngân hàng, vì trên sổ kỳ

phiếu có ghi tên người hưởng. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành nhằm huy động vốn
trong dân cư một cách linh hoạt có tác dụng thu hút cá nguồn tiền nhàn rỗi vào ngân
hàng, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị của đồng tiền, tạo nguồn vốn trung dài
hạn để đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế.
 Phát hành trái phiếu.

Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy nhận nợ có kỳ hạn của ngân hàng đối với
những người mua trái phiếu (nhà đầu tư). Trái phiếu được các NHTM hay các tổ chức tín
dụng phát hành nhằm huy động vốn cho chính bản thân ngân hàng hoặc các tổ chức tín
dụng có liên quan. Thời hạn của trái phiếu thường lớn hơn một năm. Lãi suất của trái
phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Các NHTM phát hành trái
phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn thông qua các dự án đầu tư của các doanh nghiệp
mà ngân hàng cam kết cho vay.
Huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các NHTM như kỳ
phiếu, trái phiếu là một hình thức mới trong công tác huy động vốn của NHTM ở cá nước
đang phát triển. Vốn được huy động từ hình thức này dùng để đầu tư cho các dự án trung
và dài hạn.
Ở nước ta hình thức này được Ngân hàng sử dụng từ năm 1992. Nhưng cho đến nay
khối lượng vốn huy động của NHTM qua hình thức này vẫn còn thấp so với các hình
thức huy động vốn truyền thống khác. Để phát huy được thế mạnh của công cụ huy động
vốn này đòi hỏi phải có thị trưòng vốn hoàn chỉnh (thị trưòng chứng khoán). Ở nước ta
thị trường này mới được thành lập cho nên hoạt động của nó chưa ảnh hưởng nhiều đến
hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
c. Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác và ngân hàng Trung ương
Khi các NHTM có sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn, xảy ra
hiện tượng thiếu vốn đột xuất.
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các tổ chức tín dụng vay vốn của nhau
qua thị trường liên ngân hàng. Thị trường này giúp cho NHTM bổ sung nguồn vốn cho
nhau, nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn trong thanh toán. Hoạt động của thị trường
này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn có một cách triệt để của các tổ

chức tín dụng, trước khi có nhu cầu vay vốn của ngân hàng Trung ương.


Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các NHTM phải được tiến hành theo nguyên tắc
đi vay cho vay và phải được thoả thuận trên cơ sở hợp đồng tín dụng, vốn vay phải đảm
bảo bằng thế chấp, cầm cố (tiền mặt tại quĩ và các chứng từ có giá trị), hay NHTM đi vay
có thể xin ngân hàng Nhà nước bảo lãnh để vay vốn các ngân hàng khác. Các ngân hàng
đi vay phải chấp hành đầy đủ các quy chế dự trữ bắt buộc và an toàn vốn, phải có tài
khoản tiền gửi thanh toán hoạt động thường xuyên tại NHTW.
Khi các NHTM đã hết khả năng vay mượn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc mất khả
năng thanh toán, các NHTM thực hiện vay vốn tại ngân hàng Trung ưng để tạo thêm
nguồn vốn bổ sung cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc ngân hàng Trung ương cho
các NHTM vay đã làm tăng khả năng thanh toán cho các NHTM. Nguồn vốn của ngân
hàng Trung ương là nguồn vốn cuối cùng, làm cho khả năng thanh toán của nền kinh tế
được bình thường. Nếu như thiếu nguồn vốn này thì sẽ xuất hiện các cuộc khủng hoảng
tài chính khi các NHTM mất khả năng thanh toán.
Các nguồn vốn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ ngân hàng Trung ương để đảm
bảo khả năng thanh toán trong những trường hợp cần thiết. Cho nên thời hạn vay thường
ngắn, lãi suất thường cao hơn các hình thức huy động vốn khác của NHTM.
d. Tạo vốn từ nguồn vốn khác
Ngoài các nguồn vốn huy động trên các NHTM cũng có thể khai thác nguồn vốn từ
các tổ chức tài chính quốc tế, đây là nguồn vốn lớn, có thời hạn tương đối dài từ 5 đến 50
năm với lãi suất tương đối ưu đãi. Khi các NHTM nhận các nguồn vốn này thường có các
điều kiện kèm theo rất chặt chẽ và việc cấp phát phải đúng nội dung chương trình của các
dự án tài trợ.
Ở nước ta khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, Đảng và Nhà nuớc ta đã sáng
suốt lựa chọn các đường lối ngoại giao đúng đắn, trên tinh thần mở cửa của nền kinh tế,
làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, thu hút các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài
vào Việt nam. Các nguồn vốn này có đóng gỏp rất quan trọng vào công cuộc đổi mới
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước và NHTM phải

tăng cường mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế, từ đó tranh thủ và tiếp nhận các
nguồn vốn này.
Trên đây là các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM, tuy nhiên chất lượng,
hiệu quả của hoạt động huy động vốn chịu ảnh hưởng tác động rất nhiều yếu tố, từ các
yếu tố mang tính chất vĩ mô, đến các yếu tố mang tính chât vi mô của nền kinh tế, cũng
như các yếu tố liên quan tới chính NHTM.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn
1.3.1. Các nhân tố khách quan
a. Môi trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chịu sự điều chỉnh rất lớn của môi trường
pháp lý. Có những Bộ Luật tác động trực tiếp mà chúng ta thường thấy như: Luật các
TCTD, Luật NHNN... Những Luật này qui định tỉ lệ huy động vốn của ngân hàng so với


vốn tự có, qui định về việc gửi và sử dụng tài khoản tiền gửi... Có những Bộ Luật tác
động gián tiếp đến hoạt động ngân hàng như Luật đầu tư nước ngoài hoặc các NHTM
không được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi
suất do NHNN đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định mà NHNN cho phép...
Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một quốc gia cũng ảnh
hưởng rất lớn tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Nó được thể hiện ở mục tiêu của chính
sách tiền tệ, chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt
tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó NHTM huy
động vốn dễ dàng hơn. Như vậy, môi trường pháp lí là nhân tố khách quan có tác động
rất lớn tới quá trình huy động vốn của NHTM. Mục tiêu hoạt động của NHTM được xây
dựng vào các qui định, qui chế của Nhà nước để đảm bảo an toàn và nâng cao niềm tin từ
khách hàng.
b. Môi trường kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động không nhỏ đến quá
trình huy động vốn của ngân hàng. Khi nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái thì nó đều
ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Mọi biến động của nền kinh tế bao giờ

cũng được biểu hiện rõ trong việc tăng, giảm nguồn vốn huy động từ bên ngoài của ngân
hàng. Nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn,
do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn của NHTM thuận lợi. Ngược lại, khi nền kinh
tế suy thoái, lạm phát tăng, người dân không gửi tiền vào ngân hàng mà giữ tiền để mua
hàng hoá, việc thu hút vốn gặp khó khăn.
c. Tâm lý, thói quen khách hàng
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân hàng và những
đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các nước phát triển, khách hàng luôn
có tài khoản cá nhân và thu nhập được chuyển vào tài khoản của họ. Nhưng ở các nước
kém phát triển, nhu cầu dùng tiền mặt thường lớn hơn. Ở khoản mục tiền gửi tiết kiệm có
hai yếu tố quan trọng tác động vào là thu nhập và tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập
ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà Ngân hàng có thể huy động trong tương lai. Còn
yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng
vào tương lai của khách hàng có tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược
lại nếu niềm tin của khách hàng về đồng tiền trong tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng
rút tiền hàng loạt vốn là mối lo ngại lớn của mọi ngân hàng. Một đặc điểm quan trọng của
đối tượng khách hàng là mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Mức độ sử dụng càng cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
a.Các hình thức huy động vốn
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng hình thức
huy động vốn. Hình thức huy động vốn của ngân hàng ngày càng phong phú, linh hoạt
bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát
từ sự khác nhau trong nhu cầu và tâm lí của các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng các


hình thức huy động càng cao thì dễ dàng đáp ứng một cách tối đa nhu cầu của dân cư, vì
họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù hợp mà lại an toàn. Do vậy các
NHTM thường cân nhắc rất kĩ lưỡng trươc khi đưa vào áp dụng một hình thức mới.
b. Chính sách lãi suất cạnh tranh

Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau đã trở nên cực
kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền gửi hiện có. Điều
này đặc biệt đúng khi lãi suất thị trường đã ở vào mức tương đối cao. Các ngân hàng cạnh
tranh giành vốn không chỉ với các ngân hàng khác mà còn với các tổ chức tiết kiệm khác,
các thị trường tiền tệ và với những người phát hành các công cụ tài chính khác nhau trong
thị trường tiền tệ.Khi lãi suất tối đa bị loại bỏ trong quá trình nới lỏng các quy định, việc
duy trì mức lãi suất cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm
tiền tệ, đủ cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền
tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác hay từ công cụ
này sang công cụ khác.
c. Năng lực và trình độ cán bộ ngân hàng
* Về phương diện quản lí, nếu ngân hàng có trình độ quản lí tốt sẽ có khả năng tư
vấn phù hợp cho khách hàng đem lại hiệu quả cao thì sẽ thu hút được khách hàng đến với
mình. Mặt khác, quản lí tốt sẽ đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, tạo điều kiện tốt
cho công tác huy động vốn của ngân hàng.
* Về trình độ nghiệp vụ: trình độ của cán bộ ngân hàng ảnh hưởng lớn tới chất lượng
phục vụ, chi phí dịch vụ làm ảnh hưởng tới việc thu hút vốn của ngân hàng.
Hiện nay, ở nhiều Ngân hàng Việt Nam, trình độ nghiệp vụ của cán bộ có nhiều
bất cập. Vì vậy, cần phải chú trọng vào việc nâng cao trình độ cho cán bộ sao cho phù
hợp với nhu cầu đòi hỏi của kinh tế thị trường
d. Công nghệ ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng được thể hiện theo các yếu tố sau:
Thứ nhất: Các loại dịch vụ mà ngân hàng cung ứng
Thứ hai: Trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên ngân hàng
Thứ ba: Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng ngày càng cao, khách hàng sẽ càng cảm thấy hài lòng
về dịch vụ được ngân hàng cung ứng và yên tâm hơn khi gửi tiền tại các ngân hàng. Đây
là một yếu tố rất quan trọng giúp ngân hàng cạnh tranh phi lãi suất vì khách hàng mà
ngân hàng phục vụ, không quan tâm đến lãi suất mà quan tâm đến chất lượng và loại hình
dich vụ mà ngân hàng cung ứng. Với cùng một lãi suất huy động như nhau, ngân hàng

nào cải tiến chất lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức cạnh
tranh sẽ cao hơn.
e. Các dịch vụ ngân hàng cung ứng


Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có lợi thế hơn so các ngân hàng có
các dịch vụ hạn chế. Trong điều kiện thành phố thiếu bãi đậu xe, ngân hàng có bãi đậu xe
rộng rãi cũng là một lợi thế hoặc ngân hàng có giao dịch mặt đường trên các phố chính,
có hệ thống rút tiền tự động làm việc ngày đêm, có cán bộ giao dịch niềm nở, có trách
nhiệm, tạo được niềm tin cho khách hàng cũng là lợi thế đáng quan tâm của các NHTM.
Khác về cạnh tranh, về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không giới hạn, do vậy
đây chính là điểm mạnh để các ngân hàng giành thắng lợi trong cạnh tranh.
f. Mức độ thâm niên của một Ngân hàng:
Đối với các khách hàng khi cần giao dịch với một ngân hàng thì bao giờ họ cũng
dành phần ưu ái đối với một ngân hàng có thâm niên hơn là một ngân hàng mới thành
lập. Bởi vì, theo họ thì một ngân hàng thâm niên là một ngân hàng có uy tín, vững vàng
trong nghiệp vụ, có nguồn vốn và có khả năng thanh toán cao. Do vậy, mức độ thâm niên
về một khía cạnh nào đó cũng tạo ra được lòng tin đối với khách hàng
g. Chính sách quảng cáo
Không một ai có thể phủ nhận được vai trò to lớn của chính sách quảng cáo trong
thời đại ngày nay. Trong hoạt động ngân hàng hiện đại, quảng cáo luôn được đề cao và
cần phải có một chi phí nhất định cho công tác này. Đồng thời ngân hàng cũng phải có
chiến lược quảng cáo đặc biệt không chỉ trên truyền hình mà nên dùng cả Pano, áp phích,
tờ rơi nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn.
h. Mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn
Mạng lưới huy động vốn của các ngân hàng thường biểu hiện qua việc tổ chức các
quĩ tiết kiệm. Mạng lưới huy động không chỉ được mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho
người gửi tiền, mà cần được mở ra ở cả những nơi cách xa trung tâm kinh tế như nông
thôn, vùng sâu, vùng xa để từ đó nâng cao được hiệu quả huy động vốn.
Trên đây là các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của các hệ thống ngân

hàng thương mại. Với mỗi ngân hàng trong những giai đoạn khác nhau, mức độ ảnh
hưởng của các nhân tố trên đến hoạt động huy động vốn cũng khác nhau. Tùy thuộc vào
tình hình cụ thể mà các ngân hàng có thể xây dựng cho mình một chiến lược huy động
thích hợp.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI ĐIỂN HÌNH TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1. Tình hình huy động vốn
2.1.1. Tình hình huy động vốn của ngân hàng Vietcombank


Trong năm 2010 dự báo trước tình hình sẽ xảy ra cạnh tranh gay gắt giữa các TCTD
trong hoạt động huy động vốn, ngay từ đầu năm Vietcombank đã xác định mục tiêu tăng
cường huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của năm. Triển khai nhiệm vụ này,
trong năm 2010, Vietcombank đã giao chỉ tiêu huy động vốn đến từng chi nhánh, đồng
thời tích cực đa dạng hóa các sản phẩm huy động vốn có lãi suất hợp lý, đi kèm các
chương trình khuyến mại, đầu tư cho hệ thống công nghệ thích đáng, giúp nâng cao khả
năng cạnh tranh huy động vốn. Các chi nhánh Vietcombank đã chủ động trong việc xâm
nhập thị trường, tiếp cận và chăm sóc khách hàng chu đáo. Kết quả là, nguồn vốn của
Vietcombank tăng trưởng rất tốt. Huy động từ nền kinh tế đạt hơn 208.320 tỷ đồng, tăng
23% so với cuối năm 2009 - đây là mức cao nhất trong vòng 5 năm, đạt kế hoạch do
HĐQT đề ra. Huy động vốn VND liên tục tăng trưởng cao và đều đặn. Đặc biệt trong
năm 2010, huy động vốn từ dân cư đạt kết quả khá khả quan với số dư đạt 98.880 tỷ quy
đồng, tăng 28,5% so với năm trước. Số dư huy động từ TCKT đạt 108.172 tỷ, tăng
16,3%. Huy động vốn từ liên ngân hàng đạt 69.600 tỷ quy đồng, tăng 13,3% so với năm
2009.
Năm 2011, công tác huy động vốn đặc biệt khó khăn do tác động của chính sách tiền
tệ thắt chặt và chính sách kiểm soát thị trường ngoại hối nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, hoạt
động huy động vốn còn phải đối mặt với nhiều thách thức hơn do sự cạnh tranh không
lành mạnh của các tổ chức tín dụng khác. Trước diễn biến phức tạp của thị trường, Ban

lãnh đạo Vietcombank xác định công tác huy động vốn là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm, ưu tiên hàng đầu và xuyên suốt trong năm. Vietcombank một mặt tuân thủ các
quy định của NHNN mặt khác đã linh hoạt đưa ra các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn
như là tăng cường chính sách chăm sóc khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm huy động …
Bên cạnh đó, Vietcombank còn chủ động huy động vốn từ nước ngoài, tham gia tích
cực các hoạt động kinh doanh trên thị trường liên ngân hàng.Tính đến 31/12/2011, huy
động vốn từ nền kinh tế đạt 241.700 tỷ quy đồng, tăng cao hơn so với mức tăng trưởng
trung bình của toàn ngành. Đặc biệt, huy động vốn từ dân cư đạt 121.587 tỷ đồng, tăng
23,0%, chiếm tỷ trọng 50,4% huy động vốn từ nền kinh tế. Điều này thể hiện sự nhìn
nhận của xã hội đối với uy tín và thương hiệu của Vietcombank. Huy động vốn từ TCKT
đạt 120.113 tỷ đồng, tăng 9,7% và đạt 90,3% kế hoạch năm. Huy động từ thị trường liên
ngân hàng đạt 86.829 tỷ đồng, tăng 24,7% so với cuối năm 2010.
Song song với hoạt động huy động vốn là hoạt động tín dụng. Vốn tín dụng của
Vietcombank luôn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nhiều ngành trong nền kinh
tế, góp phần nhất định trong việc phát triển của nhiều vùng, địa phương trên cả nước.
Vietcombank cũng được biết đến là ngân hàng tài trợ vốn hàng đầu cho các dự án lớn của
đất nước thuộc các ngành quan trọng như dầu khí, điện lực, sắt thép, xăng dầu, thủy điện
và nông nghiệp v.v…Đồng thời, Vietcombank cũng là ngân hàng cung ứng lượng vốn lớn
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay trong nền kinh tế. Hoạt động tín dụng của
Vietcombank năm 2010 đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Tính đến 31/12/2010,
dư nợ tín dụng đạt 176.814 tỷ đồng, tăng 25% so với cuối năm 2009, hoàn thành kế
hoạch HĐQT đề ra. Dư nợ cho vay SMEs chiếm tỷ trọng 29,6% trên tổng dư nợ - đạt kế
hoạch do Tổng Giám đốc giao. Tính đến 31/12/2011, dư nợ tín dụng đạt 209.418 tỷ quy


đồng, tăng 18,4%, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra, duy trì được thị phần 8,1% toàn
ngành

Biểu đồ: Tình hình huy động vốn và cho vay khách hàng của Vietcombank giai đoạn
2007-2011

Và trong năm 2012 ngân hàng Vietcombank tập trung vào huy động vốn VND, huy
động từ dân cư; Duy trì nguồn vốn ngoại tệ, tiếp tục phát huy thế mạnh trong quan hệ đối
ngoại để huy động vốn từ thị trường quốc tế.
Triển khai các chương trình huy động vốn cá nhân, các sản phẩm có tính gối đầu để
duy trì liên tục số dư tiền gửi từ dân cư, các sản phẩm đặc trưng trên nền tảng công nghệ
cao. Nghiên cứu và đưa vào áp dụng các sản phẩm liên kết, bán chéo, các sản phẩm huy
động vốn gắn liền với vốn cho vay với cam kết gửi tiền đối với TCKT với tôn chỉ “Tạo
sự khác biệt”. Tiếp tục triển khai các sản phẩm huy động vốn trung dài hạn để tranh thủ
huy động nguồn vốn dài hạn. Tăng cường công tác chăm sóc khách hàng, theo dõi và duy
trì hiệu quả các khách hàng tổ chức có số dư tiền gửi lớn. Đa dạng hóa đối tượng khách
hàng, chú trọng khai thác nguồn tiền gửi từ SMEs, giảm sự phụ thuộc vào khách hàng
lớn. Theo dõi chặt chẽ nguồn tiền di chuyển của khách hàng để có thể linh hoạt giữ được
nguồn vốn ngoại tệ cũng như VND của khách hàng. Tuân thủ các quy định của NHNN về
lãi suất. Nghiên cứu áp dụng chính sách lãi suất nội bộ phù hợp để khuyến khích các chi
nhánh tăng cường huy động vốn.
2.1.2. Tình hình huy động vồn tại ngân hàng TMCP Á Châu
ACB luôn là ngân hàng cổ phần giữu thế mạnh về thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong
đân cư và doanh ngiệp. Trong huy động vốn ACB là ngân hàng có nhiều sản phẩm tiết
kiệm nội tệ, ngoại tệ và vàng. Các sản phẩm huy động của ACB rất đa dạng, thích hợp
với nhu cầu dân cư và tổ chức. Trong năm 2011 huy động vốn của ACB đứng thứ 5
trong toàn ngành hệ thống ngân hàng.Thị phần huy động của ACB ở mức 6,5% tăng gần
1% so với năm 2010 đưa tốc độ tăng trưởng huy động cả năm đạt mức 21% gấp hơn hai
lần tốc độ tăng trưởng của ngành ngân hàng.


Tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng ACB khoảng gần 250000 tỷ đồng. Trong
đó, có đến 63% xuất phát từ nguồn vốn bền vững là tiền gửi của khách hàng. Cụ thể tiền
gửi khách hàng của ACB đạt 185637 tỷ đồng tăng gần 35% so với năm 2010 trong khi
bình quân ngành tăng trưởng 14,4%. Trong tiền gửi của khách hàng thì tiền gửi của cá
nhân chiếm tỉ trọng cao nhất là 102498 tỷ đồng; tiền gửi của các công ty cổ phần, công ty

trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân là 38001 tỷ đồng, tiền gửi của doing nghiệp
nhà nước nhà nước là 460 tỷ đồng, của công ty 100% vốn nước ngoài là 416 tỷ đồng. nếu
phân chia theo loại tiền gửi thì tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm chiếm cao nhất 83053 tỷ đồng,
tiền gửi có kỳ hạn chiếm 22885 tỷ đồng, tiền gửi không kỳ hạn là 13361 tỷ đồng, Ngoài
ra còn có tiền gửi của các tổ chức tín dụng là 34782 tỷ đồng.
Trong năm 2011 Ngân hàng Á Châu không phát hành thêm trái phiếu và cổ phiếu
mới để huy động vốn mà chỉ có phát hành chứng chỉ tiền gửi đạt 43418 tỷ mà chủ yếu là
chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn đạt 43093 tỷ chiếm 99%.
2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn tại ngân hàng: Vietcombank và Á
Châu
2.2.1 Tình hình kinh tế năm 2011
Năm 2011 kinh tế vĩ mô của Việt Nam nhìn chung chưa ổn định, GDP tăng chậm lại,
cả năm tăng 5,89% thấp hơn năm 2010 (6,8%), chỉ số sản xuất công nghiệp giảm mạnh.
Lạm phát tăng cao 18,58% là một trong hai năm cao nhất kể từ năm 1993. Việt Nam cũng
là một trong ít quốc gia có mức lạm phát cao nhât thế giới. Ngân hang Nhà nước áp dụng
chính sách tiền tệ thắt chặt được bổ sung bởi nhiều biện pháp mang nặng tính hành chính
nên đã gây đăt biệt khó khăn cho công tác huy động vốn.
2.2.2. Chính sách của Ngân Hàng Nhà Nước
Trước tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ, nhiều ngân hàng gặp khó khăn thanh
khoản đã đẩy lãi suất trên thị trường lien ngân hang cũng như thị trường dân cư tăng
mạnh. Lãi suất huy động VND có lúc bị đẩy lên tới 18-19% để hấp dẫn người gửi tiền.
Trước tình hình đó NHNN đã ban hành các văn bản nhắc nhở các tổ chức tín dụng thực
hiện nghiêm quy định về trần lãi suất. Tuy nhiên chỉ khi chỉ thị 02/2011/CT-NHNN ra đời
vào ngày 07/09/2011, trong đó qu định rõ các hình thức xử phạt, cùng với việc NHNN
kiên quyết xử lí tổ chức tín dụng huy động vốn vượt trần trong thang 09/2011, lãi suất
huy động VND mới chính thức quay về 14%. Trước tình hình đó, đầu năm 2011, ACB đã
đặt ra mục tiêu và các chương trình hành động, trong đó ưu tiên đẩy mạnh hoạt động huy
động vốn. Chính sách lãi suất huy động được điều hành khá sát thị trường theo từng thời
kì và phù hợp với quy định của pháp luật. Nhiều giải pháp linh hoạt về sản phẩm phù hợp
với quy định của pháp luật. Nhiều giải pháp linh hoạt về sản phẩm, có lãi suất nội bộ đã

tăng tốc độ tăng trưởng huy động vốn của ngân hang đạt mức 21% gấp hơn hai lần tốc độ
tăng trưởng của ngành ngân hang. Tại Vietcambank ban lãnh đạo cũng xác định công tác
huy động vốn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. VCB một mặt tuân thủ quy định


của NHNN, mặt khác đã kinh hoạt đưa ra các giải pháp hoạt động huy động vốn như tăng
cường chính sách chăm sóc khách hang, đa dạng hóa sản phẩm huy động
2.2.3. Sức mạnh thương hiệu

VCB dẫn đầu hệ thống ngân hang về chỉ số sức mạnh thương hiệu toàn quốc, thể
hiên qua chỉ số sức mạnh thương hiệu BEI là 3.0, ACB chỉ đứng thứ tư BEI là 1.7. Tại Hà
Nội, VCB vẫn đứng vững ở vị trí dẫn đầu với chỉ số BEI là 4.2, vượt qua mức trung bình
của các nước khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Tại TP.HCM vị trí dẫn đầu về sức mạnh
thương hiệu thuộc về ACB với BEI là 2.6, trong khi chỉ số thương hiệu của VCB tại thị
trường này bị sụt giảm với BEI là 2.1
2.2.4 Mạng lưới hoạt động
-

-

Mạng lưới chi nhánh và phòng giao dich: Ngoài Agribank đứng đầu vị trí dẫn đầu về vị
trí hoạt động với 2326 điểm giao dịch. VCB và ACB là những ngân hàng nằm trong top
đầu về số lượng chi nhánh và phòng giao dịch, cụ thể VCB có 382 điểm giao dịch, ACB
có 325 điểm giao dịch
Mạng lưới ATM và POS: các ngân hàng dẫn đầu về hệ thống ATM và POS bao gồm
Agribank, VCB, CTG, BIDV, TCB và ACB. Trong đó VCB dẫn đầu về thị phần POS,
chiếm 28,4%. Agribank dẫn đầu về thị phần ATM trong năm 2011(15,4%), theo sau là
CTG(13.4%) và VCB (12.5%). Hoạt động thẻ: VCB vẫn là ngân hàng giữ vị trí hàng đầu
trong việc cung cấp dịch vụ thẻ cho khách hàng với số lượng khách quốc tế chiếm
khoảng 30%, Agribank là 17%. Thị trường Hà Nội vẫn là thị trường chủ đạo của VCB

với 39% khách hàng được phỏng vấn sử dụng thẻ ATM của VCB, tiếp theo là Agribank
18% và BIDV 14%. Ở Hồ Chí Minh, vị trí dẫn đầu trong hoạt động thẻ vẫn thuộc về
VCB, tiếp theo là Agribank 16%. Theo đánh giá của hiệp hội thẻ, không chỉ dẫn đầu về
thị phần về phát hành VCB còn đứng đầu hệ thống về doanh thu thanh toán thẻ quốc tế
với thị phần 56.2% và doanh số thanh toán thẻ nội địa là 37,4% thể hiện sự phát triển về
mặt chất lượng trong hoạt động kinh doanh.


2.2.5. Trình độ công nghệ ngân hàng
Vietcombank là ngân hàng tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện
đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế vào quản lý kinh doanh. Với việc triển khai thành công việc
hiện đại hóa ngân hàng, Vietcombank đã xây dựng hình ảnh một ngân hàng tiên tiến hiện
đại, xử lý các nghiệp vụ ngân hàng truyền thống như bán lẻ, kinh doanh vốn… và không
ngừng đưa ra các dịch vụ điện tử nhằm đưa ngân hàng tới gần khách hàng như: dịch vụ
internet banking, VCB- Money. SMS banking, phone banking…
Trong năm 2011 ngân hàng ACB ngoài việc đạt thỏa thuận hợp đồng tư vấn với công
ty kiểm toán Price WaterhouseCooper về xây dựng kế hoạch tổng thể công nghệ thông tin
cho giai đoạn 2011-2015, ACB cơ bản hoàn thành một số dự án công nghệ thông tin phục
vụ nhu cầu khách hàng: trung tâm dữ liệu mới tại công viên phần mềm Quang Trung, dự
án xác thực vân tay, mobie banking… Ngoài ra một số dự án dang trong giai đoạn hoàn
thiện thử nghiệp như: Dự án trang bị cho hoạt động ngân quỹ, corebanking…
2.3. So sánh tình hình huy động vốn của các loại hình ngân hàng tại việt nam
2.3.1 Thị phần huy động vốn
a. Ngân hàng trong nước

Theo tổng kết và báo cáo của Ngân hàng Nhà nước trong khoảng 2,8 triệu tỷ đồng
vốn huy động từ thị trường của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, nhóm ngân hàng lớn
tuy ít thành viên hơn nhưng vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo; riêng khối cổ phần, những thành
viên lớn cũng đang tạo sự dịch chuyển rõ nét.



Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tại thời điểm cuối năm 2007, các tổ
chức tín dụng nhà nước nắm giữ tới 59,5% thị phần. Đáng chú ý là nhóm này chỉ bao
gồm 6 thành viên (Agribank, BIDV, Vietcombank, VietinBank, MHB và Ngân hàng
Chính sách xã hội), trong khi hệ thống có khoảng 100 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng
nước
ngoài.
Sự chi phối của 6 thành viên này trong huy động vốn được giải thích từ nhiều nguyên do:
họ là những ngân hàng có bề dày truyền thống trên dưới 50 năm, gắn bó với quá trình
hình thành và phát triển của thị trường, họ có quy mô lớn cả về năng lực tài chính và
mạng lưới (chỉ riêng Agribank đã có tới khoảng 2.400 chi nhánh). Đã có quá trình hoạt
động lâu dài cùng tiềm lực tài chính lớn để đầu tư và đi trước một quãng đường dài về
sản phẩm dịch vụ…
Tuy nhiên, từ cuối năm 2007 đến nay, thị phần huy động vốn của các ngân hàng đã
có sự dịch chuyển nhanh chóng với sự bật lên của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần
có quy mô lớn như ACB, Techcombank, Sacombank… Khoảng cách về quy mô vốn,
tổng tài sản, mạng lưới và đặc biệt là về khả năng đầu tư phát triển công nghệ và sản
phẩm của nhóm này đã không còn quá lớn so với 5 thành viên nói trên so với thời điểm
trước năm 2007.
Cơ cấu thị phần huy động vốn theo đó đã có thay đổi và đang tiếp tục diễn ra mạnh
mẽ. Cuối năm 2008, tỷ lệ của nhóm 5 thành viên trên và MHB đã giảm xuống còn 57,1%,
trong khi khối thương mại cổ phần đã tăng lên 33,1%. Cuối năm 2009, sự dịch chuyển
càng rõ nét hơn tương ứng là 49,7% và khối thương mại cổ phần 40,8%. Và theo dữ liệu
cập nhật gần nhất, trong số khoảng 2,8 triệu tỷ đồng vốn huy động từ thị trường cuối
tháng 10/2011, khối ngân hàng cổ phần đã chính thức chiếm ngôi đầu với thị phần lớn
nhất là 45,2%, trong khi nhóm 6 thành viên quốc doanh chỉ còn lại 43,8%, còn lại là các
nhóm khác.
Sự lấn sân nhanh chóng của khối ngân hàng thương mại cổ phần mà trọng tâm là một
số những ngân hàng cổ phần lớn nói trên thể hiện rõ qua quy mô vốn chủ sở hữu đã lần
lượt tiếp cận và vượt mốc 10.000 tỷ đồng, tổng tài sản của ACB, Techcombank… cũng

đã liên tục tăng mạnh và đạt trên dưới 150.000 tỷ đồng; hệ thống mạng lưới liên tục mở
rộng... Đặc biệt, đây là nhóm năng động nhất trong đầu tư, ứng dụng công nghệ và phát
triển sản phẩm.
Đi cùng với sự dịch chuyển thị phần huy động đó, Ngân hàng Nhà nước cũng kỳ
vọng rằng sẽ có khoảng 8 - 10 ngân hàng thương mại cổ phần cùng với khối quốc doanh
tạo thành những trụ cột cho hệ thống. Theo nhóm trụ cột này có tiềm lực tài chính mạnh,
hoạt động hiệu quả và đặc biệt là có được sự lành mạnh trong hoạt động để củng cố sự
bền vững cho cả hệ thống, đặc biệt là ở khả năng chống đỡ với những cơn bão khắc
nghiệt của nền kinh tế bên trong và bên ngoài như từng xảy ra những năm gần đây.
Triển vọng trong những năm tới, nhiều chuyên gia dự báo thị trường sẽ tiếp tục chứng
kiến sự lớn mạnh và chi phối của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần lớn, bên cạnh cơ


hội tăng cường sức mạnh khi được cổ phần hóa ở nhóm quốc doanh. Riêng trong hoạt
động huy động vốn, xu hướng dịch chuyển thị phần nói trên sẽ tiếp tục thể hiện.
Lâu nay nhiều người vẫn quan niệm lãi suất là lực hút chính của dòng tiền gửi. Đó đúng
là yếu tố quan trọng, nhưng không hẳn có tính quyết định. Có nhiều yếu tố khác nữa tác
động tới lựa chọn của người gửi tiền như: sự tin cậy, uy tín ngân hàng và những tiện ích
mà ngân hàng đó cung cấp. Một ngân hàng có năng lực tài chính mạnh, thương hiệu uy
tín, kinh doanh hiệu quả sẽ tạo được niềm tin; có mạng lưới rộng khắp và tính tương tác
cao giữa các sản phẩm tiện ích sẽ tạo thêm nhiều giá trị gia tăng khác. Để có được lợi thế
này đòi hỏi một quá trình và quy mô đầu tư lớn - điều mà những ngân hàng yếu khó hội
đủ để có thể cạnh tranh.
Quan điểm trên được ông đưa ra khi đề cập đến những xáo trộn trong cạnh tranh, liên
quan đến tình trạng vượt trần lãi suất ở một số ngân hàng yếu, khó khăn thanh khoản
trong thời gian qua. Nhưng thực tế cho thấy, nhiều khách hàng hiện nay không đơn thuần
chỉ gửi tiền lấy lãi, mà còn có nhu cầu giao dịch linh hoạt, sử dụng dịch vụ thẻ hiện đại
và thuận tiện, hay có thể kết nối với các kênh đầu tư, bảo hiểm… Cạnh tranh chính nằm ở
đây hơn là ở “chiêu” vượt trần lãi suất và thế mạnh vẫn tập trung ở các ngân hàng lớn.
Bên cạnh cơ cấu thị phần nói trên, hiện chưa có tập hợp đầy đủ song những dữ liệu ban

đầu cho thấy tăng trưởng huy động vốn của hầu hết các ngân hàng lớn đều đạt mức cao
trong năm 2011, từ 15% đến hơn 30%, cao hơn nhiều mức bình quân hệ thống là 9,89%.
Ngược lại, huy động vốn tại nhiều ngân hàng nhỏ đã bắt đầu chậm lại, chỉ tăng trưởng
trên dưới 10%, thậm chí có những trường hợp sụt giảm từ 15% - 22%...
b. Ngân hàng nước ngoài
Bên cạnh các ngân hàng thương mại trong nước là mảng ngân hàng có vốn đầu tư
nước ngoài. Trong những năm gần đây các tổ chức tín dụng nước ngoài trên thị trường
Việt Nam chiếm thị phần trên 11% tính theo tổng tài sản và trên 10% tính theo tín dụng
và huy động vốn so với toàn hệ thống. Điểm đặc biệt của nhóm ngân hàng này là không
chạy đua huy động vốn mà tập trung vào phát triển các dịch vụ và công nghệ hiện đại,
đồng thời tập trung vào các khách hàng tiềm năng và khách hàng VIP. Các tổ chức này
đang phát huy vai trò kênh truyền dẫn công nghệ ngân hàng hiện đại, các thông lệ quốc tế
tốt nhất về quản trị, quản lý rủi ro và là chất xúc tác quan trọng trong việc thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Các tổ chức tín dụng nước ngoài còn tạo động
lực cạnh tranh tích cực, buộc các tổ chức tín dụng trong nước phải không ngừng đổi mới
và nâng cao năng lực toàn diện trên các mặt tổ chức, quản trị điều hành, quản lý rủi ro,
nâng cấp hạ tầng, công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm.
2.3.2. Lợi thế cạnh tranh trong việc huy động vốn
a. Lợi thế cạnh tranh ngân hàng quốc doanh
Ngân hàng quốc doanh có ưu thế lớn nguồn vốn lớn, được sự hậu thuẫn của nhà
nước, sở hữu mạng lưới chi nhánh rộng, hoạt động lâu đời nên rất am hiểu thị trường nội


địa. Tuy nhiên ngân hàng quốc doanh còn tồn tại rất nhiều bất cập đó là cơ chế hoạt động
chưa thực sự hiệu quả, còn mang nặng tư tưởng quan liêu nên nhiều khi hoạt đọng của
ngân hàng quốc doanh chưa thật sự tương xứng với tiềm lực. Nhìn vào thị trường ngân
hàng hiện nay đã có sự chuyển đổi để theo kịp với xu hướng thị trường và để có thể cạnh
tranh lành mạnh. Ngân hàng quốc doanh sở hữu nguồn vốn giá rẻ, do đó lãi suất cho vay
của ngân hàng quốc doanh luôn thấp hơn ngân hàng thương mại cổ phần. Doanh thu chủ
yếu của ngân hàng quốc doanh chủ yếu đến từ hoạt động ngân hàng truyền thống, ngân

hàng quốc doanh chưa có bước đột phá trong nâng cao chất lượng dịch vụ, sản phẩm
chưa tạo sự khác biệt. Thị phần huy đọng vốn chiếm khá cao, thị phần này vào khoảng
43,8% cho thị phần huy động vốn tính đến năm 2011. Thị phần này cho thấy thế mạnh
của ngân hàng quốc doanh còn rất lớn. Tuy nhiên để giữ được thị phần này trong giai
đoạn hiện nay là không phải dễ khi mà các ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng
100% vốn nước ngoài đang phát triển mạnh.
b. Lợi thế cạnh tranh của ngân hàng 100% vốn nước ngoài
Ngày 01/01/2011 các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam sẽ được huy động tiền gửi
bằng VND không hạn chế bởi vốn pháp định của chi nhánh tại Việt Nam. Điều này có lợi
cho các ngân hàng này và toàn ngành ngân hàng ở Việt Nam. Với nguồn vốn dồi dào,
mạng lưới các chi nhánh trên thị trường quốc tế, công nghệ thông tin là lợi thế cho ngân
hàng 100% vốn nước ngoài khi tham gia vào thị trường nước ta.. Sự xuất hiện của các
thành viên này sẽ gia tăng sự cạnh tranh, đẩy mạnh sự phát triển của ngành ngân hàng và
toàn bộ nền kinh tế.
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài lợi thế hơn về phát triển trong các lĩnh vực tài
chính dooanh nghiệp, kinh doanh vốn và thị trường ngoại hối, thanh toán quốc tế và tài
trợ chuỗi cung ứng. Năm 2011, họ thu xếp các khoảng tín dụng lớn, phát hành trái phiếu
quốc tế cho các tập đoàn, với tham vọng tăng thị phần tín dụng trong nước.
Ưu thế khác của các ngân hàng này là lượng vốn dồi dào nên giải ngân nhanh. Ngoài
ra, còn có cách bán chéo sản phẩm, tạo ra một gói dịch vụ tổng thể thuận tiện cho khác
hàng. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những yếu tố khiến ngân hàng 100% vốn nước ngoài
khó tiếp cận khách hàng đó là chưa hiểu được văn hóa khách hàng như các ngân hàng
trong nước.
Trong khi ngân hàng trong nước dùng khuyến mãi l;ãi suất, quà tặng,…để lôi kéo
khách hàng thì ngân hàng nước ngoài dùng chính chất lượng sản phẩm và uy tín thương
hiệu. Ngân hàng nước ngoài chú tâm đến vấn đề mà ngân hàng trong nước còn bỏ ngỏ là
bảo hiểm tiền gửi, không chỉ mua bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm trong nước mà còn
mua bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm uy tín ở nước ngoài.Trên phương diện của người đi
gửi tiền thì chọn lựa giữa lãi suất cao hơn 0,5 đến 1% hay an toàn tiền gửi thì họ có xu
hướng gửi tiền ở các ngân hàng uy tín, an toàn thay vì lãi suất cao.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Giáo trình quản trị kinh doanh ngân hàng
Báo cáo phân tích kết quả kinh doanh ngân hàng Vietcombank
Báo cáo phân tích kết quả kinh doanh ngân hàng ACB

/> />



×