Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tiểu luận: Địa vị pháp lý của người nước ngoài trong tư pháp quốc tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.4 KB, 18 trang )

1


VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI


BÀI TẬP CÁ NHÂN
TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Đề tài : Phân tích địa vị pháp lý của người nước ngoài trong
tố tụng dân sự quốc tế

Họ và tên: Bùi Đức Hiếu
Lớp: K1B
MSSV:1353801010063

Hà Nội, 2016

2


Mở đầu
Sự hợp tác của các quốc gia trên thế giới là xu hướng tất yếu của quá
trình hội nhập. Nó thể hiện trên nhiều phương diện và hình thức khác nhau:
giữa các quốc gia với nhau, giữa cá nhân quốc gia này với pháp nhân quốc
gia khác… Đồng thời quá trình đó diễn ra trên mọi lĩnh vực như kinh tế,
khoa học kỹ thuật, văn hóa… Vì vậy, việc công dân quốc gia này cùng
chung sống với công dân quốc gia khác hay công dân nước sở tại trên cùng
một lãnh thổ quốc gia là một hiện thực tất yếu.
Trong tư pháp quốc tế, công dân nước ngoài hay còn được biết đến
với thuật ngữ “ người nước ngoài” là một chủ thể cơ bản rất quan trọng. Vì


vậy việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của người nước ngoài là một vấn đề
hết sức cần thiết.
Sau đây tôi xin phân tích đề tài: Địa vị pháp lý của người nước ngoài
trong tư pháp quốc tế.

3


I.

Khái niệm và các căn cứ để xây dựng chế định pháp lý dân sự của
người nước ngoài
1. Khái niệm
Hiện nay thuật ngữ “người nước ngoài” được sự dụng rộng rãi ở các

nước và cả ở Việt Nam, nó được hiểu như sau:
• Người mang một quốc tịch nước ngoài
• Người mang nhiều quốc tịch nước ngoài
• Người không mang quốc tịch nước nào (người không quốc tịch)
Ngoài ra, theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 cũng
như một số quy định ở các văn bản khác, có thể hiểu khái niệm “người nước
ngoài” là người không có quốc tịch Việt Nam.
Người nước ngoài có thể cư trú trên lãnh thổ Việt Nam hoặc cư trú
ngoài lãnh thổ Việt Nam
2.

Cơ sở để xây dựng quy chế pháp lý dân sự của người nước ngoài
Do mức độ quan hệ giữa các quốc gia là khác nhau và tùy thuộc vào
từng lĩnh vực cụ thể, các quy định về địa vị pháp lý của người nước ngoài có
thể được xây dựng trên nguyên tắc hay các chế độ pháp lý sau:

• Chế độ đãi ngộ như công dân
• Chế độ tối huệ quốc
• Chế độ đãi ngộ đặc biệt
• Chế độ có đi có lại
• Chế độ báo phục quốc
Ở Việt Nam, về nguyên tắc, địa vị pháp lý của người nước ngoài được
quy định trên cơ sở chế độ đãi ngộ như công dân, trừ những trường hợp mà
pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham
gia có qui định khác.
II.
1.

Địa vị pháp lý của người nước ngoài trong tố tụng dân sự quốc tế
Khái niệm tố tụng dân sự quốc tế

4


Tố tụng dân sự quốc tế là hoạt động của tòa án một nước trong việc
giải quyết các vụ việc phát sinh từ các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng
có yếu tố nước ngoài, thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án theo một thể thức
do luật định.
Theo quy định khoản 2 Điều 405 BLTTDS 2004 thì một một vụ việc
dân sự được coi là vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài khi có một trong các
yếu tố sau:

2.




Đương sự trong vụ việc dân sự là người nước ngoài, người



Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật

nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài.
• Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Địa vị pháp lý của người nước ngoài trong tố tụng dân sự quốc tế

Địa vị pháp lý của người nước ngoài là tổng thể các quyền được
hưởng và nghĩa vụ phải thực hiện của người nước ngoài khi sinh sống, cư
trú, làm ăn ở một lãnh thổ quốc gia.
Có thể thấy, qui chế pháp lý của người nước ngoài cùng lúc chịu sự
điều chỉnh của hai hệ thống pháp luật là pháp luật của nước mà người đó
mang quốc tịch và pháp luật của nước sở tại nơi người đó cư trú và làm ăn
sinh sống.

2.1
a.

Bảo hộ pháp lý và vấn đề cược án phí ( Cautio judicatum solvi ).
Vấn đề bảo hộ pháp lý.
Nhằm bảo đảm sự công bằng cũng như lợi ích của người nước ngoài

khi các lợi ích đó bị xâm phạm, tư pháp quốc tế ngày nay thừa nhận quyền
của người nước ngoài được hưởng các quyền tố tụng dân sự tối thiểu và có
nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu tố tụng nhất định theo pháp luật nước sở tại
khi khởi kiện tại tòa án tư pháp nước sở tại đó.

5


Theo Điều 406 BLTTDS năm 2004 thì người nước ngoài khi khởi
kiện ở tòa án Việt Nam thì được Nhà nước Việt Nam cho hưởng chế độ đối
xử quốc gia trong tố tụng dân sự. Nói cách khác, họ được nhà nước Việt
Nam bảo hộ pháp lí như đối với công dân Việt Nam. Nguyên tắc này được
xây dựng trên cơ sở công nhận chế độ đãi ngộ như công dân khi người nước
ngoài khởi kiện hoặc tham gia tố tụng dân sự tại các tòa án Việt Nam.Vì
vậy, người nước ngoài có quyền khởi kiện đến tòa án của Việt Nam để yêu
cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc có
tranh chấp.
Theo quyết định số 122/CP ngày 25/4/1977 về chính sách đối với
người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam, Điều 7 và Điều 8
cũng qui định: “ Người nước ngoài định cư ở Việt Nam được hưởng chế độ
đãi ngộ như công dân đối với sở hữu cá nhân về thu nhập hợp pháp và tư
liệu sinh hoạt và các quan hệ thừa kế đối với các tài sản trên”
Ngoài ra trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với
nước ngoài về vấn đề bảo hộ pháp lý cũng được nhấn mạnh. Trong hiệp định
tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, hình sự, gia đình giữa Việt Nam với
nước Cộng hòa nhân dân Bungari ( ký kết ngày 03/10/1986) có quy định tại
khoản 1 Điều 1 như sau: “ Công dân nước ký kết này được hưởng trên lãnh
thổ nước ký kết kia sự bảo hộ pháp lý đối với các quyền nhân thân và tài sản
mà nước ký kết kia dành cho công dân của mình.”
Tuy nhiên, việc áp dụng chế độ đãi ngộ như công dân trong lĩnh vực
tố tụng dân sự quốc tế nêu ở trên không có nghĩa Nhà nước Việt Nam từ bỏ
quyền áp dụng các biện pháp báo phục quốc cần thiết (biện pháp trả đũa) khi
quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài bị xâm phạm
6



hoặc không được nước ngoài bảo hộ thỏa đáng. Cơ sở để áp dụng các biện
pháp báo phục trong các trường hợp như vậy là dựa trên nguyên tắc có đi có
lại. Cụ thể tại khoản 3 Điều 406 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “ Nhà nước
Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại để hạn chế quyền tố tụng
dân sự tương ứng của công dân nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài mà
tòa án các nước đó đã hạn chế quyền tố tụng đối với công dân, cơ quan, tổ
chức Việt Nam”.
b.

Vấn đề cược án phí (Cautio Judicatum solvi ).
Chế định Cautio Judicatum solvi hay còn được gọi là “bảo chứng

ngoại kiểu án quỹ” được biết đến trong các Hiệp định tương trợ tư pháp với
thuật ngữ là “cược án phí”.
Theo nội dung của chế định này, nguyên đơn là người nước ngoài khi
muốn khởi kiện tại tòa án một nước phải gánh chịu nghĩa vụ bảo đảm các
chi phí tư pháp nhất định theo quy định của tòa án đó, những chi phí này có
thể do bị đơn gánh chịu toàn bộ trong trường hợp nguyên đơn thắng kiện.
Trên thực tế, quyền khởi kiện của người nước ngoài sẽ bị hạn chế trong một
mức độ nhất định khi áp dụng chế độ cược án phí .
Chế định cược án phí được áp dụng rộng rãi tại các nước tư bản, tuy
nhiên ở mỗi quốc gia cách quy định của các nước cũng khác nhau, chẳng
hạn: Pháp, Bỉ, Hà Lan,…. quy định tất cả nguyên đơn là người nước ngoài
nếu khi khởi kiện mà không có một diện tích đất đai hoặc bất động sản nào
đó tại nước có tòa án xử sơ thẩm vụ tranh chấp thì phải nộp tiền cược án phí
tại tòa án xử sơ thẩm vụ tranh chấp theo pháp quy định của pháp luật nước
có tòa án đó. Cụ thể theo Điều 119 Bộ luật tố tụng dân sự Ba Lan có quy
định: Nguyên đơn là người nước ngoài phải chịu nghĩa vụ nộp trước một số
7



tiền nhất định ( cược án phí ) theo yêu cầu của bị đơn để bảo đảm cho việc tố
tụng tại tòa án Ba Lan.
Ở một số quốc gia khác như Cộng hòa liên bang Đức, Áo, Tây Ban
Nha… lại quy định việc miễn nộp tiền cược án phí trên cơ sở có đi có lại. Ở
Anh, Italia,… lại quy định nghĩa vụ nộp cược án phí chỉ áp dụng đối với một
số nguyên đơn là người nước ngoài nhất định. Còn pháp luật của Bungari,
Rumani, Liên Xô( cũ) không quy định nghĩa vụ nộp cược án phí của nguyên
đơn người nước ngoài.
Tóm lại, mỗi quốc gia lại có những quy định riêng, việc quy định việc
nộp và miễn cược án phí được dựa trên cơ sở các quy tắc khác nhau (điều
ước quốc tế, hoặc chê độ có đi có lại thực tế giữa các nước về vấn đề này,
hoặc căn cứ vào giá trị tài sản mà nguyên đơn có được ở nước có tòa án thụ
lý vụ kiến,….)
Ở Việt Nam theo điều 406 Bộ luật tố tụng dân sự, khi tham gia tố tụng
dân sự, cá nhân nước ngoài bình đẳng với công dân Việt Nam trong các vấn
đề tố tụng dân sự (dựa trên chế độ đãi ngộ như công dân).
Trong các hiệp định tương trợ tư pháp ký kết giữa Việt Nam với nước
ngoài, vấn đề cược án phí cũng được qui định như sau: Công dân các nước
ký kết không phải nộp cược án phí khi tham gia tố tụng dân sự trước tòa án
của các nước ký kết. Ví dụ: Tại Hiệp định tương trợ tư pháp với Ba Lan,
Điều 16 quy định: “ Công dân nước ký kết này thường trú hoặc tạm trú ở
một trong hai nước ký kết, khi tham gia tố tụng trước tòa án của nước ký kết
kia thì không phải chịu cược án phí chỉ vì lý do họ là người nước ngoài ở
nơi họ tham gia tố tụng”.

8



Song song với vấn đề cược án phí, chế định miễn cược án phí đối với
công dân của các bên ký kết cũng được qui định trong một số Hiệp định
tương trợ tư pháp. Như Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Liên
Bang Nga, Điều 45 quy định: “ Công dân của bên kí kết này khởi kiện vụ án
trước tòa án của bên kí kết kia được miễn nộp tiền cược án phí áp dụng đối
với người nước ngoài chỉ vì lí do họ là người nước ngoài hoặc không có nơi
thường trú hoặc tạm trú trên lãnh thổ bên ký kết đó”.
2. Vấn đề năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi
tố tụng dân sự của người nước ngoài trong tố tụng dân sự.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là hai thuộc tính cơ bản của
chủ thể pháp luật. Việc xác định năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng
lực hành vi tố tụng dân sự của người nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong
việc bảo hộ quyền và lợi ích của họ trước tòa án nước sở tại. Do vậy, pháp
luật Việt Nam và pháp luật các nước đều có quy định về vấn đề này.


Đối với năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố
tụng dân sự của cá nhân nước ngoài.
Đối với vấn đề này, luật pháp mỗi quốc gia quy định không phải hoàn

toàn giống nhau. Chẳng hạn, theo pháp luật của Pháp, Đức năng lực hành vi
tố tụng dân sự của người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước
mà họ là công dân. Ở các nước Đông Âu (trừ Ba Lan) năng lực hành vi tố
tụng dân sự của người nước ngoài được xác định theo luật quốc tịch của
người đó. Tuy nhiên, đối với Cộng hòa Séc và Slovakia dù năng lực hành vi
tố tụng dân sự của người nước ngoài được xác định theo luật của nước mà
người đó là công dân song cũng được coi là có năng lực hành vi tố tụng dân
sự nếu đáp ứng được các yêu cầu do luật của Séc và Slovakia quy định.
9



Ở Việt Nam, theo Điều 407 Bộ luật tố tụng dân sự năng lực hành vi tố
tụng dân sự của cá nhân nước ngoài được quy định như sau:


Theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. Trong trường
hợp công dân có quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài thì theo
pháp luật Việt Nam. Nếu người đó có nhiều quốc tịch của nhiều nước
ngoài khác nhau thì theo pháp luật của nước nơi công dân sinh sống,



trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.
Theo pháp luật Việt Nam, nếu công dân nước ngoài cư trú, làm ăn,



sinh sống lâu dài tại Việt Nam.
Theo pháp luật nơi cư trú mà người không quốc tịch cư trú, làm ăn,



sinh sống lâu dài.
Theo pháp luật Việt Nam, nếu hành vi tố tụng dân sự được thực hiện
trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, cá nhân nước ngoài có thể được
công nhận có năng lực hành vi tố tụng dân sự trên lãnh thổ Việt Nam
nếu theo quy định của pháp luật Việt Nam thì họ có năng lực hành vi
tố tụng dân sự mặc dù theo quy định của pháp luật nước ngoài họ
không có năng lực hành vi tố tụng dân sự.”
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, năng luật pháp luật tố tụng dân sự


và năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân nước ngoài được xác định
dựa vào 3 yếu tố:




Quốc tịch của cá nhân
Nơi cư trú
Nơi thực hiện hành vi.
3. Vấn đề năng lực hành vi tố tụng dân sự quốc tế của quốc gia

nước ngoài và của những người được hưởng quy chế ưu đãi miễn trừ
ngoại giao.

10


Trong quá trình mở rộng và phát triển quan hệ quốc tế, quốc gia cũng
có thể tham gia vào các quan hệ dân sự có yếu tố quốc tế với tư cách là một
chủ thể đặc biệt trong tư pháp quốc tế, do đó quốc gia được hưởng các
quyền miễn trừ tư pháp trong tất cả các giai đoạn tố tụng dân sự quốc tế.
Trường hợp quốc gia muốn từ bỏ quyền đó thì phải thực hiện công khai và
rõ ràng. Tuy vậy, quan niệm về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong
tư pháp quốc tế các nước cũng không nhất quán và đôi khi được giải thích
như là “ quyền miễn trừ tương đối”.
Đối với những người được hưởng quy chế ưu đãi, miễn trừ ngoại giao,
đặc điểm tố tụng dân sự quốc tế của họ cũng có nhiều điểm giống tố tụng
dân sự quốc gia. Theo Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao
( Việt Nam tham gia năm 1982), những người này được hưởng quyền miễn

trừ xét xử trong các lĩnh vực hình sự, hành chính, dân sự. Tuy nhiên, trong
lĩnh vực dân sự những người này không được hưởng những quyền miễn trừ
tư pháp trong các trường hợp sau:
a.

Tham gia vào vụ kiện về tài sản liên quan đến bất động sản của tư nhân
nằm tại lãnh thổ nước tiếp nhận, nếu viên chức ngoại giao đó có tài sản
trên không phải nhân danh nước cử đại diện ngoại giao và không vì mục

b.

đích đại diện.
Tham gia vào vụ kiện về thừa kế, nếu viên chức ngoại giao tham gia với
tư cách là người thực hiện di chúc, người bảo quản di sản thừa kế, người
thừa kế hoặc người từ chối nhận thừa kế ở cương vị cá nhân chứ không

c.

nhân danh nước cử đại diện ngoại giao.
Tham gia vào vụ kiện lien quan đến bất kì hoạt động nào có mục đích thu
lợi nhuận ( hoạt động nghề nghiệp hoặc thương mại ) ở nước sở tại,
ngoài phạm vi các chức năng chính thức của người đó.
11


Quy chế pháp lý tố tụng của người nước ngoài được hưởng quyền ưu
đãi, miễn trừ ngoại giao ở Việt Nam cũng được quy định trong một số văn
bản pháp luật như: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Pháp lệnh về quyền ưu
đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, và cơ
quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam năm 1993…

Theo quy định của các văn bản này, các vụ tranh chấp dân sự quốc tế
mà một bên đương sự là quốc gia nước ngoài hoặc người được hưởng quyền
ưu đãi, miễn trừ ngoại giao của Việt Nam sẽ được Nhà nước Việt Nam giải
quyết bằng đường ngoại giao. Đồng thời, tòa án Việt Nam sẽ xét xử các vụ
tranh chấp loại đó, nếu quốc gia nước ngoài hoặc người nước ngoài hữu
quan đó đồng ý rõ ràng tham gia tố tụng tại tòa án Việt Nam. Trong trường
hợp này, đại diện của quốc gia hữu quan và nhà ngoại giao có các quyền và
nghĩa vụ tố tụng dân sự ngang với quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự dành
cho công dân Việt Nam, mọi hoạt động tố tụng dân sự của họ phải tuân theo
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.

4. Về vấn đề ủy thác tư pháp quốc tế.
Ủy thác tư pháp là việc tòa án của một nước như tòa án của nước
ngoài thực hiện giúp những hành vi tố tụng riêng rẽ cần thiết để bảo đảm
giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
Nội dung ủy thác tư pháp quốc tế rất phong phú và tùy thuộc vào từng
trường hợp cụ thể chúng có thể là yêu cầu tống đạt cho đương sự ( thường là
12


bị đơn ) giấy triệu tập đến phiên tòa ở nước ngoài, yêu cầu về lấy lời khai
của đương sự, xác định mức thu nhập thực tế của người phải cấp dưỡng,
phải bồi thường thiệt hại,….
Về nguyên tắc, các cơ quan tư pháp có thể thực hiện các hành vi tố
tụng theo thẩm quyền trong phạm vi lãnh thổ của nước có cơ quan tư pháp
đó. Nếu muốn thực hiện các hành vi này ở nước ngoài, cơ quan tư pháp đó
phải nhận được sự chấp thuận cụ thể của nước nơi các hành vi đó sẽ được
thực hiện trên cơ sở các ủy thác tư pháp quốc tế, tức là sự yêu cầu bằng văn
bản chính thức của cơ quan tư pháp nước này đối với cơ quan tư pháp nước
kia để thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt tại lãnh thổ của nước kia theo

những nội dung, chỉ định trong văn bản yêu cầu.
Các cơ quan tư pháp giữ cho nhau các ủy thác tư pháp quốc tế thông
qua đường ngoại giao hoặc thông qua các phương tiện bưu điện, telex,…
Các ủy thác có thể được giữ trực tiếp giữa các cơ quan tư pháp ( tòa án ),
hoặc thông qua cơ quan nhà nước ở trung ương có thẩm quyền ( Bộ ngoại
giao, Bộ tư pháp ), hoặc bằng giao thông viên đặc nhiệm được cơ quan tư
pháp nước yêu cầu ủy quyền thực hiện.
Trình tự và điều kiện để thực hiện các ủy thác tư pháp quốc tế được
các nước quy định trong các điều ước quốc tế liên quan hoặc trong pháp luật
tố tụng của từng nước. Trong trường hợp không có điều ước quốc tế liên
quan thì các ủy thác tư pháp quốc tế được thực hiện theo pháp luật của nước
được ủy thác trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại trong lĩnh vực này. Tuy vậy,
việc từ chối thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế mà không có cơ sở xác đáng
lại thường bị coi là hành vi thiếu thiện chí trong quan hệ quốc tế.

13


Tư pháp Việt Nam trong thời gian qua cho thấy sự gia tăng về số
lượng các ủy thác tư pháp quốc tế, có cả loại ủy thác theo điều ước quốc tế
(Hiệp định tương trợ tư pháp ) và có cả loại ủy thác ngoài các điều ước quốc
tế ( giữa Việt Nam và các nước chưa có hiệp định tương trợ tư pháp ). Các
ủy thác tư pháp theo hiệp định phải được lập bằng văn bản và đây được coi
là phương tiện để các nước ký kết thực hiện tương trợ tư pháp trong lĩnh vực
dân sự, hôn nhân – gia đình và hình sự.
Văn bản ủy thác phải được người đại điên cơ quan yêu cầu đóng dấu,
ký tên hợp pháp.Các văn bản ủy thác tư pháp phải được các cơ quan tư pháp
các nước ký kết gửi cho nhau thông qua Bộ Tư pháp( riêng về vấn đề hình
sự thông qua Viện kiểm sát nhân dân tối cao ).
Các ủy thác tư pháp được thực hiện theo cách thức sau:



Khi thực hiện ủy thác tư pháp, cơ quan được yêu cầu áp dụng pháp
luật của nước mình. Theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan được
yêu cầu có thể áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng của nước ký
kết yêu cầu, nếu những quy phạm pháp luật đó không mâu thuẫn với



pháp luật của nước được yêu cầu;
Nếu không tìm thấy người cần tìm theo địa chỉ nêu trong văn bản ủy
thác thì cơ quan được yêu cầu áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết



để xác minh địa chỉ của người đó;
Theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan được yêu cầu thông báo



ngay cho cơ quan yêu cầu về thời gian và địa điểm thực hiện ủy thác;
Để thực hiện ủy thác, cơ quan được yêu cầu lập các giấy tờ tương
ứng nói rõ thời gian, địa điểm thực hiện và giữ các giấy tờ đó cho cơ
quan yêu cầu. Nếu việc ủy thác không thực hiện được thì khi gửi trả

14


lại các giấy tờ, cơ quan được yêu cầu cần thông báo lý do không thực



hiện được.
Nếu cơ quan được yêu cầu không có thẩm quyền thực hiện ủy thác tư
pháp thì cơ quan này chuyển ủy thác đó cho cơ quan có thẩm quyền
theo thể thức đã quy định đối với các ủy thác tư pháp quốc tế.
Trường hợp chưa có hiệp định liên quan thì các ủy thác tư pháp quốc

tế sẽ được thực hiện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Bộ
luật tố tụng dân sự quy định việc ủy thác tư pháp trong tố tụng dân sự phải
tiến hành theo những quy tắc và thủ tục sau:


Tòa án Việt Nam ủy thác tư pháp cho tòa án nước ngoài hoặc thực
hiện ủy thác tư pháp của tòa án nước ngoài về việc tiến hành một số
hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt



Nam kí kết hoặc gia nhập hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
Tòa án Việt nam không chấp thuận việc thực hiện ủy thác tư pháp của
tòa án nước ngoài trong các trường hợp sau:
+ Việc thực hiện ủy thác tư pháp xâm phạm đến chủ quyền Việt Nam
hoặc đe dọa đến an ninh quốc gia của Việt Nam.
+ Việc thực hiện ủy thác tư pháp không thuộc thẩm quyền của Tòa án



Việt Nam
Trong quá trình thực hiện ủy thác tư pháp phải tuân theo các thủ tục
sau:

+ Việc Tòa án Việt Nam ủy thác tư pháp cho tòa án nước ngoài hoặc
tòa án nước ngoài ủy thác tư pháp cho tòa án Việt Nam phải được lập
thành văn bản và gửi đến cơ quan có thẩm quyền cảu Việt Nam theo
quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập hoặc
quy định của pháp luật Việt Nam;
+ Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam nhận được văn bản ủy thác
tư pháp phải chuyển ngay cho Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan có
15


thẩm quyền của nước ngoài nhận văn bản ủy thác cho Tòa án Việt
Nam.

KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về quyền và
nghĩa vụ của cá nhân nước ngoài cũng như các quy chế pháp lý của các
quốc gia là một việc làm cần thiết. Khi nghiên cứu, tìm hiểu địa vị pháp lý
của người nước ngoà sẽ xác định cụ thể quyền được hưởng và nghĩa vụ phải
16


thực hiện của người nước ngoài khi sinh sống, cư trú, làm ăn ở một lãnh thổ
quốc gia
Ngoài ra, có tác động mạnh mẽ tới quá trình thúc đẩy phát triển hợp
tác giữa các quốc gia trên nhiều lĩnh vực, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của cá nhân nước ngoài khi tham gia vào quan hệ tố tụng dân sự.

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO





Giáo trình Tư pháp quốc tế- ĐH Luật Hà Nội
Bộ luật Dân sự năm 2005
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004
/>
18



×