Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

BÀI GIẢNG CHI TIẾT môn NHÀ nước và PHÁP LUẬT CHUYÊN đề QUẢN lý NHÀ nước về KINH tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.96 KB, 25 trang )

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội của con người các hoạt động kinh tế là các hoạt động
cốt lõi nhất, nó chi phối mọi hoạt động khác của xã hội - nó có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Chính vì thế vai trò của nhà nước trước xã
hội chính là việc điều hành có hiệu quả các hoạt động kinh tế, sản xuất của đất nước. Việc
điều hành này gọi chung là Quản lý nhà nước về kinh tế.
NỘI DUNG

I. Khái niệm, nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế
1. Khái niệm, cơ sở khách quan quản lý nhà nước về kinh tế
a) Khái niệm
( ĐẶT VẤN ĐỀ: Để hiểu KN QLNN về kinh tế. Trước tiên ta phải hiểu
kinh tế là gì?
Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất và đời sống của con người cùng các
quan hệ vật chất giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử...)

Quản lý nhà nước về kinh tế là chức năng quan trọng của Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế,
nâng cao đời sống của nhân dân.
Quản lý nhà nước về kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý nhà nước nói
chung và gắn chặt với các hoạt động quản lý nhà nước khác.
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp
luật của Nhà nước đến nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có để đạt được
những mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra.


* Chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế: Là các cơ quan nhà nước thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mà trực tiếp là bộ máy quản lý


kinh tế được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở.
(Theo thể chế hiện nay của nước ta (căn cứ vào Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung
2013), cơ cấu bộ máy QLNN về kinh tế bao gồm:
- Các cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội (Điều 70, khoản 2,3,4,14; Điều 75,
Điều 79 của Hiến pháp: Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước; giám sát tối cao...) và HĐND các cấp (Điều 112, 113, 114,
115, 116 của Hiến pháp: Quyết định các vấn đề ở địa phương theo luật định; giám sát việc
chấp hành... )
- Các cơ quan Quản lý NN, bao gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND
các cấp (thực hiện chức năng QLKT). Chẳng hạn về các Bộ và cơ quan ngang Bộ có thể
chia thành các nhóm khác nhau:
+ Nhóm các Bộ làm chức năng QLKT trực tiếp: Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước,
Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ XD...
+ Nhóm các Bộ làm chức năng QLKT gián tiếp: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ
Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ TN & MT, Bộ
Thông tin và Truyền thông...
- Cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát, thanh tra chính phủ, kiểm toán nhà nước... thực
hiện các phần việc kinh tế của đất nước (Thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh
tế của các tập đoàn, công ty, doanh nghiệp...; xét xử các vụ việc liên quan đến lĩnh vực
kinh tế...).)

* Đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế: Là toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Điều đó có nghĩa là:
- Quản lý các quan hệ nảy sinh trong hoạt động kinh tế trên lãnh thổ quốc
gia và ngoài lãnh thổ quốc gia.
Ví dụ: Quản lý mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh ở trong nước; các hoạt
động kinh tế của công dân Việt Nam đang diễn ra ở nước ngoài như: các doanh
nghiệp có vốn đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài, các hàng hoá xuất nhập khẩu
của Việt Nam còn đang ở ngoài nước, thẩm định các công nghệ - thiết bị chuẩn
bị chuyển giao về Việt Nam...

- Quản lý mọi bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, gồm: tài nguyên
quốc gia, kết cấu hạ tầng kinh tế, quỹ tiền tệ quốc gia, hệ thống các doanh
nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu.

2


Ví dụ: Quản lý, cấp phép khai thác tài nguyên, khoáng sản, đất đai; quản
lý, cấp phép xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, các công trình giao thông, thủy
lợi, quản lý cấp phép thành lập các Tập đoàn, Tổng công ty, các doanh nghiệp
nhà nước, tư nhân...
- Quản lý mọi ngành kinh tế hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân.
Bao gồm các lĩnh vực kinh tế: Công nghiệp; nông nghiệp; dịch vụ; xây
dựng; tài chính ngân hàng...
(Chính phủ Việt Nam áp dụng Hệ thống ngành kinh tế theo Quyết định số
10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, gồm các 21 nhóm
ngành, 642 hoạt động kinh tế cụ thể:
• Nhóm A: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
• Nhóm B: Khai khoáng.
• Nhóm C: Công nghiệp chế biến.
• Nhóm D: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí
• Nhóm E: Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải.
• Nhóm F: Xây dựng.
• Nhóm G: Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác.
• Nhóm H: Vận tải kho bãi.
• Nhóm I: Dịch vụ lưu trú và ăn uống.
• Nhóm J: Thông tin và truyền thông.
• Nhóm K: Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm.
.....
Nhóm U: Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế.)


b) Cơ sở khách quan của quản lý nhà nước về kinh tế
Kinh tế là nền tảng của xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế là một trong
những nhân tố cơ bản quyết định sự thắng lợi trong công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế ở nước ta trong thời đại ngày nay. Vì vậy, Nhà nước phải can thiệp
vào quá trình vận động của nền kinh tế quốc dân vì những lý do sau đây:
* Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của Nhà nước.
- Nhà nước mang bản chất giai cấp, mà cuộc đấu tranh giai cấp thể hiện
trên lĩnh vực kinh tế là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt nhất, do đó Nhà nước
phải can thiệp vào kinh tế.
(Thực tiễn: Hiện nay, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta mục tiêu
cuối cùng của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản là xây dựng thành
công CNXH chưa hoàn thành. Trong TKQĐ vẫn diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp
trên tất cả các lĩnh vực. Về kinh tế, vẫn còn cơ sở kinh tế để nảy sinh giai cấp
3


bóc lột: Đấu tranh giữa QHSX TBCN với QHSX XHCN, giữa chế độ chiếm
hữu tư nhân về TLSX với chế độ công hữu về TLSX chủ yếu; giữa nền kinh tế
thị trường TBCN với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nguy cơ chệch
hướng XHCN; sự tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường... )
- Mặt khác, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà
nước đại diện cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân trong mọi lĩnh vực,
trong đó có lĩnh vực kinh tế mà nhà nước đóng vai trò là chủ thể quản lý. Chính
vì vậy, nhà nước phải quản lý về kinh tế nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của nhân dân; làm cho nền kinh tế tăng trưởng, đi đôi với giải quyết tốt các vấn
đề xã hội, tạo điều kiện để nhân dân sống và làm ăn theo pháp luật; xây dựng đất
nước ngày càng giàu mạnh, nhân dân ngày càng có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc...
(Như chúng ta đã thấy: Trong nền kinh tế thị trường chứa đựng những mâu

thuẫn cơ bản, đó là những mâu thuẫn giữa các doanh nhân với nhau, mâu thuẫn giữa
chủ với thợ trong các doanh nghiệp có sử dụng lao động và mâu thuẫn giữa giới sản
xuất kinh doanh với toàn thể cộng đồng.
Ví dụ:
+ Mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp với nhau: mâu thuẫn giữa công ty taxi Mai
Linh và hãng taxi Vina Sun của Công ty cổ phần Ánh Dương VN; một số công ty xe
khách tuyến Hải phòng - Hà Nội tranh giành khách...
+ Mâu thuẫn giữa chủ với thợ trong các doanh nghiệp: Các cuộc đình công của
công nhân ở một số nhà máy, khu công nghiệp ở các Tỉnh phía Nam;
+ Mâu thuẫn giữa giới sản xuất kinh doanh với toàn thể cộng đồng: Hiện tượng
gây ô nhiễm môi trường, như: Vụ nhà máy Bột ngọt Vedan xả nước thải xuống sông
Thị Vải; vụ nhà máy sản xuất Pro Niken thuộc Công ty Trường Khánh ở Kinh Môn,
Hải Dương thải khói bụi... ; các cở sở sản xuất đá mỹ nghệ ở Hoa Lư, Ninh Bình ...
→ Việc hoà giải các mâu thuẫn này không thể do một cá nhân hay doanh nghiệp
có thể giải quyết triệt để. Hoặc, hiện nay có lực lượng trọng tài kinh tế làm nhiệm vụ
giải quyết các tranh chấp, các mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế. Tuy vậy, khi đã phân
định rõ đúng, sai, nhưng khi bên sai cố tình không thực hiện nghĩa vụ của mình thì
trọng tài kinh tế lại không có biện pháp, công cụ để bắt buộc bên sai phải thực hiện
nghĩa vụ...
Chính vì vậy, việc giải quyết các mâu thuẫn này phải do Nhà nước thực hiện
(bằng pháp luật, các chính sách, quy định, thuế, cảnh sát kinh tế, tòa án...) vì Nhà nước
có sức mạnh, có những quyền lực đặc biệt, những quyền mà nhân dân trao cho, chỉ có
Nhà nước can thiệp vào giải quyết mâu thuẫn thì trật tự kinh tế mới cơ bản được thiết
lập, quyền và lợi ích kinh tế hợp pháp của nhân dân mới được đảm bảo.)

4


* Thứ hai, từ chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ là một bộ máy

hành chính, một cơ quan cưỡng chế mà còn là một tổ chức quản lý kinh tế - xã
hội. Trong quản lý về kinh tế, Nhà nước có các chức năng cơ bản sau:
- Định hướng sự phát triển toàn bộ nền kinh tế: Nhà nước thông qua pháp
luật, kế hoạch, chính sách, tài chính…định hướng vĩ mô nền kinh tế; bảo đảm
cho nền kinh tế phát triển năng động, toàn diện, vững chắc ở mọi ngành, mọi
khu vực, mọi thành phần kinh tế, đúng quan điểm, đường lối của Đảng.
Ví dụ: Để định hướng cho nền kinh tế phát triển đúng hướng theo con
đường XHCN, nhà nước ta đã xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, đã xây dựng phương hướng, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội ngắn hạn, trung hạn, dài hạn (5 năm; 10 năm; 20 năm...); xây dựng hệ
thống pháp luật về kinh tế (luật doanh nghiệp, luật ngân hàng, luật đầu tư, luật
phá sản... )
Mặt khác, để định hướng nền kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa,
trong từng giai đoạn Nhà nước có chính sách ưu tiên, khuyến khích, tạo điều
kiện, tập trung vào những ngành, những khu vực trọng điểm.
Ví dụ: Nhà nước ưu tiên lĩnh vực khai thác dầu khí, điện lực, ngân hàng,
xây dựng nông thôn mới; tập trung vào các công trình trọng điểm: Khu kinh tế
Vũng Áng; công trình thủy điện Sơn La; khu công nghệ cao Hòa Lạc...
- Trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt sự phát triển toàn bộ nền
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. (giao thông, thủy lợi, viễn thông, ngân
hàng, hàng không, hàng hải, dầu khí, điện lực...)
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo
môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt.
Ví dụ: Nhà nước ban hành các chính sách pháp luật quản lý kinh tế (ban
hành thể chế KTTT định hướng XHCN; ban hành các chính sách, quy định liên quan
đến các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; quản lý, cấp phép thành lập doanh nghệp, khai
thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản, đất đai...)

- Phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân theo định hướng lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, làm cho mọi người

dần dần đều có đời sống ấm no, tư do, hạnh phúc.
Ví dụ: Nhà nước quy định mức lương tối thiểu theo từng khu vực...

5


- Quản lý, bảo vệ tài sản công; kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn toàn bộ hoạt
động kinh tế - xã hội đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
* Thứ ba, từ sự có mặt của kinh tế nhà nước trong kinh tế quốc dân, đây là
lý do trực tiếp nhất khiến Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế quốc dân.
(Bởi trong nền kinh tế quốc dân có lợi ích kinh tế của nhà nước)
- Kinh tế nhà nước bao gồm tài nguyên quốc gia, dự trữ quốc gia về
tiền, vàng bạc, đá quý và vật tư, kết cấu hạ tầng, toàn bộ vốn nằm trong
các doanh nghiệp.
- Nhà nước cần có kinh tế riêng của mình để thực hiện kích thích
hay cưỡng chế kinh tế. Nhà nước cần có lực lượng kinh tế làm công cụ
quản lý xã hội khi các công cụ khác tỏ ra bất cập trong một số trường
hợp nhất định.
Ví dụ :
+ Trước tình trạng suy thoái, khủng hoảng về kinh tế ở trong nước
và quốc tế năm 2008, nhà nước sử dụng các lực lượng kinh tế của mình
để vực dậy nền kinh tế đất nước, làm cho nền kinh tế đất nước dần ổn
định và từng bước phát triển...
+ Hay, trước tình trạng lạm phát, suy thoái kinh tế vừa qua ở nước ta. Chính
phủ đã có những điều chỉnh: chính sách bình ổn giá (đối với các mặt hàng LTTP
thiết yếu); bù lỗ một phần cho các doanh nghiệp xăng dầu; hạ trần lãi suất cho vay tại
các ngân hàng; phân bổ các gói hỗ trợ (cho vay mua nhà thu nhập thấp); cứu trợ
đồng bào bị thiên tai, lũ lụt)...
(Lực lượng kinh tế của nhà nước như: Hệ thống ngân hàng NN, tập đoàn
dầu khí Việt Nam, tập đoàn điện lực Việt Nam; tập đoàn Than khoáng sản Việt

Nam; Tổng công ty Hàng Không Việt Nam; Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam;
Tổng công ty Thép Việt Nam; Tổng công ty Cao su Việt Nam...)
- Nhà nước cần có lực lượng kinh tế riêng, cụ thể là các doanh
nghiệp nhà nước để sản xuất và cung ứng những hàng hóa, dịch vụ mà
khu vực tư nhân không làm được.
Thực tế, các doanh nghiệp tư nhân chỉ theo đuổi mục tiêu lợi
nhuận, lĩnh vực nào có lợi nhuận thì làm và ngược lại...; Chính vì thế,
các lĩnh vực vì mục tiêu xã hội, công cộng, vì mục đích QP, AN, các lĩnh
vực ít hoặc không có lợi nhuận thì các doanh nghiệp nhà nước phải trực
tiếp sản xuất.
6


Ví dụ : Lĩnh vực công nghiệp sản xuất vũ khí, đạn dược; sản xuất
thuốc chữa bệnh; điện lực; dầu khí; gang, thép...
Hơn nữa Nhà nước cần có thực lực kinh tế để thực hiện chính sách
xã hội (Giáo dục; y tế; môi trường...). Do đó mà Nhà nước phải quản lý
đối với kinh tế.
* Thứ tư, để xử lý những phát sinh từ mặt trái của cơ chế thị trường, bảo
đảm cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng hướng.
Bên cạnh những ưu điểm của cơ chế thị trường đối với nền kinh tế thì cơ
chế thị trường cũng còn nhiều khuyết tật như:
- Tạo cơ hội làm nảy sinh sự cạnh tranh không lành mạnh (ví dụ: trao đổi hàng
hóa ko sòng phẳng, một bên xâm phạm lợi ích bên kia như xâm phạm vốn, hàng
hóa, trí tuệ, kiểu dáng…) dẫn đến mất cân đối vĩ mô;
- Lạm phát, thất nghiệp;
- Sự phát triển có tính chu kỳ của nền kinh tế, tạo ra sự bất bình đẳng, phân
hoá giàu nghèo;
- Các tệ nạn như buôn gian bán lậu, tham nhũng phát triển;
- Tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị tàn phá một cách có hệ thống,

nghiêm trọng và lan rộng…
→ Vì vậy, trong quá trình vận hành kinh tế, sự quản lý nhà nước đối với
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết để khắc phục
những hạn chế, bổ sung chỗ hổng của sự điều tiết của thị trường, đảm bảo mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội. Đó cũng là thực hiện nhiệm vụ hàng đầu của quàn
lý nhà nước về kinh tế.
=> Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, quản lý nhà nước về kinh tế ở nước
ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhà nước vừa phải xoá bỏ triệt để cơ chế quản
lý, mô hình kinh tế cũ, vừa tiến hành xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, tổ
chức bộ máy quản lý kinh tế cho phù hợp với yêu cầu vận hành của nền kinh tế
thị trường => Để thực hiện được việc này cần phải tăng cường vai trò quản lý
của Nhà nước, sắp xếp lại bộ máy và con người trong bộ máy quản lý, đổi mới
phương thức quản lý, công cụ, kỹ thuật điều hành... để vừa dung nạp được sự tự
điều chỉnh của cơ chế thị trường, vừa có thể điều tiết nền kinh tế phát triển theo
định hướng XHCN.
2. Các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế
Các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế là các quy tắc chỉ đạo,
những tiêu chuẩn hành vi mà các cơ quan quản lý nhà nước phải tuân thủ
trong quá trình quản lý kinh tế.
7


(Quy tắc: được đúc rút từ thực tiễn, phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước...)

a) Nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc chung, nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước ta.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản quy định các mối quan
hệ về tổ chức trong hệ thống quản lý kinh tế ở nước ta.

- Thực hiện nguyên tắc này là một đòi hỏi khách quan trong quản lý nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, nhằm bảo đảm sự bao quát,
quản lý tập trung, thống nhất của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đồng thời, phát huy cao độ thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa
phương, khả năng của các lực lượng kinh tế trong cơ chế thị trường.
+ Biểu hiện của tập trung:
. Thông qua công tác kế hoạch hóa;
. Thông qua hệ thống pháp luật về kinh tế;
. Thực hiện chế độ một thủ trưởng ở tất cả các cấp, các đơn vị.
+ Biểu hiện của dân chủ:
. Xác định rõ phạm vi, trách nhiệm, quyền hạn của các cấp;
. Phân biệt rõ chức năng quản lý kinh tế của nhà nước với chức năng sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp;
. Mọi chủ thể kinh doanh đều được bình đẳng trước pháp luật, được tự do, tự
chủ trong sản xuất, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, cạnh tranh lành mạnh...
- Phải bảo đảm mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân chủ
trong quản lý kinh tế. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ phải thực hiện
trong khuôn khổ tập trung.
Thực hiện nguyên tắc này là một vấn đề cơ bản trong đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế ở nước ta, liên quan đến bản chất chế độ ta là nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, bảo đảm sự kết hợp giữa quản lý tập
trung, thống nhất của nhà nước với việc phát huy một cách rộng rãi sáng kiến,
sáng tạo của quần chúng, đi đôi với tăng cường tự chủ cho cơ sở và nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải giải quyết tốt các mối quan hệ:
quan hệ giữa các cấp trong hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế; giữa Nhà
nước và doanh nhân trong làm chủ về kinh tế; giữa các tổ chức, đơn vị, cá nhân
trong quá trình sản xuất, kinh doanh...
8



Ví dụ:
+ Trong quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, việc thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ thể hiện các hoạt động kinh tế vừa là trách nhiệm của nhân
dân, vừa là trách nhiệm của Nhà nước. Do đó, cả nhà nước và nhân dân cùng có
quyền và trách nhiệm quản lý nền kinh tế quốc dân.
+ Trong quan hệ trên, dưới thuộc bộ máy nhà nước, nguyên tắc tập trung
dân chủ được đặt ra xuất phát từ tính hệ thống tập trung dân chủ của chính nền
kinh tế quốc dân và cũng là để quản lý hệ thống này.
Cụ thể:
♦ Thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan QLNN về kinh tế ở Trung
ương: ban hành luật, nghị định, chính sách...;
♦ Thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan QLNN về kinh tế ở địa
phương: cụ thể hóa các văn bản luật, nghị định, chính sách... của trên phù hợp với
đặc điểm, tình hình địa phương và tổ chức thực hiện;
♦ Thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cấp của chính quyền địa phương: Phối
hợp, tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo chức năng của từng cấp;
♦ Thẩm quyền và trách nhiệm của các đơn vị kinh tế: Nghiên cứu, tính toán
tổ chức, sản xuất, kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất cho đơn vị trong
khuôn khổ pháp luật.
- Yêu cầu của nguyên tắc: Phải bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất
của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện bảo đảm tự chủ và
dân chủ trong quản lý; đồng thời mọi chủ thể kinh doanh phải được bình đẳng
trước pháp luật, cạnh tranh lành mạnh; phải phân rõ quyền, trách nhiệm của từng
cấp quản lý; Đề phòng, chống những biểu hiện tập trung quan liêu hoặc tự do vô
chính phủ...
Ví dụ:
- Trong những năm 80 của thế kỷ XX, khi chúng ta vừa giải phóng hoàn
toàn Miền Nam, thống nhất đất nước, nền kinh tế của ta vận hành theo cơ chế
tập trung, quan liêu bao cấp. Nhà nước can thiệp quá sâu, trực tiếp vào các hoạt

động kinh tế, thực hiện giao chỉ tiêu, giao sản phẩm cho các doanh nghiệp...
Chính vì thế, các doanh nghiệp mất tự chủ, không chủ động trong sản xuất, kinh
doanh, không phát huy được các tiềm lực, thế mạnh của mình... dẫn đến kìm
hãm LLSX, nền kinh tế đất nước sa sút, trì trệ, chậm phát triển...
Tuy vậy, kể từ Đại hội VI (1986) trở đi, Đảng, nhà nước ta thực hiện
đường lối đổi mới, CNH, HĐH đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định
9


hướng XHCN, mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được tự do, tự
chủ trong sản xuất, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, có sự quản lý của nhà
nước... Kết quả tổng kết hơn 25 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn. (Tiêu biểu như các đơn vị kinh tế: Tổng công ty Viễn thông Quân
đội Viettel; Tổng công ty Trực thăng Việt Nam; Công ty may mặc Việt Tiến; Nhà máy xi
măng Bỉm Sơn; ... cùng nhiều cá nhân được tuyên dương anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.)

Cụ thể: Trong báo cáo chính trị của Đại hội XI, phần kiểm điểm 5 năm thực
hiện NQ Đại hội X; nhìn lại 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2001 - 2010, 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991. Đảng ta khẳng định:
Nền kinh tế nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô
cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền
kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã
hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta
đạt cao. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá thực tế đạt
101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168
USD. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá…Giai
đoạn 2006 - 2010, doanh nghiệp nước ta tăng hơn 2,3 lần về số doanh nghiệp và 7,3
lần về số vốn so với 5 năm trước. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức

sản xuất kinh doanh phổ biến.

- Hoặc tình trạng tự do vô chính phủ: Vụ thẩm định Ụ nổi 83M trước khi
chuyển giao về Việt Nam (năm 2007). Ụ nổi đã có "thâm niên" 43 năm, trong
khi theo quy định thì không được "quá 15 tuổi tính từ năm sản xuất tới năm
nhập khẩu".
(Theo cơ quan điều tra, người của Vinalines trong Đoàn khảo sát biết ụ nổi

83M sản xuất năm 1965 tại Nhật Bản, hư hỏng nhiều, không còn khả năng hoạt động
và đã bị cơ quan đăng kiểm của Nga dừng hoạt động từ năm 2006, giá chào bán dưới 5
triệu USD. Dương Chí Dũng được cấp dưới báo cáo việc này song vẫn chỉ đạo mua,
chủ trương lập biên bản giám định không đúng sự thật về tình trạng của ụ nổi hàng
chục năm tuổi này, bỏ đi các thông tin về "tình trạng xấu".
…Do hàng loạt sai phạm, ụ nổi 83M không thể đưa vào khai thác. "Ụ nổi hiện nay
là đống sắt thép rỉ, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng", kết luận điều tra xác định. Bộ
Giao thông vận tải chủ trương bán thanh lý nhưng hiện không có đối tác hỏi mua.
Cơ quan giám định kết luận, sai phạm trong việc mua ụ nổi đã gây thiệt hại cho
nhà nước hơn 335 tỷ đồng. Hiện, Vinalines vẫn tiếp tục phải trả lãi ngân hàng, tính
tiền vay mua ụ, phí thuê neo đậu, chi phí bảo quản, trực sự cố... nên số tiền thiệt hại sẽ
còn tiếp tục tăng.)

10


Như vậy, tuy đã có quy định của nhà nước về cơ quan, cá nhân và trình tự
thẩm định… Nhưng nhân viên hải quan (chi cục Hải quan cảng Vân Phong,
Khánh Hòa) cùng một số cán bộ của Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam Vinalines, đứng đầu là Dương Chí Dũng (nguyên Cục trưởng Hàng hải Việt
Nam, nguyên Chủ tịch HĐQT đã cố tình phớt lờ, làm sai quy định, dẫn đến gây
thiệt hại cho nhà nước hơn 300 tỷ đồng).
→ Như vậy: Trong quản lý nhà nước đối với vấn đề trên vừa không đảm

bảo được tính tập trung (chính sách, pháp luật, chỉ đạo của trung ương nhưng
cấp dưới không thực hiện đúng), vừa không đảm bảo tính dân chủ (dân chủ tùy
tiện, vì vụ lợi, gây hại cho nền kinh tế quốc dân).
b) Nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về kinh tế theo ngành và
theo lãnh thổ
* Ngành là một tập hợp các đơn vị kinh tế có một số điểm chung về
đầu vào, đầu ra hay cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ...
Ví dụ:
+ Cùng sử dụng một loại nguyên liệu, như: ngành Công nghiệp Xelulô
(Chế biến Xơ). Ngành này bao gồm các đơn vị SXKD cùng sử dụng nguyên
liệu là các thực vật có xơ, như gỗ, bã mía, các loại cây cỏ và rơm, rạ,.. như các
doanh nghiệp làm Giấy, chế tạo đồ Gỗ, sản xuất Sợi Visco - Coton…
+ Cùng chế tạo một loại sản phẩm, có giá trị sử dụng về cơ bản giống
nhau, như: các doanh nghiệp chế biến thực phẩm: Đồ ăn, đồ uống. Mỗi loại thực
phẩm cụ thể có công dụng dinh dưỡng riêng, nhưng công dụng chung của chúng
là dinh dưỡng.
+ Cùng sử dụng một hệ thống thiết bị và công nghệ sản xuất về căn bản
giống nhau, như: ngành Cơ khí. Ngành này bao gồm các đơn vị SXKD có cơ sở
vật chất kỹ thuật về căn bản giống nhau, đều áp dụng công nghệ gia công nóng
(đúc, rèn) và công nghệ gia công nguội (phay, bào, tiện, khoan, doa,..). Máy
móc thiết bị của các nhà máy cơ khí về cơ bản là giống nhau, dù chúng tạo ra
những sản phẩm có công dụng rất khác nhau: Ôtô, máy dệt, máy tuốt lúa, máy
cắt gọt kim loại,…
- Nhà nước phải quản lý theo ngành bởi vì các đơn vị kinh tế cùng
ngành thường có các vấn đề giống nhau xuất hiện trong quá trình SXKD
cần được giải quyết một cách thống nhất trên cơ sở hợp tác với nhau thì
mới đem lại hiệu quả cao.
Ví dụ:
+ Với ngành là các đơn vị có cùng đầu vào, vấn đề chung nói trên là vấn
đề xây dựng cơ sở nguyên liệu: Trồng rừng để có nguồn xơ làm nguyên liệu

công nghiệp Giấy, Dệt, Đồ gỗ,..
11


+ Với ngành là các đơn vị có cùng đầu ra, vấn đề chung là vấn đề phương
án sản phẩm cụ thể của toàn ngành sao cho sản phẩm được làm ra của các doanh
nghiệp không trùng, không thiếu và thống nhất về chất lượng sản phẩm.
+ Với ngành là các đơn vị SXKD có cơ sở vật chất kỹ thuật gống nhau,
vấn đề chung là vấn đề khoa học và công nghệ của ngành: Sửa chữa máy móc
thiết bị, cung cấp phụ tùng thay thế, hiện đại hoá máy móc thiết bị và công nghệ
sản xuất,..
- Mặt khác, Nhà nước phải quản lý theo ngành bởi vì các đơn vị SXKD
không tự hợp lực với nhau để cùng giải quyết các vấn đề chung trên, nên Nhà
nước phải đứng ra tổ chức giải quyết bằng quyền lực hoặc các biện phác hỗ trợ
nhất định.
* Lãnh thổ kinh tế là lãnh thổ chứa đựng một nhóm các đơn vị kinh tế có
quan hệ với nhau về một hay một số mặt nào đó trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh.
- Quản lý nhà nước về kinh tế theo lãnh thổ đồng thời là quản lý nhà nước
theo địa bàn hành chính, đơn vị hành chính lãnh thổ, như: Tỉnh, thành phố,
quận, huyện, thị xã, khu công nghiệp, khu chế xuất...
Ví dụ: Trên địa bàn Tỉnh, có bốn doanh nghiệp khác ngành, trong đó có
nhà máy Chè, nhà máy Dệt, nhà máy Thủy tinh, nhà máy Văn phòng phẩm...
Bốn nhà máy này được đặt ở tỉnh này vì có nguồn nguyên liệu và vì có thị
trường tiêu thụ. Vì dân cư ở Tỉnh cần chè uống, trang phục, bóng đèn, phích
nước và đồ dùng học tập cho con em đi học. Ngoài 4 doanh nghiệp nói trên, trên
địa bàn tỉnh này còn có các đơn vị trồng chè, khai thác cát trắng làm thủy tinh,
trồng Bông - Đay - Gai cho nhà máy Dệt,…
Như vậy, cụm 4 doanh nghiệp nói trên và các đơn vị trồng cây công
nghiệp, khai thác cát là kinh tế lãnh thổ.

- Các doanh nghiệp phải được nhà nước quản lý theo lãnh thổ vì:
+ Cần thống nhất hành động khi cùng phục vụ cộng đồng dân cư theo
lãnh thổ sao cho tổng cung và cơ cấu cung phù hợp với tổng cầu và cơ cấu
cầu trên mỗi địa bàn, lãnh thổ.
+ Cần có sự thống nhất phục vụ các doanh nghiệp tuy khác ngành nhưng
cùng có những nhu cầu như nhau về cấp điện, nước, một số dịch vụ bao bì, vận
tải, cầu cảng, bến bãi, thoát nước, thoát rác,…
+ Tất cả các doanh nghiệp tuy khác ngành, nhưng đều có chung nhu cầu
phục vụ dân sinh về ăn, ở, học tập, đi lại, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa,..
=> Mỗi doanh nghiệp đều được tiếp nhận sự quản lý của ngành và của địa
phương để bảo đảm cho các đơn vị SXKD vừa bảo đảm chuyên sâu, vừa bảo
đảm toàn diện.
Sự quản lý theo ngành của Bộ (Trung ương) bảo đảm phát triển cơ cấu
ngành hợp lý và hiệu quả cao nhất. Đồng thời, các đơn vị đó phải chịu sự quản
12


lý của chính quyền địa phương, quản lý theo lãnh thổ. Hai mặt đó tạo nên sự
thống nhất giữa cơ cấu kinh tế ngành với cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ trong một
cơ cấu chung.
Ví dụ: Nhà máy xi măng Bỉm Sơn (Thanh Hóa) vừa chịu sự quản lý theo
ngành, đó là Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam thuộc Bộ Xây dựng;
vừa chịu sự quản lý theo lãnh thổ, đó là UBND Tỉnh Thanh Hóa.
c) Nguyên tắc phân định quản lý nhà nước về kinh tế với quản trị kinh doanh
Trong nhiều năm trước đây, Nhà nước ta đã có sự nhập hai loại quản lý
này trong một cơ quan quản lý nhà nước hoặc trong một doanh nghiệp nên đã
làm cho hệ thống doanh nghiệp xơ cứng mà cơ quan nhà nước thì quan liêu.
Khi nền kinh tế đã chuyển sang đa hình thức sở hữu, Nhà nước không
có quyền can thiệp vào nội bộ doanh nghiệp quá sâu, đến mức chạm cả vào
nghiệp vụ quản trị kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp

không thuộc sở hữu nhà nước.
Các cơ quan quản lý nhà nước không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh
cụ thể của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước. Tức là, Nhà nước không giải
quyết các vấn đề của doanh nghiệp khi vấn đề đó thuộc hoạt động quản trị kinh doanh.
Nhà nước không đồng thời thực hiện hai chức năng: quản lý nhà nước và quản
trị kinh doanh. Giữa hai loại quản lý trên có những điểm khác nhau căn bản:
Khác nhau về mục tiêu mà chủ thể theo đuổi: Đối với doanh nhân, mục tiêu đó
là lợi nhuận. Đối với nhà nước, đó là dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
Khác nhau về phạm vi quản lý: Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế.
Doanh nhân quản lý doanh nghiệp của mình.
Khác nhau về phương thức, phương pháp quản lý: Nhà nước áp dụng tổng
hợp các phương thức, phương pháp. Doanh nhân áp dụng chủ yếu là phương pháp
kích thích kinh tế và thuyết phục.
Ví dụ:
- Chức năng quản lý của nhà nước: Thông qua chính sách, pháp luật; các biện
pháp kích cầu (thuế, lãi xuất ngân hàng, chính sách đầu tư, ổn định tỷ giá hối đoái,
cân bằng xuất nhập khẩu...);
- Chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp: Phải tính toán kế hoạch
sản xuất, kinh doanh; đầu vào, đầu ra; giá cả; tổ chức lao động; lương; số lượng,
chất lượng, mẫu mã sản phẩm...
d) Nguyên tắc kết hợp hài hoà các loại lợi ích xã hội
13


- Đây là nguyên tắc cơ bản, có vai trò quan trọng, là sự phản ánh các
quan hệ kinh tế trong xã hội.
- Quản lý kinh tế trước hết là quản lý con người. Con người có những lợi
ích, những nguyện vọng và những nhu cầu nhất định. Do đó, một trong những
nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế là bên cạnh việc bảo đảm

lợi ích của Nhà nước, của tập thể phải chú ý đến lợi ích của cá nhân để khuyến
khích họ làm việc tích cực, có hiệu quả.
Ví dụ: Nhà nước có chính sách bảo đảm lợi ích cho người lao động ( bảo
hiểm thất nghiệp; cho vay ưu đãi; giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp; quy
định mức lương tối thiểu; vấn đề doanh nghiệp phá sản...)
- Theo nguyên tắc này cần phải kết hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích của
Nhà nước, lợi ích của tập thể và lợi ích cá nhân trên cơ sở đòi hỏi của cácquy
luật khách quan. Trong đó coi lợi ích cá nhân người lao động là động lực trực
tiếp. Xử lý quan hệ lợi ích không đúng sẽ dẫn đến xung đột lợi ích, giảm hiệu
quả kinh tế, triệt tiêu các động lực.
Bên cạnh khuyến khích lợi ích kinh tế, phải gắn với phát huy ý thức, trách
nhiệm, kỷ luật người lao động...
e) Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý nhà nước về kinh tế
Tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt của một vấn đề. Đó là làm sao để với một
lượng cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn tài nguyên, lực lượng lao động xã hội hiện
có trong một giai đoạn phát triển kinh tế nào đó, có thể sản xuất ra một khối
lượng của cải vật chất và tinh thần nhiều nhất, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân.
Thực hiện nguyên tắc này cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Phải có đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với
đòi hỏi của các quy luật khách quan.
- Giảm chi phí vật tư. Đây là việc làm có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế
quốc dân, tiết kiệm được nguồn vật tư tương đương với việc mở rộng cơ sở nguyên
liệu trong công nghiệp khai thác mà không cần đầu tư thêm cho xây dựng cơ bản. Nó
còn bảo đảm cho việc tiết kiệm lao động sống vì nó giảm bớt nhu cầu về sức lao
động cần cho việc bốc dỡ, vận chuyển và bảo quản các vật tư đang sử dụng, giảm
bớt thời gian gia công chung, do đó đem lại hiệu quả tốt hơn.
Để giảm chi phí vật tư ta phải tăng cường đầu tư, phát triển khoa học, công
nghệ hiện đại, tăng hàm lượng chất xám trong một đơn vị sản phẩm...
- Tiết kiệm lao động sống. Tuy nguồn dự trữ về sức lao động ở nước ta rất lớn

nhưng không vì thế mà không cần có biện pháp sử dụng hiệu quả và tiết kiệm, đặc
14


biệt là vấn đề nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động. Cần tổ chức khoa
học tất cả các loại lao động, kể cả lao động quản lý.
- Bảo đảm đầu tư có trọng điểm, tránh phân tán tản mạn, coi trọng tính hệ
thống, tính đồng bộ của đầu tư xây dựng cơ bản.
- Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Cần có biện pháp bảo
vệ thiên nhiên và tận dụng các tài nguyên thiên nhiên.
Ví dụ:
- Ụ nổi 43 năm tuổi có giá thực tế hơn 2 triệu USD nhưng ông Dương Chí
Dũng (Chủ tịch HĐQT Vinalines) vẫn đồng ý mua với giá gấp gần 10 lần, bỏ túi hơn
10 tỷ đồng do bên môi giới "lại quả". Việc làm của ông Dũng gây thiệt hại cho nhà
nước hơn 300 tỷ đồng. Trong khi hiện nay Ụ nổi 83M không thể đưa vào khai thác.
"Ụ nổi hiện nay là đống sắt thép rỉ, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng", kết luận
điều tra xác định. Bộ Giao thông vận tải chủ trương bán thanh lý nhưng hiện không
có đối tác hỏi mua. Hiện, Vinalines vẫn tiếp tục phải trả lãi ngân hàng, tính tiền vay
mua ụ, phí thuê neo đậu, chi phí bảo quản, trực sự cố... nên số tiền thiệt hại sẽ còn
tiếp tục tăng.
- Lao động Việt Nam ở nước ngoài lương chỉ 7 - 8 triệu VNĐ <=> hơn
300 USD; Trong khi lao động nước ngoài tại Việt Nam lương <=>
1000 USD. Như vậy, chứng tỏ lao động của nước ngoài hiệu quả hơn lao động
của Việt Nam.
(So sánh công tác quản lý chi NSNN giữa Việt Nam và Hàn Quốc...)
g) Nguyên tắc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà
nước về kinh tế
Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước phải dựa trên
cơ sở pháp luật của Nhà nước. Các cơ quan nhà nước thực hiện việc quản lý nhà
nước phải dựa vào pháp luật của Nhà nước, không chủ quan, tuỳ tiện.

Phải tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, mà nội dung chủ yếu là tăng cường quản
lý nhà nước về kinh tế bằng pháp luật và nâng cao tính nghiêm minh của pháp luật.
Đồng thời, coi trọng các phương thức khác trong quản lý nhà nước về kinh tế.
Để thực hiện nguyên tắc này cần có ba điều kiện: xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về kinh tế; giáo dục nâng cao kiến thức
pháp luật, ý thức pháp luật cho toàn dân và xử lý nghiêm minh những hành vi vi
phạm pháp luật (đặc biệt người vi phạm là cán bộ, nhân viên trong các cơ quan
nhà nước).
II. Nội dung, phương pháp và công cụ quản lý nhà nước về kinh tế
15


1. Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế
a) Nội dung quản lý chung đối với nền kinh tế quốc dân
- Xây dựng phương hướng, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, gồm: xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
xây dựng hệ thống các dự án đầu tư nhằm cụ thể hoá chương trình, mục tiêu
chiến lược; xây dựng hệ thống chính sách, xác định tư tưởng chỉ đạo chiến lược
để thực hiện các mục tiêu đó.
Ví dụ:
+ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm; 10 năm; 20 năm của đất
nước do Quốc hội, chính phủ, các bộ ngành và địa phương xây dựng;
+ Cụ thể: Chính phủ có chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam đến
năm 2020. Trên cơ sở đó Bộ Công Thương xây dựng các mục tiêu, chương trình
phát triển dài hạn, trung hạn, ngắn hạn về Thủy điện, Nhiệt điện, điện gió, điện
nguyên tử...
- Xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế: là việc làm rất quan trọng, có tác
dụng tạo cơ sở để công dân làm kinh tế. Pháp luật và thể chế là điều kiện tối cần
thiết cho một hoạt động kinh tế xã hội. Cần xây dựng và hoàn thiện các luật
như: Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật tài nguyên và môi trường,

Luật khoa học và công nghệ, Luật lao động, Luật tài chính…
Thực tiễn: Tuy đã đạt được nhiều mặt tích cực, nhưng PL về kinh tế của ta
cũng còn nhiều hạn chế:
Ví dụ: Khi Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, pháp luật
của ta phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với những quy định chung của thông lệ
quốc tế (việc Bộ Thương Mại Mỹ kiện các doanh nghiệp sản xuất cá tra, basa
của Việt Nam bán phá giá); Quy định thời gian bán thịt sau giết mổ 8 tiếng; hoặc
thiếu quy định về hàm lượng Bêlamin trong sữa, khi kiểm tra, phát hiện thì chưa
có chế tài xử lý cụ thể...
- Xây dựng kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước, gồm:
xây dựng quy hoạch, thiết kế tổng thể, thực hiện các dự án phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng của nền kinh tế; tổ chức xây dựng, khai thác, sử dụng hệ thống
kết cấu hạ tầng.
Ví dụ: Quy hoạch, thiết kế tổng thể TP.Hà Nội đến năm 2050; xây dựng
đường sắt cao tốc Bắc - Nam; sửa chữa, nâng cấp quốc lộ 1A; xây dựng công
trình Thủy điện Sơn La; khu công nghiệp Vũng Áng...
- Quản lý điều tiết kinh tế vĩ mô, xử lý những biến động kinh tế (thiên tai,
lạm phát, suy thoái...). Tốt.
16


Ví dụ: Trước tình trạng lạm phát, suy thoái kinh tế vừa qua ở nước ta. Chính
phủ đã có những điều chỉnh: chính sách bình ổn giá; bù lỗ một phần cho các doanh
nghiệp xăng dầu; hạ trần lãi suất cho vay tại các ngân hàng; phân bổ các gói hỗ trợ
(cho vay mua nhà thu nhập thấp); cứu trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt)...
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, gồm: các cơ quan quản lý
nhà nước về kinh tế được tổ chức theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương
với các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhất định. Để bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trong điều kiện cơ chế thị trường, bộ máy quản lý nhà
nước về kinh tế cần được tổ chức một cách khoa học và được đổi mới đồng bộ.

(Chính phủ; các bộ, ngành; các Tổng cục, Cục, Vụ trực thuộc Bộ; UBND
và các sở, ban, ngành quản lý trên các lĩnh vực kinh tế ở địa phương...)
Thực tế, còn nhiều yếu kém, bộ máy chồng chéo, hiệu quả thấp, sai phạm
nhiều; trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên trong bộ máy QLKT của nhà nước còn hạn chế (Bùi Tiến
Dũng - PMU18; Dương Chí Dũng - Vinalines ...)
- Kiểm tra, giám sát hoạt động của các đơn vị kinh tế: kiểm tra việc tuân
thủ pháp luật kinh doanh; tuân thủ pháp luật lao động, tài nguyên, môi trường;
tuân thủ pháp luật về tài chính, kế toán, thống kê; kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Ví dụ: Đã đạt được những mặt tích cực, song còn nhiều hạn chế:
. Chính phủ tổ chức kiểm tra Vinasin 11 lần không phát hiện ra sai phạm;
. Vụ Vinalines sai phạm, trước khi bị bắt, bộ trưởng Đinh La Thăng vẫn
khẳng định Dương Chí Dũng là người tốt;
. Nhiều nhà máy, khu công nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Tuy vậy, khi
người dân kêu cứu các cơ quan nhà nước mới chính thức vào cuộc...
- Hợp tác quốc tế trong quản lý kinh tế. Nhà nước cần quản lý tốt và tạo
điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mở rộng,
giao lưu và hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong phát triển kinh tế,
bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc trong hội nhập quốc tế.
Đây là xu thế chung. Muốn phát triển kinh tế thì phải hợp tác... vấn đề này
ta đã làm tốt.
b) Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế đối với một số lĩnh vực
* Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp
- Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức
công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
17



Các doanh nghiệp nhà nước đang là lực lượng nắm vai trò chủ lực trong
nền kinh tế nước ta. Chính vì vậy, Quản lý nhà nước về kinh tế đối với các
doanh nghiệp nhà nước là sự cần thiết và cần tập trung vào các nội dung sau:
+ Xây dựng chiến lược, phương hướng, quy hoạch và kế hoạch phát triển hệ
thống doanh nghiệp nhà nước. Đây là bước mở đầu quan trọng của toàn bộ quá trình
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước. Nó vạch ra phương hướng, nội
dung hoạt động kinh tế mà doanh nghiệp nhà nước phải ra đời để thực hiện.
+ Hoàn chỉnh, bổ sung, đổi mới tổ chức quản lý nhà nước đối với khối
doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với sự phát triển thường xuyên của khối
này và yêu cầu đặt ra đối với khối doanh nghiệp nhà nước.
+ Đổi mới tổ chức, sắp xếp lại các DNNN; Tổ chức đầu tư xây dựng doanh
nghiệp nhà nước theo kế hoạch, dự án đã lập; Nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước;
+ Bố trí nhân sự cho bộ máy quản trị các doanh nghiệp nhà nước: xây
dựng điều lệ mẫu và phê chuẩn điều lệ cụ thể của từng doanh nghiệp nhà
nước, chọn và bổ nhiệm nhân sự cụ thể ở các vị trí quan trọng của doanh
nghiệp nhà nước, giám sát người đại diện…
+ Khai thác, sử dụng các doanh nghiệp nhà nước vào việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị của Nhà nước. Đây là việc sử dụng các doanh nghiệp nhà
nước vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế của nhà nước như nhiệm vụ
kinh tế quốc phòng, thực hiện chương trình ổn định dân cư và nhiệm vụ kinh
tế để khống chế các hoạt động kinh tế của các lực lượng mà nhà nước cần
khống chế.
+ Quản lý vốn và lãi của vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước
nói riêng, trong tất cả các doanh nghiệp có vốn nhà nước nói chung để bảo toàn
và phát triển vốn đầu tư của Nhà nước và nâng cao hiệu quả kinh tế của vốn đầu
tư của Nhà nước.
Thực tiễn, ta đã làm tương đối tốt. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế:
Đặc biệt trong lĩnh vực quản lý vốn và lãi trong các DNNN (Vinasin;
Vinalines...);

Công tác bổ nhiệm nhân sự lãnh đạo đối với các DNNN (Bùi Tiến Dũng PMU18; Dương Chí Dũng - Vinalines; Vũ Quốc Hảo - Công ty CTTC, ngân
hàng NNPTNT chi nhánh phía Nam... (phẩm chất, đạo đức lối sống kém, tham
ô, tham nhũng...); Tô Linh Hương sinh năm 1988, tốt nghiệp Cử nhân ngành
Quan hệ Quốc tế tại Học viện Báo Chí và Tuyên Truyền đã được bầu vào chức
chủ tịch HĐQT công ty Vinaconex - PVC là tổ hợp hai công ty xuất nhập khẩu
18


xây dựng và xây dựng dầu khí vào ngày 14.4.2012, sau 2 tháng cô xin rút khỏi
vị trí lãnh đạo; (không đúng chuyên môn đào tạo, thiếu kinh nghiệm thực tiễn,
năng lực công tác hạn chế...)
- Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế như doanh
nghiệp tư nhân, hợp tác xã…, Nhà nước cần tập trung quản lý trên một số
nội dung sau:
+ Xây dựng và ban hành các luật có liên quan đến hoạt động kinh tế
nói chung và doanh nghiệp nói riêng như Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản,
Luật Hợp tác xã…
+ Định hướng đầu tư, sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Khuyến khích, hỗ trợ đầu tư đối với các đối tượng mà Nhà nước quan tâm.
Tư vấn đầu tư đối với các doanh nghiệp có khả năng, nguyện vọng đầu tư.
+ Thực hiện các hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình sản
xuất kinh doanh, như: tạo nguồn vốn đầu tư ưu đãi cho các chương trình
kinh tế trọng điểm, các ngành mà Nhà nước khuyến khích; miễn giảm thuế
cho những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh theo định hướng ưu tiên của
Nhà nước, thực hiện các hỗ trợ pháp lý, đặc biệt là hỗ trợ tư pháp quốc tế
đối với các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc tế.
+ Nhà nước thực thi kiểm tra, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các doanh
nghiệp trên thương trường. Kiểm tra tính hợp pháp của sự tồn tại doanh nghiệp,
khả năng tiếp tục tồn tại của doanh nghiệp, nhắc nhở doanh nghiệp chấp hành pháp

luật và thanh, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự.
+ Nhà nước thực hiện thu lợi ích công từ hoạt động của các doanh nghiệp.
Thực tiễn, ta đã tiến hành tốt. Tuy vậy, cũng còn những hạn chế:
Sự đổ vỡ của Công ty taxi Mai Linh (cạnh tranh không lành mạnh); Tập
đoàn Y dược Bảo Long (đầu tư chưa có chiều sâu...);
* Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc
dân bao gồm nhiều ngành kinh tế, qua đó một quốc gia tham gia vào sự
trao đổi quốc tế và phân công lao động quốc tế. Kinh tế đối ngoại gồm
tổng thể các hoạt động, các quan hệ kinh tế tài chính và khoa học - kỹ
thuật của một nước với các nước khác và các tổ chức kinh tế quốc tế.
- Nội dung chủ yếu trong hoạt động kinh tế đối ngoại Việt Nam bao gồm:
- Ngoại thương;
19


+ Đầu tư vốn nước ngoài vào Việt Nam, đầu tư vốn của Việt Nam
ra nước ngoài;
+ Hợp tác và chuyển giao công nghệ;
+ Hoạt động của các dịch vụ có thu ngoại tệ.
- Quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại cần tập trung vào các nội
dung sau:
+ Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Pháp luật phải đồng bộ,
rõ ràng và nhất quán, ít thay đổi. Phải phù hợp với pháp luật và thông lệ
quốc tế nhằm tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng cho các hoạt động kinh tế đối
ngoại (Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của WTO nên vấn đề này càng
trở nên quan trọng).
+ Xây dựng quy hoạch đối với kinh tế đối ngoại. Thông qua quy hoạch
thể hiện các dự định về khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế nước
ngoài, bộ phận kinh tế của nước nhà ở nước ngoài (tư bản được xuất khẩu).

+ Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ và
công nhân kỹ thuật.
+ Bảo đảm ổn định về chính trị, kinh tế để phát triển kinh tế đối ngoại
(thể hiện ở sự rõ ràng và nhất quán về đường lối chính trị, các đạo luật cơ
bản, các quan hệ ngoại giao, các chính sách kinh tế …).
+ Thu hút đầu tư nước ngoài (giới thiệu các dự án đầu tư, thực hiện các
hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận môi trường đầu tư…);
khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
+ Điều hành hoạt động ngoại thương, đầu tư và chuyển giao khoa học
công nghệ qua các hoạt động quản lý nhà nước về các mặt trên như ban bố
danh mục các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu, cấp phép cho các hoạt động
kinh tế đối ngoại.
Thực tiễn, ta đã làm tương đối tốt. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế:
Thủ tục hành chính rườm rà (quản lý, cấp phép thành lập doanh nghiệp
có vốn đầu tư của nước ngoài; quản lý, cấp phép khai thác, sử dụng tài
nguyên khoáng sản, đất đai đối với các doanh nghiệp nước ngoài...);
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế khi Việt Nam trở
thành thành viên của WTO (việc Bộ Thương Mại Mỹ kiện các doanh nghiệp
sản xuất cá tra, basa của Việt Nam bán phá giá); Thẩm định, chuyển giao công
nghệ; nhập khẩu máy móc thiết bị... (dây truyền sản xuất xi măng lò đứng;
Ụ nổi 83M...)
20


* Quản lý nhà nước về tài chính tiền tệ
Quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ bao gồm quản lý về ngân sách, tiền
tệ, thuế, tín dụng, lãi suất, tỉ giá…Thực chất là sử dụng và phát huy vai trò hệ
thống tài chính thông qua Nhà nước, xuất phát và phục vụ cho quá trình tái sản
xuất xã hội, nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước kết hợp với quản lý vi
mô của doanh nghiệp, nhằm phát triển một nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch

gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Hệ thống tài chính của nền kinh tế gồm có:
+ Tài chính nhà nước;
+ Tài chính doanh nghiệp;
+ Tài chính dân cư.
Nhà nước điều hành vĩ mô, chính là điều hành khâu tài chính tập trung,
mà chủ yếu là ngân sách nhà nước và tín dụng ngân hàng.
Điều hành vi mô chính là điều hành tài chính doanh nghiệp. Trong đó,
tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở, tài chính nhà nước là khâu chủ đạo
(ngân sách nhà nước, tín dụng ngân hàng, bảo hiểm nhà nước và vốn tiền tệ
của doanh nghiệp nhà nước có vai trò quan trọng đặc biệt để Nhà nước ta
thực hiện chức năng phân phối và giám đốc các hoạt động kinh tế - xã hội).
- Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ:
+ Quản lý và điều hành tài sản quốc gia, tài nguyên đất nước, thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Quản lý và điều hành thuế - nguồn thu tài chính quan trọng nhất.
+ Quản lý và điều hành chặt chẽ các nguồn thu chủ yếu của ngân sách
Nhà nước, hạn chế lãng phí trong sử dụng và chống tham nhũng.
+ Quản lý và điều hành tài chính doanh nghiệp các thành phần kinh tế,
trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước.
+ Nâng cao trách nhiệm chính quyền các cấp trong quản lý tài chính - tiền tệ.
+ Quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Đây là sản phẩm của nền
kinh tế hàng hoá và công cụ quan trọng để quản lý và điều hành của Nhà nước.
+ Kiểm tra tài chính đối với việc huy động, phân phối, sử dụng tài nguyên,
tài sản, tiền vốn, thực thi pháp luật nhà nước và kỷ luật tài chính.
Thực tiễn, ta đã làm tương đối tốt. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế:
Một số doanh nghiệp trốn thuế, trây ỳ không chị nộp thuế (...............
21



.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
..............................................................................................................................;
Sai phạm của Công ty cho thuê tài chính của ngân hàng PTNN khu vực
phía Nam;
Sai phạm trong quản lý, chi trả lương của bốn công ty (cây xanh; cấp
thoát nước; môi trường đô thị; chiếu sáng) khu vực phía Nam...
2. Phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế
Phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức
tác động có chủ đích của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và bộ phận hợp
thành của nó để thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân (tăng
trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công bằng kinh tế).
a) Phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác
động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối
tượng quản lý nhà nước về kinh tế nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt
tình lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Thực chất của phương pháp này là tạo ra sự giác ngộ trong đối tượng quản lý
để đối tượng quản lý tự quản lý, tự thân vận động theo chân lý, đạo lý, pháp luật.
Phương pháp này cần được áp dụng trong mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng,
bởi vì suy cho cùng cưỡng chế hay kích thích vẫn là nhờ ngoại lực do đó không
triệt để.
Mặt khác, cưỡng chế hay kích thích cũng phải qua hoạt động thuyết phục
thì mới truyền tới được đối tượng quản lý để họ cảm nhận được áp lực hay động
lực để từ đó mà biết sự thiệt hại hoặc có lợi để tuân theo mục tiêu quản lý do nhà
nước đề ra.
Do đó, phương pháp giáo dục thường được sử dụng kết hợp với các
phương pháp khác một cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng vừa sâu sát
đến từng người lao động.

b) Phương pháp cưỡng chế
Là biện pháp dùng sự thiệt hại làm áp lực để buộc đối tượng tuân thủ theo
mục tiêu quản lý của nhà nước, được dùng khi cần điều chỉnh các hành vi mà
hậu quả của nó có thể gây ra thiệt hại cho cộng đồng và cho Nhà nước.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp cưỡng chế trong quản lý nhà nước về
kinh tế là tính quyền lực, tính bắt buộc.

22


Tính bắt buộc đòi hỏi các đối tượng quản lý phải chấp nhận nghiêm chỉnh
các tác động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời, thích đáng.
Tính quyền lực đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước chỉ được phép đưa ra
các tác động hành chính đúng với thẩm quyền của mình.
Thực chất của phương pháp cưỡng chế trong quản lý nhà nước về kinh tế
là sử dụng quyền lực nhà nước để tạo ra sự phục tùng của các cá nhân và tổ chức
trong hoạt động và quản lý kinh tế.
Các biện pháp mà Nhà nước sử dụng đối với phương pháp này là biện
pháp hình sự, biện pháp hành chính, dân sự.
c) Phương pháp kích thích
Phương pháp kích thích là cách tác động vào đối tượng quản lý thông qua
các lợi ích kinh tế để cho đối tượng quản lý lựa chọn phương án hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ.
Đặc điểm của phương pháp kích thích là tác động, điều chỉnh hành vi của
chủ thể kinh tế không phải bằng cưỡng chế, mệnh lệnh hành chính mà bằng lợi
ích. Có nghĩa là dùng cái lợi (lợi nhuận) mà các doanh nghiệp, doanh nhân ham
muốn làm động lực để hướng hành vi của họ đi theo mục đích mong muốn của
nhà nước.
3. Công cụ quản lý nhà nước về kinh tế
Để tiến hành quản lý các hoạt động kinh tế, Nhà nước phải sử dụng các

công cụ quản lý của mình, đó là các phương tiện mà Nhà nước dùng để tác
động, điều hành lên con người trong xã hội nhằm đạt tới mục tiêu đã định. Các
công cụ quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm:
a) Kế hoạch và thị trường
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải sử dụng hai công cụ quản lý cơ
bản là kế hoạch và thị trường. Việc sử dụng hai công cụ quản lý này không thể
tách rời nhau mà là sự vận dụng quy luật phát triển có kế hoạch để điều tiết tác
động của quy luật giá trị và vận dụng quy luật giá trị nhằm quản lý nền kinh tế
phát triển theo kế hoạch.
b) Xây dựng kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác hoạt động có hiệu quả
Đây là những thành phần kinh tế có vai trò quyết định đối với việc quản lý
nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế này có vai trò mở đường và hỗ trợ cho các
thqanhf phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bển
của nền kinh tế. Nhờ chúng mà nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết và
hướng dẫn nền kinh tế thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội do kế hoạch
vạch ra.
23


c) Hệ thống pháp luật trong quản lý nhà nước về kinh tế
Nhà nước phải sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ để điều tiết hoạt
động của các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền
kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực và
ngăn chặn mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, điều tiết các hoạt động kinh tế đối
ngoại sao cho nền kinh tế không bị lệ thuộc vào nước ngoài.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đối với nước ta là một quá
trình lâu dài. Vì thị trường luôn luôn biến động nên hệ thống pháp luật cũng phải
được bổ sung hoàn chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế.

d) Các công cụ tài chính
- Hệ thống thuế: Chính sách thuế đúng đắn không chỉ có mục đích tạo
nguồn thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiêu dùng,
khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực trong nền kinh tế, thu hút
được nhiều vốn đầu tư của nước ngoài, khuyến khích đầu tư có hiệu quả
kinh tế - xã hội cao.
- Ngân sách nhà nước: là công cụ rất quan trọng để tác động vào nên
kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và công bằng xã hội, là hình
thức cơ bản để hình thành và sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập trung nhằm
mở rộng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa và thỏa mãn nhu cầu
ngày càng cao cảu nhân dân. Ngân sách được sử dụng không chỉ nhằm bảo
đảm sự tăng trưởng về của cải vật chất mà còn cả sự phát triển về mặt văn
hóa - xã hội.
e) Các công cụ tiền tệ
Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đóng vai trò vô cúng quan trọng.
Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua
hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình kinh
tế. Bắng công cụ tiền tệ, nhà nước có thể hướng dẫn nền kinh tế phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn tính tự phát tư bản chủ nghĩa.
g) Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại
Để thực hiện tốt chiến lược kinh tế mở, xúc tiến các quan hệ kinh tế
đối ngoại, nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là: thuế
xuất - nhập khẩu, hạn ngạch, tỷ giá hối đoái, bảo đảm tín dụng xuất khẩu,
trợ cấp xuất khẩu... . Thông qua những công cụ này, nhà nước có thể khuyến
khích việc xuất, nhập khẩu đồng thời lại bảo hộ một cách hợp lý nền sản
xuất nội địa, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, thu hút vốn
đầu tư nước ngoài, đồng thời vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, lợi
ích dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN


24


Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp
luật của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có để đạt
được những mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra.
NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Cơ sở khách quan của quản lý nhà nước về kinh tế?
2. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước về kinh tế?

25


×