Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

MỘT số vấn đề đặt RA TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐƯỜNG lối QUAN điểm của ĐẢNG về PHÁT TRIỂN văn hóa và CON NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.6 KB, 23 trang )

1

MỤC LỤC
Tran

1. Đặc điểm văn hóa Làng Việt Bắc bộ
1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội
1.2. Đặc điểm văn hoá, tín ngưỡng
2. Tính cộng đồng của Làng Việt Bắc bộ
2.1. Vị trí, vai trò tính cộng đồng của Làng Việt Bắc bộ
2.2. Những biểu hiện tập trung của tính cộng đồng Làng Việt Bắc bộ
2.3 Tổ chức nông thôn theo sở thích, phường, hội
KẾT LUẬN

g
1
2
2
9
11
11
16
18
21

MỞ ĐẦU
Đồng bằng Bắc bộ hiện nay là một vùng đất chiếm vị trí quan trọng
trong sự phát triển cả về kinh tế, văn hoá, lẫn quân sự của Việt Nam. Từ vị trí
địa chính trị cùng với điều kiện tự nhiên được tạo bởi hệ thống mạng lưới
sông ngòi dày đặc và miền khí hậu đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa,
mà các cư dân nơi đây có một sắc thái văn hóa riêng có - văn hóa Làng Việt


Bắc Bộ gắn liền với nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước.
Làng Việt Bắc Bộ là nơi bao đời nay cư dân Việt cư trú, lao động, sản
xuất và tổ chức mọi sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt tinh thần; đồng thời là nơi cố
kết quan hệ dòng tộc, xóm giềng. Làng là mô hình để con người theo đó mà mở
rộng ra xây dựng tổ chức quốc gia, đô thị. Làng còn là pháo đài để chống giặc
ngoại xâm bảo vệ sự bình yên cho dân tộc, cho đất nước. Văn hóa làng chính là
hệ thống những giá trị được hình thành và kết tinh qua bao đời trong toàn bộ
các hoạt động của con người, nó cũng chính là công cụ, là phương tiện tổ chức
và duy trì toàn bộ các hoạt động xã hội trên một phạm vi địa giới lãnh thổ nhất
định. Văn hóa làng đi vào tâm tư, tình cảm con người bằng hàng loạt những giá
trị văn hóa vật chất và tinh thần. Văn hóa làng của người Việt nói chung và văn


2

hóa làng Việt Bắc bộ nói riêng luôn được coi là một thành tố có vị trí đặc biệt
quan trọng, được đánh giá “là cái gốc của văn hóa dân tộc”.
Văn hóa Làng Việt Bắc Bộ mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của
văn hóa làng Việt Nam, tuy nhiên tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng được
biểu hện rõ nét hơn cả, trở thành những giá trị nổi trội nhất so với các phẩm
chất quan trọng khác như: tính ưa hài hòa, khuynh hướng thiên về âm tính,
tính tổng hợp, tính linh hoạt…Vì vây, làm rõ đặc điểm và tính cộng đồng của
Làng Việt Bắc bộ, bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống trước những
tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế luôn là vấn
đề mang tính khách quan đặt ra hiện nay.


3

NỘI DUNG

1. Đặc điểm văn hóa Làng Việt Bắc bộ
Làng là một đơn vị cộng cư của cư dân nông nghiệp định cư trên một
vùng đất chung, một hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tự cấp, tự túc. Đó
cũng là mẫu hình phù hợp với xã hội có nền sản xuất tiểu nông. Làng được
hình thành và tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng địa
vực. Làng có sức sống mãnh liệt với cấu trúc động, không có làng bất biến, sự
biến đổi của làng thường chịu sự tác động của sự biến đổi chung đất nước.
Làng Việt ở Bắc bộ là hình thức công xã nông thôn với những đặc thù
riêng của làng được thể hiện ở chế độ ruộng đất, chế độ công điền, các hình
thức và nguyên tắc tổ chức xã hội như lệ làng, tín ngưỡng, lễ hội làng của các
cư dân Đồng bằng Bắc bộ. Làng Việt Bắc bộ mang những đặc điểm cơ bản
làng Việt Nam, tuy nhiên xét theo chiều sâu văn hóa Làng Việt Bắc bộ có
những đặc điểm cơ bản:
1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội
Sau hàng triệu năm hình thành và hàng nghìn năm khám phá của người
Việt, vùng Đồng bằng Bắc Bộ dần được định hình cho đến ngày nay. Đồng
bằng Bắc Bộ được kiến tạo bởi các con sông lớn: Sông Hồng, Sông Thái
Bình, Sông Mã, sông Lam… bao gồm phần trũng, phần bằng, trung du của
các tỉnh, thành: Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương, Hà
Nam, Thái Bình, Ninh Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh. Khí hậu nhiệt đới gió mùa tương đối rõ nét cùng một
mạng lưới sông ngòi dày đặc tạo nên một sắc thái riêng trong tập quán canh
tác, cư trú, tâm lý ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước.
Ở Đồng bằng Bắc Bộ, người dân sống quần tụ thành làng, một hình thái
cộng cư với những thiết chế phù hợp với điều kiện tự nhiên ở đây. Làng là kết
quả của các công xã thị tộc nguyên thuỷ chuyển sang công xã nông thôn. Các


4


vương triều phong kiến đã chụp xuống công xã nông thôn ấy tổ chức hành
chính và nó trở thành các làng quê. Có thể nói, làng là một đơn vị quần cư chủ
yếu do nền văn minh nông nghiệp lúa nước và tổ chức xã hội truyền thống
Việt Nam hình thành. Trong lịch sử, làng có vị trí và vai trò quan trọng trên
tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá xã hội …Làng là nơi
cộng đồng dân cư sinh sống, liên kết chặt chẽ với nhau, trong quan hệ kinh tế,
họ tộc, hội hè, tín ngưỡng, giúp đỡ nhau khi vui buồn cũng như lúc hoạn nạn.
Làng ở Đồng bằng Bắc bộ có những đặc điểm cơ bản cả về tự nhiên, kinh tế
xã hội:
Một là, đặc điểm về mặt hành chính
Làng là cơ sở, là tế bào, là đơn vị hành chính nhỏ nhất của một tổ chức
bộ máy nhà nước. Tuy nhiên trong mỗi làng đều có một bộ máy quản lý có tính
tự quản, với những thiết chế và luật lệ nhất định. Đến thời phong kiến tập
quyền, các chính quyền Nhà nước Trung ương ngày càng can thiệp vào bộ máy
quản lý của làng, lấy làng, xã làm cấp cai trị về hành chính. Tuy vậy, bên cạnh
các chức vụ đứng đầu do làng, xã cử ra và được Nhà nước phong kiến quyết
định, thì trong bộ máy quản lý làng, xã còn có các tiên, thứ chỉ, Hội đồng bô
lão (Hội đồng Kỳ hào, Kỳ mục), các chức dịch, hương chức… về thực chất,
quyền hành cao nhất trong các làng, xã vẫn thuộc về các tiên chỉ, thứ chỉ và
Hội đồng Kỳ hào, Kỳ mục. Do đó, bộ máy quản lý làng, xã vẫn cơ bản mang
tính tự quản. Nó chi phối đến mọi công việc của làng và hầu hết các hoạt động
của thành viên trong làng. Để thực hiện quyền tự quản của mình, bộ máy quản
lý của làng không ngừng đặt ra các thiết chế, luật lệ, phép tắc riêng và áp đặt
các thiết chế, luật lệ ấy vào đời sống làng, xã. Từ thế kỷ XIII, XIV trở đi, nhiều
thiết chế, luật lệ của các làng đã được văn bản hóa thành những hương ước,
khoán ước và thực sự trở thành công cụ của bộ máy quản lý các làng, xã ở
nông thôn. Điều đó vừa duy trì tính cộng đồng vừa làm tăng sự ràng buộc và sự
lệ thuộc của người dân vào các thiết chế của cộng đồng làng.



5

Đứng đầu làng là lý trưởng nay là trưởng thôn, trưởng xóm người đại
diện của dân làng trong mối quan hệ với nhà nước, là người có trách nhiệm
truyền đạt nội dung các mệnh lệnh của trên và tổ chức thực hiện các mệnh
lệnh đó trong phạm vi làng mình như: nộp thuế, giao lính…Đồng thời, cũng
là cầu nối để người dân trong làng bày tỏ tâm tư, nguyện vọng hoặc đề xuất
các biện pháp xây dựng làng với các cấp có thẩm quyền của nhà nước. Mặc
dù vậy, lý trưởng vẫn phải tuân thủ các quyết định, quy định của Hội đồng Kỳ
hào, Kỳ mục đưa ra. Các công việc của làng hầu như nhà nước không điều
chỉnh mà do làng tự quyết định, vì vậy người Việt ở đây thường có câu:
“Phép vua thua lệ làng”.
Hai là, đặc điểm về kinh tế
Kinh tế chủ yếu của Làng Việt Bắc bộ là nông nghiệp mang tính trọng
nông và tự cung, tự cấp. Đây là một trong những đặc trưng nổi bật nhất của
nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống. Hầu như ở các làng đều có các
hoạt động sản xuất tương tự giống nhau, bao gồm các hoạt động nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ và khai thác sản vật tự nhiên để tự sản
xuất những sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng cơ bản nhất của dân cư trong
làng. Trong cấu trúc kinh tế ấy, nông nghiệp là hoạt động căn bản nhất và
luôn được xem là “nghề gốc” của đa số các hộ dân cư. Hoạt động nông
nghiệp bao trùm và chi phối đến tất cả các hoạt động kinh tế khác. Trong đó,
sản xuất lương thực, mà đặc biệt là sản xuất lúa gạo đã phát triển từ rất sớm
và trở thành ngành sản xuất chính, là nền tảng cho các hoạt động kinh tế khác.
Điều này được quy định trước hết bởi các điều kiện tự nhiên của sản xuất và
tập quán, nhu cầu sử dụng lúa gạo làm lương thực đã có từ lâu đời của dân cư,
cả ở đồng bằng lẫn trung du miền núi. Do đó, sản xuất lúa gạo và lương thực
đã trở thành phương thức sản xuất và sinh sống vừa có ý nghĩa sinh tồn vừa
có ý nghĩa truyền thống của hầu hết các làng xã trong suốt chiều dài lịch sử.

Bên cạnh sản xuất lúa gạo, dân cư các làng còn trồng các loại cây hoa màu,


6

cây ăn quả và rau đậu thực phẩm, đồng thời với chăn nuôi gia súc, gia cầm,
thả cá, đánh bắt thủy hải sản, khai thác sản vật tự nhiên… Song, toàn bộ các
hoạt động kinh tế này chỉ là các hoạt động phụ để tận dụng lao động nông
nhàn, bổ sung sản phẩm cho nhu cầu lương thực và phục vụ nhu cầu tiêu dùng
trực tiếp của các hộ dân cư. Khi dân số các làng ngày càng tăng lên, đất ở và
đất đai canh tác trở nên chật hẹp, lương thực và hoa lợi thu được ngày càng
không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng tại chỗ của dân cư, thì một mặt, đất
đai và sản xuất lương thực càng được coi trọng hơn, sử dụng triệt để hơn.
Song, cấu trúc kinh tế cũng như phương thức sản xuất và sinh sống của dân
cư về cơ bản không có những thay đổi, vẫn chỉ là sự tái lập hay nối tiếp
truyền thống nông nghiệp và tập quán sinh sống bằng nghề trồng lúa của
những làng quê cũ. Cho đến thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở Ðồng bằng Bắc Bộ
cây lúa đã trở thành độc canh, được trồng hầu như trên toàn bộ các cánh đồng,
việc canh tác và thâm canh lúa được tiến hành ráo riết nhưng cũng chỉ gần đủ
cho nhu cầu về gạo của dân chúng.
Phương thức sản xuất và sinh sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, lấy
nông nghiệp làm cốt lõi sinh tồn đã trở thành tập quán sinh sống, thành tư
tưởng, ý thức và tình cảm ngấm sâu trong tiềm thức của người dân nông thôn.
Ở đây, nông nghiệp vừa là tất yếu sinh tồn, nhưng cũng là ước mơ, khát vọng
về sự giầu có, sung túc và thịnh vượng của dân cư. Đất đai, ruộng vườn, lúa
gạo hay trâu bò luôn được coi là thước đo về sự giàu có, sung túc. Và từ đó,
tư tưởng “dĩ nông vi bản” đã trở thành ý thức hệ phổ biến, hầu như bất di bất
dịch, kể cả đối với tầng lớp quan lại phong kiến cũng như đối với người nông
dân và các tầng lớp dân cư khác.
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp là cơ bản, thì trong nền kinh tế xã hội

truyền thống, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng
xuất hiện từ rất sớm, gắn liền với hoạt động nông nghiệp và hỗ trợ, bổ sung
cho nông nghiệp. Theo thống kê cho đến thế kỷ XIX đã có tới hơn 40 làng


7

chuyên dệt vải, lụa; hơn 20 làng làm nghề gốm sứ, hàng chục làng chuyên
làm nghề thêu, nhuộm, nghề mộc, rèn, đúc đồng, đan lát mây tre,… Nhiều
loại sản phẩm thủ công nghiệp đã nổi tiếng, và không ít mặt hàng đạt tới
trình độ kỹ nghệ cao, trở thành những sản phẩm có ý nghĩa văn hóa, tinh
thần, biểu trưng cho tài nghệ và truyền thống của các làng. Việc giao lưu,
trao đổi hàng hóa và hoạt động thương nghiệp cũng ngày càng mở rộng. Ở
Ðồng bằng Bắc Bộ trước đây, cứ khoảng vài ba làng lại có một chợ tổng
hay chợ huyện là nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các làng trong vùng.
Ở những làng xã có các nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển thì việc buôn
bán, trao đổi hàng hóa cũng thường xuyên tấp nập, nhộn nhịp hơn. Đến thế
kỷ XVIII, XIX đã xuất hiện không ít những làng buôn chuyên nghiệp, mà
phần đa dân làng lấy việc buôn bán làm nghiệp chính và nguồn sống chính
của họ là do kinh tế thương nghiệp mang lại. Tiêu biểu như một số làng
nghề như làng Chuông (Thanh Oai - Hà Nội) làm nón, làng Vân Chàng
(Nam Trực - Nam Định) làm nghề rèn có tuổi nghề đã hơn 700 năm, làng
Bát Tràng (Gia Lâm – Hà Nội) làm gốm sứ, làng Vạn Phúc (Hà Nội) làm
nghề dệt lụa….và một số làng buôn như làng Phù Lưu (Từ Sơn - Bắc Ninh)
….là những làng chuyên làm một nghề, cha truyền con nối hết đời này qua
đời khác
Ba là, đặc điểm về mặt xã hội
Đặc điểm về xã hội của Làng Việt Bắc Bộ được biểu hiện hết sức
phong phú, sinh động. Thế giới đầy mầu sắc của văn hóa làng được quy
ước thành lệ làng, đúc kết trong hương ước làng, bộc lộ một cách phong

phú qua hội làng. Tất cả chắt lọc lại, tạo nên bản sắc văn hóa làng, mà
trong đó tính cộng đồng làng và tính tự trị của làng là những giá trị nổi trội
nhất. Bên cạnh đó còn là các phẩm chất quan trọng khác như: tính ưa hài
hòa, khuynh hướng thiên về âm tính (mà tính trọng tình, hay tình làng là
một biểu hiện của nó), tính tổng hợp và tính linh hoạt.


8

Trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, văn hóa Làng Việt Bắc bộ đã
chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình. Sau lũy tre làng, bên giếng làng, dưới
mái đình làng, trong bầu khí thân thương của những ngày hội làng, mọi người
sống với nhau nặng tình nặng nghĩa, giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Tình
làng nghĩa xóm, quan hệ láng giềng ràng buộc con người trong nếp sống làng,
xã có kỷ cương, trong sáng và thanh cao.
Sự gắn bó giữa con người với con người trong cộng đồng làng quê
không chỉ là quan hệ sở hữu trên đất làng, đình làng, chùa làng… những nơi
diễn ra sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng chung mà còn là sự gắn bó về chuẩn
mực đạo đức, chuẩn mực xã hội. Ở mỗi làng, ngoài phong tục chung còn có
tục lệ riêng được ghi trong hương ước, khoán ước. Đây là những quy định khá
chặt chẽ về mọi phương diện cuả làng từ lãnh thổ đến việc sử dụng đất đai, từ
quy định về sản xuất, bảo vệ môi trường đến quy định về tổ chức làng xã…
và vì thế tạo nên một sức mạnh tinh thần không thể phủ nhận, nhưng cũng
đồng thời tạo ra sự coi nhẹ vai trò cá nhân.
Trong suốt tiến trình phát triển lâu dài của Làng Việt Bắc bộ, tính cộng
đồng luôn được bảo lưu và duy trì mạnh mẽ, trở thành một trong những đặc
trưng cơ bản, có tính phổ quát và bao trùm trong sản xuất và đời sống xã hội ở
nông thôn. Nói đến kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống, trước hết, là nói
đến sự cố kết và tính cộng đồng về mặt dân cư và lãnh thổ của các làng, xã
nông thôn. Sự cố kết này được hình thành dựa trên quan hệ láng giềng, quan

hệ huyết tộc hoặc dòng họ. Đó là một tập hợp dân cư, hay cộng đồng dân cư
cùng nhau tụ cư, sinh sống trên một khu vực lãnh thổ nhất định, bao gồm cả
khu đất làm nhà ở, vườn tược của các hộ gia đình lẫn đất đai canh tác, đồng
cỏ, đồi rừng, ao hồ, đầm bãi và tài nguyên thiên nhiên do các thành viên trong
làng cùng khai phá, chiếm đoạt hay do các thế hệ cha ông họ để lại. Toàn bộ
đất đai, tài nguyên và lãnh thổ ấy đều là tài sản chung của mọi thành viên
trong làng, thuộc sở hữu chung của mỗi làng, do làng kiểm soát, quản lý và


9

chi phối. Mọi thành viên trong làng đều được sử dụng đất đai, khai thác tài
nguyên theo những quy định của làng, đồng thời có trách nhiệm và nghĩa vụ
chung trong việc gìn giữ, bảo vệ, khai thác và sử dụng chúng.
Đặc điểm nổi bật của các gia đình Làng Việt Bắc Bộ là gia đình tiểu nông,
phụ quyền nhưng về thực chất người phụ nữ có vai trò đáng kể trong gia đình, xã
hội. Hầu hết những công việc quan trọng họ đều đảm nhiệm: chăm lo công việc
đồng áng, làm nghề thủ công, chạy chợ, giữ tay hòm chìa khoá, đối nội trong gia
đình, dòng họ, đối ngoại với hàng xóm, láng giềng, giáo dục con cái từ khi
chúng được sinh ra cho đến khi chúng trưởng thành….. Đó là những nguyên
nhân vì sao người phụ nữ được coi trọng trong làng.
Bốn là, đặc điểm về quốc phòng, an ninh
Làng Việt Bắc bộ thường được xây dựng như một đảo nhỏ nằm ở giữa
cánh đồng lúa, với những rặng tre bao quanh. Các làng được chia tách với
nhau thông qua một cánh đồng, hay một dòng sông nên làng cũng kiêm luôn
cả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Mỗi làng là một đơn vị quân sự, có dân
binh, lực lượng quân sự riêng của mình. Nếu không được tuyển vào quân đội
thường trực của Nhà nước thì dân binh nói chung vẫn làm ruộng ở nhà, đây là
lực luợng quân sự dự bị và sẽ tuân thủ sự điều động của nhà nước khi cần.
Nhiều làng đã lập ra các hương ước, khế ước xác định rõ địa giới lãnh

thổ, đất đai và khẳng định “chủ quyền” của làng trên toàn bộ địa giới ấy. Và
để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của làng, nhiều nơi đã quy định cụ thể về sử
dụng đất đai, nguồn nước, đốn cây, phát rẫy, khai thác nguồn lợi tự nhiên, về
canh phòng, chống xâm lấn, trộm cướp… Đất đai trong lãnh thổ của làng,
ngay cả ruộng đất tư cũng không được bán, đổi, sang nhượng cho người làng
khác. Dân từ nơi khác đến ở được coi là dân ngụ cư phải có sự đồng ý của
làng và thường phải hai đến ba đời sau mới được chính thức gia nhập cộng
đồng làng xã, trở thành thành viên của làng. Trong cộng đồng dân cư - lãnh
thổ của làng còn có những cộng đồng theo địa bàn cư trú hẹp hơn như thôn,


10

xóm… Những cộng đồng này gắn bó với nhau trên quan hệ láng giềng gần
gũi, thân cận và thường cũng có những quy ước riêng về nơi cư trú, sinh sống
của họ theo địa giới hành chính.
1.2. Đặc điểm văn hoá, tín ngưỡng
Văn hóa, tín ngưỡng vói tư cách là một hình thái ý thức xã hội, phản
ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định, nhưng ngược lại có tính độc
lập tương đối của mình, có thể tác động trở lại tồn tại xã hội giống như các
hình thái ý thức xã hội khác. Văn hóa, tín ngưỡng của Làng Việt Bắc bộ cũng
mang đầy đủ đặc trưng của văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam nói chung, song do
những điều kiện tự nhiên, xã hội chi phối văn hóa, tín ngưỡng nơi đây có
những đặc điểm riêng. Cụ thể:
Một là, tục thờ cúng thần linh, tổ tiên…
Do nhận thức cũng như sự phát triển thấp kém của trình độ sản xuất đã
làm cho các cư dân Làng Việt Bắc bộ phụ thuộc rất lớn vào tự nhiên. Thiên
nhiên đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa, tinh
thần, tín ngưỡng, tình cảm của các cư dân trong làng. Nhiều yếu tố và hiện
tượng tự nhiên được “sùng bái” và trở thành tín ngưỡng như “thần sấm”,

“thần mưa”, “thần sông”, “thần núi”,… cùng với những lễ hội truyền thống,
mang đậm sắc thái văn hóa của các cộng đồng, các vùng quê như các lễ hội:
cầu mưa, rước nước, điền, hạ ngư... Và từ xa xưa, thiên nhiên đã đi vào tục
ngữ, ca dao, trở thành nguồn cảm hứng cho những sáng tạo văn hóa, văn học,
nghệ thuật, cho sự thể hiện tình cảm của con người, sự gắn bó với cộng đồng
và tình yêu đối với quê hương, đất nước. Sự gắn bó mật thiết với tự nhiên, tôn
trọng tự nhiên, vừa đấu tranh với tự nhiên vừa hòa hợp với tự nhiên để sinh
tồn và phát triển - đó là một trong những triết lý cho sự tồn tại và phát triển
của nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống.
Do tính chất của nền văn hóa nông nghiệp nên trong mối quan hệ xã
hội, tín ngưỡng và lối sống đều thể hiện mục đích hướng tới sự phồn thực: tồn


11

tại hệ thống các nữ thần gọi là các Bà, các Mẫu, tục thờ Mẫu trở thành một tín
ngưỡng Việt Nam điển hình của các cư dân nơi đây.
Người làng Việt vùng Bắc bộ luôn có niềm tin rằng chết là về với tổ
tiên nơi chín suối, ông bà tổ tiên sau khi mất đi vẫn thường xuyên đi về thăm
nom, phù hộ cho con cháu sống khỏe mạnh, ăn lên làm ra. Vì vậy, xuất hiện
tục thờ cúng tổ tiên - một hình thức tín ngưỡng đặc biệt riêng có của các loại
hình tín ngưỡng Việt Nam.
Trong gia đình, ngoài thờ cúng tổ tiên còn có tục thờ thần Thổ công,
một dạng mẹ đất, là vị thần trông coi gia cư, ngăn chặn tà thần, định đoạt
phúc hoạ cho cả gia đình. Vì vậy, trong văn hóa truyền miệng của cư dân
Làng Việt Bắc bộ thường có câu: “Đất có thổ công, sông có hà bá”
Trong phạm vi làng quan trọng nhất là thờ thần Thành Hoàng làng. Đây
là vị thần che chở, cai quản định đoạt cho dân làng, không một làng nào lại
không có thần Thành Hoàng làng. Đó là vị thần có tên tuổi, tước vị rõ ràng, là
người có công lập ra làng xã, là anh hùng từng sinh ra hay mất đi ở làng, thậm

chí là người ăn mày, ăn xin, ăn trộm...
Hai là, các phong tục hôn nhân, ma chay, lễ, tết…
Gắn liền với tín ngưỡng, Làng Việt Bắc Bộ còn có nhiều phong tục, là
những thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ rất lâu đời, được đa số mọi
người thừa nhận và làm theo : Phong tục hôn nhân, phong tục ma chay, lễ tết,
lễ hội…
Phong tục hôn nhân gắn liền tính cộng đồng làng xã. Hôn nhân truyền
thống không đơn thuần là việc hai người lấy nhau mà là việc của hai bên cha
mẹ, của hai họ dựng vợ gả chồng cho con cái. Tất cả đều xuất phát từ quyền
lợi tập thể: quyền lợi gia tộc, quyền lợi của làng xã. Việc hôn nhân là của hai
người nhưng lại kéo theo việc xác lập quan hệ qua lại giữa hai họ tộc, đó
không phải là việc lựa chọn cá nhân mà là lựa chọn gia đình, dòng họ xem có
tương xứng hay không, môn đăng hộ đối không: “Lấy vợ kén tông, lấy chồng


12

kén giống”. Sự ổn định làng xã là mối quan tâm hàng đầu, người dân trong
làng có thường có tư tưởng xem thường dân ngụ cư, vì vậy phải chọn chồng
trong số người cùng làng: “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn
hơn”. Điều này xét về phương diện tâm lý đó là sự gắn bó quê cha đất tổ, về
phương diện kinh tế là phục vụ cho sự ổn định của làng xã (tục nộp cheo).
Khi quyền lợi của tập thể cộng đồng được tính đến thì người ta mới lo nhu
cầu riêng tư cá nhân.
Nghề lúa nước mang tính thời vụ cao, lúc nông vụ, bận rộn tối tăm mặt
mũi “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nên lúc nông nhàn, người dân có
tâm lý ăn bù, chơi bù. Ngày lễ tết được phân bố đều theo thời gian trong năm.
Nếp sống cộng đồng thể hiện ở chỗ Tết là dịp duy nhất trong năm có sự sum
họp đầy đủ của tập thể gia đình, gia tiên, gia thần. Tết là một cuộc đại đoàn
viên. Ngoài tết nguyên đán, còn có tết rằm tháng riêng, tết mồng ba tháng ba,

Tết mồng bảy tháng bảy, tết mồng năm tháng năm, tết trung thu…
Nếu lễ tết phổ biến theo thời gian, thì lễ hội là hệ thống phân bố theo
không gian. Mỗi vùng đều có những lễ hội riêng của mình, các lễ hội của Làng
Việt Bắc Bộ tập trung vào 2 mùa: mùa thu và mùa xuân, khi công việc đồng
áng rảnh nhất. Các lễ hội văn hoá, tôn giáo, lễ hội kỷ niệm anh hùng, lễ hội
nghề nghiệp…là điều kiện để dân trong làng tham gia sinh hoạt chung. Các lễ
hội thường diễn ra ở đình làng, chùa làng nên nó có giá trị cộng cảm cao. Sự
cộng cảm của tập thể cộng đồng làm cho mỗi người gắn bó chặt chẽ hơn, do đó
thấy mình vươn lên ở tầm vóc cao hơn, có sức mạnh tập thể lớn hơn.
2. Tính cộng đồng của Làng Việt Bắc bộ
2.1. Vị trí, vai trò tính cộng đồng của Làng Việt Bắc bộ
Do cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, nên người làm
nông nghiệp phải dựa vào nhau để sinh tồn, duy trì nòi giống và phát triển các
giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp mang
tính thời vụ, đặc biệt là nông nghiệp lúa nước, tính thời vụ càng cao, để kịp


13

thời vụ con người buộc phải liên kết với nhau. Chính sự liên kết, tương hỗ
này tạo nên tính cộng đồng của Làng Việt Bắc bộ.
Như vây, tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với
nhau tạo nên sức mạnh của cộng đồng người, trong đó mỗi người sống và lao
động sản xuất đều hướng tới người khác. Tính cộng đồng có đặc diểm dương
tính và hướng ngoại. Sản phẩm của tính cộng đồng là tập thể làng xã khép
kín, mang tính tự trị, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau, độc lập với triều
đình phong kiến. Mỗi làng như là một “vương quốc” nhỏ khép kín, làng nào
biết làng đó, có luật lệ riêng. Sự biệt lập đó tạo nên truyền thống: “ Phép vua
thua lệ làng”.
Làng Việt ở Bắc Bộ được bao bọc bởi lũy tre xanh, rặng tre bao kín

quanh làng, trở thành một thứ thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không
cháy, trèo không được, đào đường hầm thì vướng rễ không qua (chính vì vậy
mà tiếng Việt gọi rặng tre là Lũy, thành lũy). Lũy tre là một đặc điểm quan
trọng làm cho làng Việt ở Bắc bộ khác hẳn ấp ở Trung Hoa có thành quách
đắp bằng đất bao bọc. Bởi vậy lũy tre có thể coi là bức tường rào kiên cố để
ngăn cách làng với thế giới bên ngoài. Là nơi lưu trữ những giá trị văn hóa vật
chất, tinh thần của người Việt. Để vào được trong làng thì phải đi qua cổng
làng, cổng làng là cầu nối giữa làng với bên ngoài, một số làng để ra được bên
ngoài làng không chỉ bằng cổng làng mà còn bằng thuyền qua sông với những
làng Việt Bắc bộ giáp sông. Nhưng cổng làng vẫn là con đường chính, làng
không chỉ có một cổng mà đôi khi còn có nhiều cổng: cổng tiền, cổng hậu hay
cổng chính, cổng phụ để thuận tiện cho việc đi làm đồng. Cổng làng có thể
coi là biểu tượng cho tính chất “cộng đồng”. Bởi lẽ thường thì mỗi làng, bên
cạnh cổng làng là một hoặc hai cây đa hay cây gạo là nơi nghỉ mát, gặp gỡ
của những người đi làm đồng sau những giờ lao động nặng nhọc vất vả hay
của những khách qua đường. Cổng làng cũng là một nét văn hóa đặc sắc của
làng Việt Bắc bộ, đôi khi cũng là biểu tượng của cái làng ấy. Chúng ta thường


14

nghe nói đến “cây đa, bến nước giếng nước, sân đình”, làng nào không có
dòng sông chảy qua thì thường có một giếng nước ở giữa làng, đây là những
biểu tượng đặc trưng nhất của làng quê đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Đình
làng là nơi sinh hoạt văn hóa của dân làng. “Do ảnh hưởng của Trung Hoa,
đình từ chỗ là nơi tập trung của tất cả mọi người dần dần chỉ còn là chốn lui
tới của đàn ông. Bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ quần tụ tại nơi bến nước (ở
những làng không có sông chảy qua thì có giếng nước) – chỗ hàng ngày chị
em gặp nhau cùng rửa rau, vo gạo, giặt giũ, chuyện trò”. Đình làng cũng là
nơi trung tâm chính trị, văn hóa của làng. Đó là nơi họp làng, nơi xử lý

những công việc chung của làng, nơi diễn ra hội làng, tế lễ, thờ cúng Thành
Hoàng làng (vị thần phù trợ cho làng). Ngoài ra, ở các làng còn có chùa (thờ
Phật) và sau này còn có nhà thờ (thờ chúa Jesu) của những làng có dân theo
Công giáo. Cũng có nhiều làng cả chùa và nhà thờ đều nằm chung một làng.
Đó cũng là nơi sinh hoạt văn hóa của cả dân làng.Với làng Việt Bắc bộ truyền
thống, cái mà ta nhận thấy rõ nhất là không thể thiếu những yếu tố trên,
những vật thể mà ta có thể nhìn thấy được, đó là những đặc trưng của làng
Việt truyền thống. Mặc dù sau này, kinh tế đất nước phát triển, lũy tre xanh đã
bị chặt phá, cái bao bọc giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam suốt thời kì Bắc
thuộc để không bị đồng hóa bởi Trung Hoa. Nay đã được thay bằng nhà cao
tầng, đường bộ hiện đại… Đình làng xưa đã không còn nữa thay vào đó là
nhà văn hóa thôn, chỉ còn rất ít làng giữ lại được mái đình làng nhưng cũng
không còn nguyên vẹn như xưa nữa. Cây đa được chặt bớt, cổng làng bị phá
đi làm cổng chào. Một số làng đã được lên làm thành phố, thị xã hay thị trấn.
Đó cũng là theo xu hướng của thời đại nhưng cái bản sắc văn hóa dân tộc thì
bị mai một, hòa tan dần. Cơ cấu tổ chức của làng Việt truyền thống. Làng
Việt truyền thống ở Bắc Bộ được tổ chức theo cơ cấu tổ chức hết sức linh
hoạt và mềm dẻo, mang tính chất tự quản của làng: Về hình thức có lũy tre
làm biểu tượng, hương ước riêng có lệ làng riêng, hội làng riêng một ngày,
Thành Hoàng làng riêng (mỗi làng thờ riêng một ông Thành Hoàng) “chuông


15

làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Đời sống kinh tế của làng
mang tính tự cung tự cấp, là quan hệ liên làng, siêu làng: liên kết chống lũ lụt,
chống ngoại xâm, quan hệ hôn nhân ngoài làng, về kinh tế có sự giao lưu,
buôn bán giữa các làng, các vùng. Các loại hình làng Việt gồm có làng thuần
nông, chủ yếu làng Việt ở đồng bằng châu thổ sông Hồng đều là làng thuần
làm nông nghiệp trồng lúa nước. Nguyên tắc quản lý của làng xã Việt Nam

chủ yếu dựa trên cơ sở huyết thống và địa vực. Làng được hình thành dựa trên
nguyên lý máu và nguyên lý đất. Nguyên lý máu dựa trên quan hệ dòng họ,
mỗi dòng họ đều có trưởng họ (phải là nam giới) người này trực tiếp cai quản
nhà thờ họ (từ đường chính), lo việc ghi chép gia phả của những người trong
họ. Nếu họ nào đông người quá thì việc này được phân chia xuống cho các
nghành, các chi trong họ mình. Đồng thời lo việc tế lễ, cúng bái những ngày
giỗ tổ của cả họ. Đây là người có vai trò khá quan trọng trong làng, đặc biệt là
những làng nào chỉ có một họ (người ta lấy tên họ làm tên của làng: Đặng Xá,
Đỗ Xá, Nguyễn Xá, Phạm Xá….), người có vai trò cổ vũ tinh thần học tập của
con em trong làng, giải quyết các xung đột trong dòng tộc bằng tình cảm và
thường đóng vai trò là chức sắc trong làng. Có một số làng được phân chia theo
địa vực thành từng xóm nhỏ như: Xóm Đông, xóm Đoài, xóm trên, xóm
dưới….thường thì các gia đình tự bảo vệ, cai quản cho nhau “bán anh em xa,
mua láng giềng gần”, “hàng xóm, láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau”. Hoặc quản
lý theo giáp (chỉ ở nam giới) theo lứa tuối. Làng Việt có một lối tổ chức quản lý
khá chặt chẽ ban đầu chỉ là sự liên kết giữ các thành viên trong dòng tộc, sau đó
là sự hợp sức đối phó với thiên nhiên như đắp đê chống lũ, đào kênh mương dẫn
nước và tập hợp trai tráng xung lính hoặc làm việc làng xóm.Dân trong làng
được chia làm hai loại chính: dân chính cư và dân ngụ cư. Dân chính cư (dân nội
tịch) là những đinh nam được ghi tên trong sổ của làng, có quyền và nghĩa vụ
với làng, với nước, được chia ruộng công, được dự hội làng, được tham gia các
công việc của làng và được xung lính khi đến tuổi.


16

Tính cộng đồng đóng một vai trò lớn trong đời sống sinh hoạt của
người dân trong làng. Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất, trong đó
cùng họ là đồng tộc, cùng tuổi là đồng niên, cùng nghề là đồng nghiệp, cùng
quê là đồng hương. Do sự đồng nhất giống nhau - “cùng hội cùng thuyền”,

cùng cảnh ngộ cho nên người ta luôn sẵn sàng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau,
coi mọi người trong cộng đồng như anh em, chị em trong nhà “tay đứt ruột
xót”, “chị ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách” và như vậy làm cho các quan
hệ, tình cảm của các thành viên trong làng thêm gắn bó. Tính đồng nhất tạo
nên tính tập thể rất cao, mọi người trong cộng đồng đều gắn bó với tập thể,
hoà đồng cùng cuộc sống chung của tập thể. Sự đồng nhất cũng chính là ngọn
nguồn của nếp sống dân chủ, bình đẳng bộc lộ trong các nguyên tắc tổ chức
nông thôn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp, theo tuổi...
Tính cộng đồng đem lại cho mỗi cá nhân và cho cả làng nguồn sức
mạnh to lớn để cố kết cộng đồng thành một khối thống nhất, cùng “chung
lưng, đấu cật” trong phòng chống thiên tai, địch họa, trong lao động sản xuất,
chiến đấu bảo vệ thành lũy của làng. Tuy nhiên, tính cộng đồng ở Làng Việt
Bắc bộ cũng có tính hạn chế nhất định.
Nhược điểm thứ nhất, vì quá đề cao tính tập thể nên thủ tiêu vai trò của
cá nhân. Người Việt thường ít xưng tôi, luôn hoà tan vào các mối quan hệ xã
hội, với người này là em, người kia là cháu, với người khác nữa là chị, là anh.
Cách giải quyết xung đột theo lối hoà cả làng là hết sức phổ biến. Điều này có
sự khác biệt với truyền thống văn hoá phương Tây, nơi con người được rèn
luyện ý thức đề cao ý thức cá nhân ngay từ khi còn nhỏ.
Nhược điểm thứ hai, tính cộng đồng dẫn đến thói quen dựa dẫm, ỷ lại vào
tập thể “cha chung không ai khóc”, “nước trôi thì bèo trôi, nước nổi thì thuyền
nổi”. Cùng với thói dựa dẫm, ỷ lại là tư tưởng cầu an (an phận thủ thưởng) và cả
nể, làm gì cũng sợ “rút dây động rừng”, nên việc gì cũng thường chủ trương
đóng cửa bảo nhau, ngại tranh đấu, “trung bình chủ nghĩa”...


17

Nhược điểm thứ ba, tính cộng đồng thường dẫn đến thói cào bằng, đố kỵ,
không muốn ai hơn mình “xấu đều còn hơn tốt lỏi”, “khôn độc không bằng ngốc

đàn”. Cái tốt, nhưng là cái tốt riêng lẻ sẽ trở thành cái xấu, ngược lại cái xấu
nhưng là cái xấu tập thể thì trở thành bình thường, “Toét mắt là tại hướng đình.
Cả làng cùng toét riêng mình em đâu !”, để cho tất cả đều như nhau.
Nhược điểm thứ tư, khi đứng trước khó khăn lớn, nguy cơ đe doạ sự sống
còn của cả cộng đồng làng thì tính cộng đồng được biểu hiện nổi bật ở tinh thần
đoàn kết, tính tập thể. Nhưng khi nguy cơ, khó khăn qua rồi thì có thể xuất hiện
thói tư hữu, óc bè phái cục bộ địa phương.
2.2. Những biểu hiện tập trung của tính cộng đồng Làng Việt Bắc bộ
Khi nghiên cứu tính cộng đồng của Làng Việt Bắc bộ với những biểu
hiện đặc trưng của nó nằm trong những thiết chế xã hội (thiết chế nông thôn).
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử cùng với sự phát triển của tiến trình văn hóa
làng xã Việt Nam, dễ nhận thấy tính cộng đồng Làng Việt Bắc bộ như sau:
Một là, tính cộng đồng ở tổ chức nông thôn theo huyết thống: gia đình gia tộc
Những người cùng quan hệ huyết thống gắn bó mật thiết với nhau
thành đơn vị cơ sở là gia đình và đơn vị cấu thành là gia độc (dòng họ). Đối
với văn hóa làng xã Việt Nam nói chung, văn hóa Làng Việt Bắc bộ nói riêng
gia đình chiếm vị trí, vai trò quan trọng hơn rất nhiều so với các kiểu tổ chức
giai đình phương Tây. Với nền văn hoá nông nghiệp điển hình gia đình hạt
nhân không đủ đối phó với môi trường tự nhiên, xã hội nên vai trò của gia
tộc, cộng đồng làng xã rất quan trọng. Các khái niệm “cửu tối” trưởng họ, từ
đường, gia phả, giỗ họ, mừng thọ… đều liên quan đến gia tộc, đây hoàn toàn
không phải gia đình.
Gia tộc của cư dân Làng Việt Bắc bộ từ lâu không còn là đơn vị kinh tế
hay “một đại gia đình phụ quyền” sống chung một mái nhà, khu đất trồng trọt
chung, thuộc quyền sở hữu chung, mà nó đã phân giải thành vô vàn các giai


18

đình nhỏ với mỗi bộ phận kinh tế riêng. Các cá nhân trong họ thường là chỗ

dựa về tâm lí, tinh thần của nhau, hỗ trợ nhau những việc đại sự như: ma
chay, giỗ kỵ, cưới xin… Về mặt vật chất: “xảy cha còn chú, xảy mẹ bú dì”, về
mặt tinh thần: “nó lú nhưng chú nó khôn”, về mặt chính trị - xã hội : “Một
người làm quan cả họ được nhờ”.
Một hình thức vừa liên kết theo dòng họ, vừa mang tính liên kết theo
địa vị là Giáp. Giáp là tổ chức gồm các đinh của một dòng họ, liên kết với
nhau thành một tập thể tương đối bền vững. Thường trong một làng chia làm
nhiều giáp, thậm chí 1 giáp trong quá trình phát triển cũng có thể độc lập trở
thành một làng. Những liên kết ràng buộc này tạo nên sự cố kết rất bền chặt.
Như vậy, quan hệ huyết thống là quan hệ theo hàng dọc, theo thời gian,
là cơ sở của tính tôn ty. Người sinh ra trước ở bậc trên, người sinh ra sau bậc
dưới… Về nguyên tắc lối liên kết theo huyết thống này không có gì đặc biệt,
nhưng cái đặc biệt không nằm ở đơn vị liên kết mà nằm ở mức độ liên kết,
phân biệt rành mạch 9 thế hệ là 1 điều khác nhiều dân tộc khác, bao gồm: kỵ,
cụ, ông, cha, tôi, con, cháu, chắt, chút. Sự cố kết theo thuyết thống tạo nên
một tình cảm dòng họ. “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, nhiều khi đã trở
thành một phương thức điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân. Ở làng xã, khi
nói tới cá nhân, người ta thường liên hệ người ấy với cả dòng họ và truyền
thống của dòng họ ấy. Chẳng hạn: dòng họ này của truyền thống học hành
khoa cử, dòng họ kia có danh tiếng về đường làm quan, thì có dòng họ lại tài
giỏi về một nghề nghiệp nào đó. Truyền thống tốt đẹp của dòng họ trở thành
một động lực thôi thúc cá nhân thường xuyên phấn đấu vươn tới mục tiêu tốt
đẹp hơn để tiếp nối thanh danh của dòng họ mình, cũng từ đây từ tình cảm
dòng họ, tình cảm làng xã, tình cảm quê hương cũng được phát triển theo.
Tuy nhiên, tình cảm dòng họ có nảy sinh tính chất hẹp hòi, cục bộ trong
sự nhìn nhận, trong cách ứng xử thiên lệch theo chủ nghĩa gia đình giữa người
trong họ và người ngoài họ. Nhiều họ ganh ghét đố kỵ dẫn đến xung đột, từ
một nguyên nhân nhỏ có thể dẫn đến hiềm khích dai dẳng.



19

Hai là, tính cộng đồng ở tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú: xóm làng
Việc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú chính là bước thứ hai trong
lịch sử phát triển của Làng Việt Bắc bộ. Những người sống gần nhau có xu
hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Khi công xã thị tộc tan rã, chuyển thành công
xã nông thôn thì các thành viên trong làng không chỉ gắn bó với nhau bằng quan
hệ máu mủ mà còn bằng quan hệ sản xuất, hình thành nên mối quan hệ theo địa
vực. Thiết chế thể hiện mối liên kết rõ nét nhất là ngõ, xóm, làng.
Để ứng phó môi trường tự nhiên, nhu cầu của nghề truyền thống lúa nước
mang tính thời vụ, con người ở đây không chỉ liên kết chặt chẽ với nhau nhằm
chống lại thiên tai, địch họa, bảo vệ sản xuất…mà còn để ứng phó với môi
trường xã hội (nạn trộm cướp…). Các gia đình trong xóm có quan hệ với nhau
trên tinh thần: “tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán anh em xa, mua láng riềng gần”…
Mỗi khi cá nhân, gia đình trong làng có công to việc lớn gì thì các gia đình khác
đều phải có trách nhiệm tham gia giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần.
Như vậy, cách tổ chức nông thôn theo địa vực dựa trên quan hệ hàng
ngang, theo không gian. Nó là nguồn gốc của tính dân chủ bởi lẽ, muốn giúp
đỡ nhau, quan hệ lâu dài với nhau phải tôn trọng bình đẳng. Tuy nhiên tính
dân chủ kéo theo thói dựa dẫm, ỷ lại, đố kỵ, cào bằng.
2.3. Tổ chức nông thôn theo sở thích, phường, hội
Trong làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp, tuy nhiên nhiều
làng có những bộ phận cư dân sinh sống bằng nghề khác, nhưng người này
liên kết chặt chẽ với nhau khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một tổ chức
những người cùng nghề nghiệp, tạo thành một đơn vị gọi là phường, phường
gốm, phường nề, phường vật, phường mộc…
Bên cạnh các phường, còn có hội : Hội là tổ chức nhằm liên kết người
cùng sở thích, cùng thú vui, cùng đẳng cấp : Hội vật, hội tổ tôm, hội trọi gà,
hội cờ tướng…



20

Phường, Hội rất gần nhau nhưng những phường thì mang tính chất
chuyên môn sâu hơn và bao giờ cũng giới hạn trong quy mô nhỏ (Hiện nay tổ
chức của những người cùng nghề trong một phạm vi lớn gọi là hội : Hội nông
dân Việt Nam…).
Ngoài mục đích về kinh tế (giúp đỡ nhau về tiền, thú bảo vệ, phát triển
làng thủ công…) việc tham gia các thiết chế này còn đem lại cho cá nhân
trong phường, hội sự thoả mãn nhu cầu về tính thần, đó là sự khẳng định, vì
thế bản thân trong quan hệ với những người khác tại cộngđồng, sao cho bất
kỳ người nào dù hèn kém đến mấy thì trong đời mình, ít nhất cũng phải được
người khác tôn trọng một lần. Điều này giúp cá nhân lấy lại thăng bằng và
phát triển một cách ổn định trong những quan hệ rất chằng chịt, hà khắc của
làng người Việt ĐBBB.
Việc tham gia các mối liên kết khác nhau chính là một hình thức phân
chia ngôi thứ, thang bậc xã hội của mỗi cá nhân trong làng, mặc dù không liên
quan trực tiếp tới các hoạt động kinh tế, nhưng việc phân chia ngôi thứ lại trở
thành một vấn đề trung tâm, bao trùm đời sống xã hội, làng xã Việt Nam. Bởi
vì, mỗi thang bậc xã hội thể hiện qua ngôi thứ ở đình không chỉ liên quan đến
quyền lợi của mối người mà còn danh dự, uy tín, vị thế, là cả niềm tự hào của
bản thân và con cháu họ, thậm chí cả gia tộc. Vì vậy, có thể nói, không có một
cá nhân nào trong quá trình sống của mình lại không tham gia vào một liên
kết nào của làng.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, đất nước ta trải qua hàng nghìn
năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm gìn giữ và bảo vệ đất nước là nhờ một
phần vào sức mạnh cộng đồng của dân tộc ta. Tinh thần đoàn kết, yêu thương,
sẵn sàng sẻ chia nhau là truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Tuy nhiên, chính tính cộng đồng đó nó có 2 mặt. Bên cạnh giá trị tích
cực thì nó kéo theo những hạn chế như : chủ nghĩa bình quân, thói cào bằng,

một phương thức quản lí hành chính, tập trung, một tác phong quan liêu,


21

mệnh lệnh, cửa quyền “phép vua thua lệ làng”. Bệnh làm ăn kiểu sản xuất nhỏ
(biểu hiện của nó là nạn hàng giả, hàng rởm, tệ nói thách một cách tùy tiện).
Cung cách làm ăn theo kiểu phường hội, thương nhân liên kết nhau, chèm ép
khách hàng nó khác với cung cách thương nhân phương Tây, cố gằng bằng mọi
cách chiếm lòng tin khách hàng, đồng thời tìm cách loại trừ nhau theo quy luật
cạnh tranh), bệnh gia đình chủ nghĩa, tật xuề xoà đại khái, thói ỷ lại. Một xã hội
muốn được phát triển thì năng lực cá nhân phải được giải phóng, đòi hỏi đó đã
đang gặp phải trở ngại rất lớn là con người của nền văn hoá nông nghiệp bị
ràng buộc vào cộng đồng lớn. Mà hậu quả tệ hại nhất là bệnh đố kị cào bằng
không muốn ai hơn mình. Ngoài ra biện “phép vua thua lệ làng” đã dẫn đến
tình trạng thiếu thông suốt từ trên xuống dưới, từ trung ương xuống địa
phương, thủ trưởng xuống nhân viên, thiếu đồng bộ giữa các bộ phận.
Để xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn, Đảng ta đưa nhiều giải pháp
thích hợp nhằm khơi dậy các giá trị truyền thống, trong đó có tính cộng đồng
của dân tộc ta.
Có thể nói rằng, ở phương Đông, đặc trưng lớn phân biệt với phương
Tây là tính cộng đồng. Vì nếu ở phương Tây, người ta luôn đề cao vai trò của
cá nhân, thì ở phương Đông, người ta đề cao vai trò của tính cộng đồng. Đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay, sự giao lưu văn hoá, hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng được mở rộng đòi hỏi chúng ta phải mở cửa, giao thoa và tiếp nhận
những nền văn hoá của dân tộc khác. Tuy nhiên, để giữ gìn bản sắc của dân
tộc ta, trong quá trình giao thoa, tiếp nhận chúng ta cần phải biết lựa chọn,
chọn lọc những gì phù hợp với điều kiện của nước ta.



22

KẾT LUẬN
Văn hóa làng Việt nói chung và văn hóa làng Việt Bắc bộ nói riêng,
có thể nói là cộng đồng văn hoá rất riêng nhưng cũng rất chung trong khuôn
khổ của lề thói theo phương thức sản xuất châu Á. Cái riêng của từng làng đã
thể hiện tương đối rõ ở những tập tục riêng, lễ hội riêng, cách thức ứng xử
riêng. Nhưng từng cái riêng ấy lại đã làm nên khuôn thước văn hoá làng.
Khuôn thước văn hoá làng, dù hiện diện một cách mờ nhạt hoặc rõ rệt thì
cũng đều là hành trang cho sự tiến bộ của con người Việt Nam hiện đại.
Vấn đề là ở chỗ, trong đời sống xã hội hiện đại, văn hoá làng có vai
trò gì, có ý nghĩa gì? Và nó sẽ kìm hãm hay thúc đẩy sự phát triển của xã hội
hiện đại?
Từ bao đời nay, sức sống của nền văn hoá truyền thống Việt Nam được
lưu giữ và thể hiện mạnh mẽ nhất ở văn hoá làng. Điều đó chứng tỏ văn hoá
làng Việt có những giá trị nhân bản khó có thể phủ nhận, tuy nhiên những giá
trị nhân bản ấy không phải là không đi kèm theo những hạn chế hoặc khiếm
khuyết nhất định cần phải khắc phục để đáp ứng với xu thế hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng hiện nay.
Thực tiễn từ đời sống văn hóa hàng ngày của người Việt trong tiến
trình lịch sử đã chứng minh: sự chung sống với các dạng thức và các loại hình
văn hoá khác không bao giờ là sự hoà hợp hoàn toàn hay là sự ăn nhập hoàn
toàn. Sẽ có những biểu hiện khập khiễng, không ăn nhập hoặc mâu thuẫn với
nhau. Đó là điều bình thường phù hợp với quy luật phát triển văn hoá. Và cái
đáng nói ở chỗ, trong văn hoá, bao giờ cũng vậy, sẽ luôn có sự bổ sung cho
nhau, hỗ trợ cho nhau hay làm phong phú thêm cho nhau. Đây mới là nét chủ
đạo của sự phát triển văn hoá.Với ý nghĩa này, trong tương lai văn hoá làng
Việt chẳng những không bị loại bỏ, không mâu thuẫn mà còn bổ sung, làm
phong phú hơn cho văn hoá hiện đại. Bằng phuơng thức riêng của minh, chắc
chắn văn hoá làng Việt nói chung và văn hóa làng Việt Bắc bộ nói riêng sẽ

theo chúng ta bước vào thế kỷ XXI.


23

Ngày nay, trước xu hướng phát triền và hội nhập với thế giới, làng và
văn hoá làng không thể tránh khỏi quá trình đô thị hoá và hiện đại hoá, quy
luật tất yếu để phát triển, hoà nhập vào nền văn minh chung của nhân loại.
Cuộc thành thị hoá lớn nhất trong lịch sử đang diễn ra với dòng dân di cư về
thành phố để lại sau lưng một “một sự trống vắng văn hoá và một vực thẳm
ngăn cách giàu nghèo cả về kinh tế lẫn văn hoá”. Nhìn nhận một cách khách
quan, cáỉ được của đô thị hoá là ở mặt kinh tế, đời sống người dân được nâng
cao, chất lượng cuộc sống tốt hơn, con người cũng được hiện đại hoá về tư
duy, tri tuệ những làng và văn hoá làng vốn vẫn được thừa nhận là “cái gốc”
của văn hoá dân tộc lại đang mai một dần đi. Phát triển kinh tế là mục tiêu
quan trọng trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, song đánh mất bản
sắc dân tộc là mất tất cả (một sự đánh đổi không tương xứng). Song xét đến
cùng, quy luật của sự sống phải là sự phát triển. Không thể chỉ vì muốn giữ
gìn những giá tri văn hoá truyền thống mà kìm hãm sự phát triển, nhưng cũng
không vì sự phát triển mà đánh mất bản sắc văn hóa cổ truyền dân tộc. Để
dung hoà được hai yếu tố này, đòi hỏi trong công tác lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của chính quyền từ Trung ương đến địa phương, các cơ quan văn hoá
và mỗi người dân Việt Nam yêu nước cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, quan
tâm tìm cách loại bỏ được những tiêu cực còn tồn tại, phát huy được những
“thuần phong mỹ tục”, lựa chọn được những nội dung phù hợp với xã hội
hiện đại tức là chúng ta đã góp phần một cách tích cực vào công cuộc bảo tồn
và chấn hưng văn hoá dân tộc, đồng thời làm cho văn hoá làng thêm những
giá trị và sức sống mới.




×