Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật sự vân DỤNG của CHỦ TỊCH hồ CHÍ MINH và ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM TRONG HOẠC ĐỊNH ĐƯỜNG lối CHIẾN lược CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.97 KB, 32 trang )

1

phép biện chứng duy vật mác xít. Sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạch định đường lối lãnh đạo cách mạng
MỞ ĐẦU

Phép biện chứng duy vật macxít là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và
phương pháp . Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng
đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hướng cho con
người nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Như vậy, phép biện chứng duy vật
mácxít là một khoa học, một trong hai bộ phận cấu thành triết học Mác-Lênin. Là
sản phẩm vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển tư duy triết học nhân loại. Ở đó có sự
kế thừa, phát triển và hoàn thiện những tri thức triết học của nhân loại trong lịch
sử. Vậy phép biện chứng duy vật là gì? Nó ra đời và phát triển như thế nào? Vì
sao giai cấp vô sản và chính Đảng của nó phải coi đó là kim chỉ nam cho mọi
hành động cách mạng của mình. Ăngghen chỉ rõ rằng: “Phép biện chứng chẳng
qua chỉ là môn khoa học về những qui luật phổ biến của sự vận động phát triển
của tự nhiên, xã hội loài người và của tư duy” (1).
Phép biện chứng hình thành từ thời cổ đại, lịch sử ra đời và phát triển của
phép biện chứng từ xưa đến nay, là lịch sử đấu tranh không khoan nhượng của
phép biện chứng duy vật với các quan điểm đối lập với nó từ nhiều phía. Ngày
nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị và xã hội trên
thế giới. Đặc biệt là từ khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Điều
đó đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch vốn đang điên
cuồng chống phá về mọi mặt đối với các nước xã hội chủ nghĩa, nay càng có thêm
thực tiễn để chứng minh cho những luận điểm chống phá của chúng đối với chủ
nghĩa Mác- lênin nói chung và phép biện chứng duy vật mỏcxớt nói riêng. Trong
điều kiện hiện nay, trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật và công
nghệ cùng với nhiều vấn đề của thời đại, đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mới tạo
(1)


Các Mác- Ăngghen: toàn tập, T.20. NxbCTQG, H N,1994,tr.15


2

cho chủ nghĩa duy tâm tôn giáo những mảnh đất màu mỡ để tồn tại và phát triển.
Trước tình hình ấy phép biện chứng duy vật một lần nữa đứng trước những thử
thách mới. Lịch sử không ngừng vận động biến đổi và phát triển. Thế giới đã,
đang và sẽ còn xuất hiện nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh. Đó là sự đòi
hỏi tất yếu khách quan và cấp bách cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung và hoàn
thiện lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung, phép biện chứng duy vật mácxít
nói riêng.
Yêu cầu đặt ra hàng đầu đối với mỗi chỳng ta trong nghiên cứu bộ môn triết
học là phải hiểu được bức tranh toàn cảnh về triết học Mác nói chung và nắm
được nguồn gốc ra đời, tính khoa học và cách mạng của phép biện chứng duy vật
mỏcxit nói riêng. Từ đó giỳp chỳng ta có cơ sở khoa học vững chắc để quán triệt
đúng đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, xõy dựng niềm tin tất
thắng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ
Chí Minh cùng toàn thể dân tộc ta đã lựa chọn. Trong phạm vi bài tiểu luận này
tôi xin phép trình bày một số hiểu biết ban đầu của mình về bản chất khoa học và
cách mạng của phép biện chứng duy vật mácxít. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong việc hoạch định đường lối chiến lược lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.
Phần I: Khái lược lịch sử ra đời và phát triển của phép biện
chứng trước Mác
1.1 Khái lược lịch sử ra đời và phát triển của phép biện chứng.
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết
học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy- biện chứng
và siêu hình. Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong phương
pháp tư duy. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã

thúc đẩy tư duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi
của tư duy biện chứng duy vật.Phép biện chứng duy vật là gì? Trước hết


3

chúng ta cần hiểu phép biện chứng là gì? Theo tiếng Hy Lạp “phép” có
nghĩa là “phương pháp”. Đó là cách thức, hay thủ đoạn nhất định, được
chủ thể hành động để đạt được mục đích đặt ra. Còn theo nghĩa chặt chẽ
về mặt khoa học: “ Phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra
từ tri thức về các quy luật khách quan, để điều chỉnh hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục đích nhất định” 2. Chúng ta
cũng cần phân biệt sự khác nhau giữa “phương pháp” với “phương pháp
luận”. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là khoa học về
phương pháp, hay nói một cách cụ thể hơn “Phương pháp luận là hệ
thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ đạo trong
việc xác định phương pháp cũng như trong việc xác định phạm vi, khả năng
áp dụng chúng một cách hợp lý mang lại hiệu quả tối đa” 3. Vì vậy, giữa
phương pháp với phương pháp luận có sự thống nhất và khác nhau. Chúng
thống nhất với nhau là bởi, phương pháp luận là cơ sở nghiên cứu của
phương pháp cụ thể, còn phương pháp cụ thể phải xuất phát từ quan điểm,
nguyên tắc của phương pháp luận. Còn giữa chúng có sự khác nhau là:
phương pháp thì bao gồm cả lý luận và thực tiễn. Còn phương pháp luận
chỉ có lý luận thuần tuý.
Lịch sử ra đời của phép biện chứng có từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ
V-VI (tr.CN). Mặc dù ở buổi bình minh của lịch sử triết học, các nhà triết
học chưa hiểu được phép biện chứng là gì, phép biện chứng chưa trở
thành một hệ thống với đầy đủ những nguyên lý, quy luật và các cặp phạm
trù cơ bản. Những tư tưởng biện chứng mộc mạc ấy, khi thì xuất hiện trên
những trang sách của các nhà triết phương Tây như Hy Lạp hay La Mã cổ

đại, khi thì lại ở trong các bài thuyết giáo của các nhà triết học phương
Đông như Ấn Độ hoặc Trung Quốc cổ đại.
2
3

Triết học. Nxb CTQG, Hà Nội,1997, T3, Tr.29.
Triết học. Nxb CTQG, Hà Nội,1997, T3, Tr.32.


4

Phép biện chứng trong triết học Phương Đông đã có từ rất sớm,
thậm chí ở thời điểm triết học phương Đông như “ Trăm hoa đua sắc” ,
thì phương Tây chưa có bút tích triết học nào. Một trong những trung tâm
lớn của triết học phương Đông là Ấn Độ cổ đại. Tư tưởng triết học Ấn Độ
cổ đại hình thành từ khoảng cuối thiên niên kỉ thứ II đầu thiên niên kỉ thứ
I ( tr.CN). Nhưng phép biện chứng trong triết học Ấn Độ cổ đại, chỉ đến
thời kì Phật Giáo khoảng thế kỉ VI (tr.CN) mới hình thành rõ nét hơn cả.
Đạo Phật quan niệm, mọi sự vật hiện tượng đều tuân theo một quy luật “
Sinh- trụ- dị-diệt” hay “ vô thường, vô ngã”. Theo quan niệm của đạo Phật
cho rằng hai thành phần tạo nên ngũ uẩn, do nhân duyên hợp thành. Mỗi
con người cụ thể có danh sắc. Duyên hợp thành ngũ uẩn thì là ta. Duyên
tan ngũ uẩn thì không còn là ta, là diệt, nhưng không phải là mất đi mà
trở lại với ngũ uẩn. Ngay các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn biến hoá theo
quy luật nhân quả không ngừng. Nên vạn vật, con người cứ biến hoá, vụt
mất vụt còn. Không có sự vật riêng biệt tồn tại mãi mãi. Không có cái tôi
thường định. Cái tôi hôm qua không còn là cái tôi hôm nay. Trong kinh
“Tăng nhất A Hàm” viết: “Pháp pháp tự sinh, Pháp pháp tự diệt, pháp
pháp tự động, pháp pháp tự nghĩ... pháp có thể sinh ra pháp.. Như thế hết
thảy cái đó đều về cái không : không ta, không người, không mệnh, không sĩ,

không phu, không hình, không tưởng, không nam, không nữ” 4. Như vậy,
ngay từ buổi bình minh của triết học nhân loại, phép biện chứng trong triết
học Phật Giáo đã thấy được rằng, mọi sự vật hiện tượng luôn tồn tại, vận
động và biến đổi không ngừng. Không có cái gì là tồn tại bất biến.
Một trung tâm triết học cổ đại thứ hai của phương Đông là Trung
Quốc. Trong thuyết “Ngũ hành” của người Trung Quốc thời cổ đại, đã
giải thích rằng: mọi sự vật hiện tượng được hình thành và biến đổi là do
4

Triết học: NxbCTQG, Hà Noọi, 1997, T1,tr.54.N


5

sự tương tác của năm yếu tố: Kim- mộc- thuỷ- hoả-thổ biến hoá mà ra.
Đây là năm yếu tố cơ bản đầu tiên của vũ trụ, những tính năng của năm
thứ vật chất ấy quy định tính chất, chủng loại, nguồn gốc của vạn vật trong
giới tự nhiên. Các yếu tố trong ngũ hành cũng không tồn tại tĩnh. Chúng là
những yếu tố hoạt luôn liên hệ, thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau, nên gọi là
năm tác nhân. “Ngũ hành tương sinh” là quá trình các yếu tố tác động,
chuyển hóa lãn nhau, tạo ra sự biến chuyển liên hoàn trong vũ trụ, vạn vật.
Còn “Ngũ hành tương khác” là quá trình các yếu tố trong ngũ hành có sự
đối lập, ràng buộc, chế ước lẫn nhau. Những người theo thuyết này đã cố
gắng vận dụng trình tự sự thay đổi bíên hoá của năm yếu tố trên để giải
thích tính tất yếu khách quan trong mỗi giai đoạn tồn tại, vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng trong vũ trụ. Đó là quan điểm có khuynh
hướng máy móc, kinh nghiệm chủ nghĩa. Song những quan điểm ấy cũng
có tác dụng tích cực chống lại thuyết định mệnh lúc bấy giờ.
Trong học thuyết “Âm dương” các nhà triết học Trung Quốc cổ đại
đã biết được rằng, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của mọi sự

vật hiện tượng được tạo ra bởi sự tương tác của hai thế lực “âm” với
“dương”. Các nhà triết học đó cho rằng “âm” với “dương” là hai yếu tố
cùng đồng đẳng với nhau, vừa đối lập nhau, chúng luôn chế ước, tác động
lẫn nhau trong một thái cực. Chính từ sự đối lập, liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau ấy đã tạo ra các yếu tố cơ bản của vạn vật. Như vậy theo thuyết
Âm Dương, quy luật phổ biến và tất yếu khách quan chi phối sự biến đổi
mọi lĩnh vực trong tự nhiên và xã hội là do sự tác động của hai thế lực vật
chất cơ bản trong thái cực đó là “ âm” với “ dương”. Nhưng tuỳ sự hấp
thụ khí “âm” hay khí “dương” ít hay nhiều, tăng hay giảm mà sự vật hiện
tượng có những đặc tính muôn hình, vạn trạng. Từ đó họ cho rằng, thế
giới vận động vĩnh viễn và quan niệm mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn


6

biến hóa, phát triển theo chiều hướng mới và theo một quy luật nhất định.
Họ phủ nhận quan niệm siêu hình coi sự vật hiện tượng cũ là vĩnh viễn
không thay đổi. Vì vậy trong học thuyết của họ đã chứa đựng nhiều yếu tố
biện chứng về tự nhiên. Tuy nhiên, họ vẫn hiểu quá trình vận động chung
thế giới là quá trình tuần hoàn chung mà thôi, luật biến hoá cơ bản của sự
vật “ngày càng mới” và sự biến đôỉ chỉ là một giai đoạn trong quá trình
tuần hoàn chung. Hơn nữa, phép biện chứng trong học thuyết Âm Dương
vẫn còn chứa đựng nhiều yếu tố duy tâm, thần bí về mặt xã hội.
Nghiên cứu triết học Trung Quốc cổ đại, chúng ta có thể thấy được
những quan niệm rất biện chứng trong triết học của Lão Tử (khoảng thế kỉ
VI tr.CN). Từ sự quan sát sự vận động biến đổi của vạn vật trong vũ trụ,
Lão Tử cố gắng tìm ra quy luật khách quan của sự vận động biến hoá của
vạn vật. Theo Lão tử, toàn bộ vạn vật trong vũ trụ bị tri phối bởi hai quy
luật phổ biến là quy luật bình quân và quy luật phản phục. Luật bình quân
giữ cho vận động được thăng bằng, không có cái gì thái quá, không có cái

gì thiên lệch hay bất cập. “Cái gì khuyết thì ắt được tròn, cái gì cong sẽ
được thẳng, cái gì cũ thì lại mới, cái gì ít sẽ được, nhiều sẽ mất” 5.
Ngược lại theo Lão Tử quá trình vận động, biến đổi của vạn vật còn tuân
theo luật phản phục nghĩa là trở lại với đạo tự nhiên. Tuân theo quy luật
phản phục nghĩa là vạn vật biến hoá nối tiếp nhau theo một vòng tuần hoàn
đều đặn, nhịp nhàng, bất tận như bốn mùa xuân- hạ- thu- đông. Đó là cái
gì phát triển đến tột đỉnh thì sẽ trở thành cái đối lập với nó. Lão Tử cho
rằng, bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng đều là thể thống nhất của hai mặt
đối lập, vừa xung khắc lại vừa dựa vào nhau và liên hệ, ràng buộc, bao
hàm lẫn nhau. Những yếu tố biện chứng trong triết học Lão Tử biểu hiện
năng lực quan sát tinh vi và trình độ tư duy sâu sắc của ông, đối với sự
5

Theo tài liệu Triết học: NxbCTQG, Nà Nội,1997,T1, tr54.


7

vận động và phát triển của thế giới khách quan. Tuy nhiên ở Lão Tử, sự
vận động của vạn vật không theo khuynh hướng phát triển và ta không thấy
sự ra đời của cái mới, mà chúng ta ch ỉ có thể thấy được một dòng tuần
hoàn theo quy luật “phản phục” mà thôi. Chính vì thế phép biện chứng của
ông mất đi sinh khí của học thuyết. Quy luật “ phản phục” vẫn dừng lại ở
tính chất máy móc, lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ.
Trường phái triết học Pháp Gia, do Hàn Phi T ử ( khoảng 280-233
tr.CN) đề xướng. Kế thừa và phát huy quan điểm biện chứng về tự nhiên
của Lão Tử, trong phép biện chứng của Hàn Phi Tử đã lý giải sự vận động
phát triển của vạn vật theo quy luật khách quan. Ông cho rằng mọi sự vật
hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển. Vận dụng quan điểm ấy vào
lĩnh vực tự nhiên, ông cho rằng: tự nhiên không có ý chí, ý muốn chủ quan

của con người cũng không sửa đổi được quy luật của tự nhiên. Về lĩnh
vực lịch sử, ông cho rằng: lịch sử xã hội loài người luôn luôn biến đổi, từ
trước đến nay không có một xã hội nào tồn tại vĩnh viễn. Ông còn chỉ ra
được nguyên nhân của sự biến đổi lịch sử là do dân số và của cải trong xã
hội ít hay nhiều... Từ những tư tưởng khái quát trên cho thấy Hàn Phi Tử
là một nhà triết học vô thần nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại, với việc cố
gắng lý giải nguyên nhân biến đổi bên trong của đời sống xã hội. Phát hiện
đó đã là một bước tiến dài trong lịch sử triết học lúc bấy giờ. Những quan
niệm của ông về tự nhiên và xã hội thể hiện rõ tư tưởng biện chứng tự
phát. Tuy nhiên, hạn chế của ông là chưa thấy được động lực thực sự của
lịch sử.
Khái quát lại phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đaị.
Chúng ta thấy được quan niệm biện chứng của triết học Trung Quốc có từ
rất sớm, nội dung của phép biện chứng đề cập cả lĩnh vực tự nhiên và xã
hội. Hầu hết các triết gia Trung Quốc cổ đại đã tìm cách trả lời cho câu


8

hỏi thế giới là gì? Cái gì là nguồn gốc bản nguyên của vạn vật và mối
quan hệ giữa vạn vật trong vũ trụ v. v. Song do hạn chế của trình độ hoạt
động thực tiễn và trình độ nhận thức, các triết gia Trung Quốc khi giải
thích thế giới chủ yếu dựa vào những kinh nghiệm có tính trực quan, cảm
tính, được rút ra từ kinh nghiệm của đời sống. Họ mới chỉ vẽ lên những
nét chung, bề ngoài của hiện thực sinh động mà thôi.
Tìm hiểu phộp biện chứng trong triết học phương Tây, điển hình là
triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại chúng ta thấy rằng, những quan điểm và
tư tưởng biện chứng đã chiếm một vị trí đáng kể. Đây là giai đoạn đầu
tiên trong lịch sử nhận thức, mang tính biện chứng về sự vận động, phát
triển của hiện thực. Chúng ta có thể nhận thấy ở Talét, Anaximăngđrơ hay

Anaximen... chưa thấy có những quan niệm biện chứng rõ ràng. Song ở
Anaxago, Hêraclít hay Pácmênít hoặc Dênông... quan niệm biện chứng của
các ông đã bắt đầu xuất hiện. Người có công đầu tiên khởi xướng những
tư tưởng biện chứng của triết học Hy Lạp, LaMã cổ đại là Dênông
(khoảng thế kỷ V tr.CN), khi ông quan niệm: vận động là một quá trình
thống nhất biện chứng giữa vận động và đứng im. Tư tưởng này, chúng ta
còn bắt gặp trong tác phẩm “chống ĐuyRinh” khi Ăngghen cho rằng vận
động cơ học cũng là một quá trình chứa đựng những mâu thuẫn, sự vật
trong cùng một thời điểm vừa vận động lại vừa đứng im, vừa ở vị trí này
lại đồng thời lại vừa không ở vị trí đó. Hay Anaxago( khoảng 500- 428
tr.CN) đã quan niệm sơ khai về mối quan hệ biện chứng mang tính phổ
biến của mọi sự vật hiện tượng rằng: “ mọi cái được trộn lẫn trong mọi
cái”6 , vì mỗi sự vật đều chứa trong mình các hạt giống của các sự vật
khác, nhưng những tính chất của nó bị quy định bởi các đặc tính của
những hạt giống mà nó có. Vì thế, sự biến hoá về tính chất của các sự vật
6

Arixtốt. Siêu hình học, các tác phẩm, NxbTư tưởng, Mát xcơva. 1976, T1, tr.134.


9

là do sự thay thế phần lớn trong nó các hạt giống của các sự vật. Song hạn
chế của ông là đã không thấy được sự thay đổi về lượng, đến một lúc nào
đó sẽ diễn ra sự thay đổi về chất, ông mới nhìn thấy sự thay đổi ấy là do
lực tác động bên ngoài mà chưa thấy được lực tác động bên trong. ở
Hêraclít và Arixtốt thế giới quan triết học của họ đã chứa đựng những yếu
tố biện chứng duy vật rõ ràng hơn. Như Ăngghen đã chỉ rõ: “ Những nhà
triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát bẩm sinh và
Arixtốt là bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên

cứu những hình thức cơ bản của tư duy biện chứng” 7. Theo quan niệm của
Arixtốt thì tự nhiên là toàn bộ sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận
động và biến đổi, không có bản chất của sự vật tồn tại bên ngoài sự vật,
hơn nữa sự vật nào cũng là một hệ thống và có quan hệ với các sự vật
khác. Ông cũng cho rằng, vận động gắn liền với vật thể, với mọi sự vật,
hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định, vận động là không thể
bị tiêu diệt. Theo nhận xét của Ăngghen thì các nhà triết học Hy Lạp và La
Mã cổ đại, dù cho họ chưa hiểu phép biện chứng là gì, song trong chiều
sâu của tư duy của các nhà triết học ấy đã biết liên kết các sự vật hiện
tượng trong giới tự nhiên trong mối liên hệ ràng buộc, tác động qua lại lẫn
nhau trong sự tồn tại, vận động và phát triển của chúng. Ăngghen không chỉ
nhận xét đơn thuần, mà còn minh chứng hùng hồn cho lời nhận xét của
mình, bằng việc lấy Hêraclít làm điển hình cho phép biện chứng tự phát,
bẩm sinh đó đã từng nói rằng: “Mọi vật đều tồn tại và đồng thời không tồn
tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều
không ngừng phát sinh và tiêu vong”8. Chúng ta đã từng nghe lại câu nói nổi
tiếng của Hêraclít khi diễn tả sự tồn tại, vận động và phát triển của các sự
vật hiện tượng rằng: không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông. Qua
7
8

C. Mác - Ănghen. toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1994, T20, tr34.
C. Mác - Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1994, T20, tr35.


10

câu nói nổi tiếng của Hêraclít, Ăngghen đã nhận xét rằng: “ Cái thế giới
quan ban đầu mặc dù còn ngây thơ nhưng xét về thực chất thì đúng”9.Như
vậy, Ăngghen đã chỉ cho chúng ta thấy rằng, các nhà triết học Hy Lạp cổ

đại mặc dù phép biện chứng của họ là tự phát bẩm sinh, song ở các nhà
triết học cổ xưa ấy trong tư duy của họ đã thấy được một hình ảnh về bức
tranh của tự nhiên, với muôn vàn những đường liên hệ chằng chịt gữa
chúng, tuyệt đối không có cái gì là đứng im, không có cái gì là bất biến.
Ngược lại mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động và biến đổi không
ngừng. Nhận xét về triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại, Ăngghen chỉ cho
chúng ta thấy được ưu điểm của phép biện chứng tự phát của họ là: “ Xét
về thực chất thì đúng”. Song hạn chế của ông là ở chỗ, ông không lí giải
được nguyên nhân vì sao mà không ai có th ể tắm hai lần trên cùng một
dòng sông, tức là ông chưa thấy được sự chuyển hoá qua lại của các sự
vật hiện tượng trong mối quan hệ của chúng. Vì vậy, các nhà triết học duy
vật biện chứng sau này đánh giá triết học của Hêraclít là “ triết học tối
tăm”, song nhờ những phát kiến thiên tài của ông mà các nhà triết học sau
tiếp tục kế thừa và phát triển phép biện chứng duy vật lên những nấc
thang mới cao hơn.
Nghiên cứu khái quát phép biện chứng trong triết học Đông Tây thời
kỳ cổ đại, chúng ta nhận thấy rằng, mặc dù phép biện chứng thời cổ đại
chưa phát triển thành hệ thống, thành những nguyên lý, quy luật cơ bản.
Song ngay từ thời cổ đại, trong tư duy của các nhà biện chứng ấy đã cơ
bản phản ánh đúng bức tranh hiện thực của thế giới khách quan. Trong bức
tranh sinh động ấy, mọi sự vật hiện tượng luôn tồn tại trong sự tác động
ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Song những tư tưởng biện
chứng sơ khai ấy, mới chỉ dừng lại ở sự phỏng đoán trực quan cảm tính
9

C. Mác - Ăngghen . Toàn tập, Nxb CTQG, NN, 1994, T20, tr35.


11


về thế giới khách quan. Những sản phẩm của tư duy biện chứng ấy chưa
phải là kết quả của sự suy luận dựa trên những thành tựu khoa học, do vậy
mà các nhà triết học sau này gọi đó là phép biện chứng tự phát, ngây thơ.
1.2 Lịch sử ra đời và phát triển của phép biện chứng siêu hình
Nghiên cứu lịch sử ra đời của phép biện chứng duy vật, chúng ta không
thể không đề cập đến sự ra đời của phép siêu hình trong tiến trình hình thành
và phát triển của bộ môn triết học.Cũng như lịch sử ra đời của phép biện
chứng, phép siêu hình ra đời từ rất sớm.Thuật ngữ “siêu hình” có gốc từ tiếng
Hy lạp là metaphysica, với nghĩa là “những gì sau vật lý học”. Theo Arixtốt
( 384-322 tr. CN), “ những gì sau vật lý học” là những hiện tượng “siêu vật
lý” thuộc về tinh thần, ý thức, là bản chất của sự vật, hiện tượng mà Arixtốt
gọi là “ vô hình” hay “ siêu hình”. Về sau, tài liệu triết học thường dùng theo
ý này và gọi là “ siêu hình học”. Nhưng đến thế kỉ XVII, với sự phát triển
vượt bậc của khoa học tự nhiên cùng với những ứng dụng thành tựu của khoa
học tự nhiên đi sâu vào phân tích, chia nhỏ giới tự nhiên ra thành bộ phận
riêng biệt, cố định để nghiên cứu.Trên cơ sở đó Bê-cơn và Lốc- cơ tạo ra
phương pháp tư duy siêu hình trong lĩnh vực triết học một cách khá phổ biến.
Đặc trưng của phép siêu hình như Ăngghen từng chỉ ra: “ Xem xét các sự vật
tự nhiên và các quá trình tự nhiên trong trạng thái biệt lập của chúng, ở bên
ngoài mối liên hệ chung và do đó không xem xét chúng trong trạng thái vận
động, mà xem xét chúng trong trạng thái tĩnh, không coi chúng về cơ bản là
biến đổi , mà coi chúng là vĩnh viễn không thay đổi, không xem xét chúng
trong trạng thái sống, mà xem xét chúng trong trạng thái chết”10. Đối với các
nhà triết học siêu hình, khi giải thích thế giới họ đã không nhận thấy tính đa
dạng, phức tạp của các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới
hiện thực. Họ cho rằng, sự vật hoặc là tồn tại, hoặc là không tồn tại. Một sự
10

C.Mác - Ăngghen, toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, HN,1994, Tr36.



12

vật không thể vừa là nó, lại vừa không thể là nó. Do vậy các nhà triết học siêu
hình không thể nhìn thấy sự tác động qua lại, mối liên hệ phổ biến, và sự
chuyển hoá lẫn nhau của sự vật, hiện tượng. Họ chỉ nhìn thấy sự hiện diện của
sự vật hiện tượng, còn quá trình vận động, phát triển và tiêu vong của chúng
thì tuyệt nhiên họ không nhận thấy được. Song đánh gớa một cách khách
quan, phép siêu hình cũng đã để lại những kết quả tích cực trong lịch sử triết
học. Đó là sự phát triển của tư duy phù hợp với giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ,
tương ứng với trình độ khoa học đương thời, đó là điều không tránh khỏi.
Như Ăngghen đã viết: “...tất cả những cái đó là điều kiện cơ bản cho những
tiến bộ khổng lồ, mà bốn trăm năm gần đây đã đem lại cho chúng ta trong
lĩnh vực nhận thức giới tự nhiên.”(11). Song đối với những nhà siêu hình khi
phải lí giải bức tranh tổng quát của tự nhiên thì phép siêu hình của họ đã bộc
lộ những hạn chế không thể khắc phục được. Do đó phép siêu hình buộc phải
nhường chỗ cho một phương pháp tư duy khác lên ngôi.
1.3 Lịch sử ra đời và phát triển của phép biện chứng duy tâm.
Quá trình hình thành và phát triển của phép biện chứng duy vật đã trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau. Thực tiễn lịch sử cùng với nhận thức luận
khác nhau của mỗi thời kỳ đã tác động không nhỏ vào cuộc đấu tranh tư
tưởng diễn ra trong lịch sử phát triển của nhân loại. Trong cuộc đấu tranh để
giải thích thế giới ấy, phép biện chứng duy tâm xuất hiện. Phép biện chứng
duy tâm xuất hiện từ sớm trong lịch sử song nó chỉ phát triển mạnh mẽ trong
triết học cổ điển Đức cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỷ XIX. Hêghen (1770- 1831)
là một điển hình trong phương pháp tư duy ấy. Nếu như trước đây, phép biện
chứng chỉ tồn tại ở những quan điểm, những tư tưởng rời rạc không hệ thống,
thì đến Hêghen phép biện chứng đã được hệ thống lại và được trình bày thành
hệ thống những nguyên lý, quy luật và những cặp phạm trù cơ bản. Hêghen
(11)


C. Mác -Ăngghen, toàn tập, tập 20, NxbCTQG, HN,1994, tr.36.


13

coi phép biện chứng không chỉ là một nghệ thuật tranh luận mà cho nó là một
quan điểm nhất định về thế giới. Ghi nhận những công lao to lớn của Hêghen
trong việc góp phần làm cho phép biện chứng phát triển từ tự phát lên trình độ
tự giỏc, Ăngghen viết: “...lần đầu tiên và đây là công lao to lớn của ông, toàn
bộ giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần được trình bày như là một quá trình,
nghĩa là luôn vận động và biến đổi, biến hoá và phát triển. Và Ông đã cố
vạch ra mối liên hệ nội tại của sự vận động và phát triển ấy” (12). Do tác động
của thực tiễn lịch sử nhà nước Phổ lúc bấy giờ, đặc biệt Hêghen là môt nhà
triết học duy tâm, nên hệ thống triết học mà ông trình bày đã rơi vào hạn chế
đáng tiếc. Ông thừa nhận sự vận động phát triển không ngừng của các khái
niệm thì ông lại cho rằng lịch sử xã hội kết thúc ở chế độ quân chủ, nhà nước
Phổ, lịch sử không thể đi xa hơn được nữa và hệ thống triết học của ông là
tuyệt đỉnh. Đề cập đến những hạn chế của Hêghen, Ăngghen viết: phép biện
chứng của Hêghen là phép biện chứng đi bằng đầu hay phép biện chứng lộn
ngược, vì vậy hệ thống của ông mọi thứ đã bị đảo lộn. Khi phân tích những
hạn chế trong phép phép biện chứng ấy, Ănghen đã chỉ ra nguyên nhân của
những hạn chế đó là: “ Một là bởi những giới hạn không thể tránh được của
những tri thức của bản thân Ông, hai là bởi những tri thức và quan niệm của
thời đại ông... ba nữa Hêghen là một nhà duy tâm”

(13)

. Do vậy cần phải dựng


ngược nó lại để thấy hết giá trị đích thực của nó. Sứ mệnh lịch sử đó được
Mác và Ăngghen thực hiện thành công trong hệ thống triết học của mình.
Phần II: Bản chất khoa học và cách mạng của phép biện chứng duy
vật Mácxít.
Khái quát lịch sử ra đời và phát triển của phép biện chứng, chúng ta
thấy rằng những tư tưởng của phép biện chứng xuất hiện ngay từ buổi bình
minh của lịch sử triết học. Ở buổi ban đầu ấy, nó còn mang tính chất thô sơ,
(12)
(13)

C. Mác- Ăngghen, toàn tập, tập 20, NxbCTQG, HN,1994, tr.40.
C. Mác- Ăngghen, toàn tập, tập 20, NxbCTQG,HN,1994, tr. 40.


14

tự phát. Mặc dù “xét về mặt thực chất thì đúng” nhưng nó không phải là
những kết luận mang tính khoa học. Còn đối với phép siêu hình, mặc dù cũng
đã để lại những kết quả tích cực trong lịch sử triết học, nhưng khi phải lý giải
bức tranh tổng quát của tự nhiên thì phép siêu hình đã bộc lộ những hạn chế
không thể khắc phục được. Đỉnh cao của phép biện chứng trước Mác và
Ăngghen là phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Song phép biện chứng của
ông là phép biện chứng lộn ngược, phép biện chứng của các “ý niệm”. Do vậy
có thể khẳng định rằng, tất cả các phép biện chứng trước Mác không thể trở
thành thế giới quan khoa học và cách mạng để giúp con người trong nhận
thức và cải tạo thế giới. Do đó, cần phải cải tạo và phát triển phép biện chứng
của Hêghen, làm cho phép biện chứng ấy thoát khỏi yếu tố duy tâm thần bí,
trở thành phép biện chứng duy vật. Sự ra đời của phép biện chứng đã đáp ứng
được yêu cầu đòi hỏi của xã hội lúc bấy giờ. Vì vậy, phép biện chứng duy vật
mácxít ra đời là một tất yếu khách quan.

Lịch sử ra đời và phát triển của phép biện chứng, là lịch sử phát triển
hợp quy luật, phù hợp với tư duy nhân loại. Đó là lịch sử kế thừa và phát triển
những tư tưởng biện chứng của thế hệ sau đối với thế hệ trước. Trong đó phép
biện chứng duy vật mácxít là đỉnh cao của tư duy nhân loại. Như Ăngghen
từng khẳng định rằng: “...phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn hoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã
hội loài người và của tư duy”(14) .Trong tác phẩm “ chống Đuy rinh” Ăngghen
tự hào viết rằng: “Có thể nói rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người
đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó
vào quan niệm duy vật về tự nhiên và lịch sử xã hội” (15). Mác và Ăngghen giải
cứu phép biện chứng thoát khỏi hệ thống triết học duy tâm của Hêghen. Hai
ông đã phát triển và hoàn thiện nó, tạo ra sự thống nhất giữa thế giới quan duy
(14)
(15)

C. Mác- Ăngghen, toàn tập, tập 20, NxbCTQG, HN,1994, tr40.
C. Mác -Ăngghen: Toàn tập, T.20. NxbCTQG,HN,1994, tr.202.


15

vật và phép biện chứng. Lịch sử xã hội loài người chứng minh, kể từ khi triết
học Mác nói chung, phép biện chứng duy vật mỏcxít nói riêng ra đời, đã tạo
ra sự chuyển biến về chất trong lịch sử triết học nhân loại.
2.1 Bản chất khoa học và cách mạng của phép biện chứng duy vật
mác xít
Bản chất khoa học, cách mạng của phép biện chứng duy vật mỏcxớt
biểu hiện ở tính phát triển và đúng đắn hơn hẳn về chất so với hệ thống
triết học trong lịch sử. Với phép biện chứng cổ đại, mặc dù những quan
niệm biện chứng đó là đúng, nhưng đó chỉ là quan niệm rời rạc thiếu hệ

thống và không phải là sản phẩm của tư duy khoa học. Những nhà biện
chứng cổ đại không thể giải thích được vì sao sự vật lại như vậy. Ngược
lại phép biện chứng duy vật đã minh chứng dựa trên những kết luận khoa
học. Đối với phép siêu hình, họ nhìn nhận đánh giá sự vật hiện tượng
trong trạng thái biệt lập, chết cứng. Còn phép biện chứng duy vật luôn coi
các sự vật, hiện tượng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất luôn có sự
liên hệ, tác động ảnh hưởng, chuyển hoá lẫn nhau. Chúng cũng luôn vận
động, biến đổi và phát triển không ngừng. Đối với phép biện chứng duy
tâm của Hêghen, là phép biện chứng của các khái niệm, còn phép biện
chứng duy vật mácxit là biện chứng của hiện thực. Phép biện chứng duy
vật coi sự vận động và phát triển của thế giới hiện thực không phải là sự
ngẫu nhiên, mà coi sự vận động và phát triển đó luôn tuân theo những qui
luật tất yếu khách quan. Những quy luật ấy được phép biện chứng duy vật
mácxít trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ và lôgíc thông qua những
nguyên lý, những quy luật và các cặp phạm trù cơ bản. Đi sâu vào từng nội
dung cơ bản này, chúng ta sẽ thấy rõ bản chất khoa học của phép biện
chứng duy vật.


16

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, đã
khái quát bức tranh toàn cảnh với những đường liên hệ chằng chịt của giới
tự nhiên, xã hội và tư duy. Tính chất vô hạn của thế giới, cũng như tính
chất có hạn của mỗi sự vật, hiện tượng và quá trình có thể giải thích
được trong mối liên hệ phổ biến và được quyết định bởi rất nhiều mối
liên hệ có vị trí và vai trò khác nhau. Sự liên hệ phổ biến là đặc trưng phổ
quát nhất của thế giới. Vì vậy, quán triệt mục tiêu toàn diện là nguyên tắc
phương pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi hoạt động và suy nghĩ của con
người. Nội dung chính của nguyên tắc này đó là: Thứ nhất, phải xem xét

toàn diện các mối liên hệ; Thứ hai, trong tổng số các mối liên hệ phải rút ra
được những mối liên hệ bản chất, chủ yếu để hiểu thấu bản chất của sự
vật hiện tượng; Ba là, từ bản chất của sự vật phải quay lại hiểu rõ toàn bộ
sự vật trên cơ sở liên kết các mối liên hệ bản chất, chủ yếu với tất cả mối
liên hệ khác của sự vật để bảo đảm tính đồng bộ khi giải quyết mọi vấn
đề trong đời sống. Quan điểm toàn diện, đối lập với mọi suy nghĩ và hành
động chiết trung, phiến diện hay siêu hình.
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, phản ánh
đặc trưng phổ quát nhất của thế giới. Mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn
vận động, biến đổi không ngừng. Phép biện chứng duy vật mácxit cho
rằng, bản chất của sự vận động biến đổi ấy có xu hướng phát triển. Vì
vậy, quán triệt quan điểm phát triển, là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo mọi
suy nghĩ và hành động của con người. Yêu cầu của nguyên tắc này đòi
hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, biến đổi và phát
triển của nó, phải tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức
cho được cái mới và kiên quyết ủng hộ cái mới.
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật gồm: Quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập( gọi tắt là quy luật mâu thuẫn).


17

Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới biến đổi về chất
và ngược lại( gọi tắt là quy luật lượng- chất). Quy luật phủ định của phủ
định.
Trong ba quy luật trên được trình bày ở trên, quy luật mâu thuẫn là
hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực
của sự phát triển, nó phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn
bên trong sự vật, hiện tượng. Ăngghen viết: “ Sự sống cũng là một mâu
thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình, một mâu thuẫn

thường xuyên nảy sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn âý chấm dứt thì
sự sống ấy cũng không còn nữa, và cái chết sẽ đến”(16). Trong quy luật này
thì phép biện chứng duy vật mỏcxít chỉ ra rằng: sự thống nhất giữa các
mặt đối lập là điều kiện cho sự tồn tại, còn đấu tranh giữa các mặt đối lập
làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Khi sự vật mới ra đời, nó
thiết lập sự thống nhất của các mặt đối lập mới, cùng với tồn tại, vận động
của sự vật, hiện tượng, các mặt đối lập lại tiếp tục đấu tranh loại trừ nhau,
cứ như vậy làm cho sự vật, hiện tượng vận động, biến đổi không ngừng.
Từ quy luật này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và cải tạo thực tiễn, phải
nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước hết là mâu thuẫn cơ bản
và mâu thuẫn chủ yếu. Phải phân tích mâu thuẫn và tích cực đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn. Như Lênin nói: “ Sự phát triển là một cuộc “ đấu
tranh” giữa các mặt đối lập”(17). Tuy nhiên hình thức đấu tranh phải đa
dạng và linh hoạt, tuỳ thuộc vào từng mâu thuẫn cụ thể và hoàn cảnh cụ
thể để vận dụng hình thức đấu tranh cho phù hợp và đạt kết quả cao nhất.
Quy luật lượng- chất được phép biện chứng duy vật chỉ ra cách thức,
cơ chế của quá trình phát triển là đi từ những biến đổi dần dần về lượng
đến một giới hạn của độ thì gây ra biến đổi cơ bản về chất, thông qua
(16)
(17)

C. Mac- Ăngghen. Sđd; T.20, tr.173-174.
V.I. Lênin: Toàn tập, T.2. Nxb Tiến bộ. Mátxcơva.,1981, tr.397.


18

bước nhảy và ngược lại. Trong tác phẩm “ Chống Đuyrinh”, Ăngghen đã
chứng minh tính đúng đắn, khách quan và phổ biến của quy luật này bằng
hàng loạt các ví dụ từ trang 181 đến trang184 về tất cả các lĩnh vực tự

nhiên, xã hội vầ tư duy. Thông qua quy luật này, chúng ta cơ sở phương
pháp luận chung nhất cho mọi cơ chế phát triển với ba yêu cầu là:
- Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo ra sự thay
đổi về chất. Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí muốn đốt cháy
giai đoạn.
- Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực
hiện bước nhảy vọt cách mạng, chống thái độ bảo thủ, trì trệ.
- Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá
trình phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ ra khuynh hướng vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng là mang tính chu kì. Mỗi chu kì phủ định
của phủ định sự vật, hiện tượng phải trải qua ít nhất hai lần phủ định cơ
bản. Lần phủ định cơ bản thứ nhất, sự vật trở thành cái đối lập với cái ban
đầu. Sau lần phủ định cơ bản thứ hai, sự vật dường như quay trở lại cái
ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Để khẳng định tính chân thực luận
điểm trên của phép biện chứng duy vật mỏcxít, Ăngghen viết: “ Hãy lấy ví
dụ một hạt đại mạch. Có hàng nghìn triệu hạt đại mạch giống nhau, được
xay ra, nấu chín và đem làm bia, rồi tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt đại
mạch như thế gặp điều kiện bình thường đối với nó ... nó nảy mầm: hạt
đại mạch biến đi không còn là hạt đại mạch nữa, nó bị phủ định... kết quả
của sự phủ định của phủ định này là chúng ta lại có hạt đại mạch như ban
đầu, nhưng không phải là một hạt đại mạch mà là nhiều gấp mười, hai
mươi... tốt hơn về chất”(18). Do vậy cách thức của sự phát triển không phải
(18)

C. Mác và Ăngghen: toàn tập, T.20. NxbCTQG,HN,1994,tr.193.


19


là đường thẳng mà là đường xoáy ốc, thể hiện tính chu kỳ trong quá trình
phát triển. Song không phải bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng lặp đi lặp
lại một cách đơn thuần qua hai lần phủ định cơ bản là kết thúc một chu kỳ
của phủ định .Có rất nhiều sự vật, hiện tượng phức tạp cả trong tự nhiên,
xã hội và tư duy, chúng phải trải qua các lần phủ định trung gian có cùng
bản chất. Quy luật phủ định của phủ định là căn cứ chỉ đạo mọi suy nghĩ
và hoạt động của con người. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn,
chúng ta phải tôn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa có chọn lọc, phải biết
phê phán và phát triển. Chống kế thừa một cách máy móc hoặc phủ định
sạch trơn. Hiểu đúng quy luật này còn là cơ sở để chúng ta tiếp cận lịch
sử, biết dự đoán những hình thái cơ bản của sự vật, hiện tượng trong
tương lai.
Ba quy luật trên có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động
của con người. Nhưng ba quy luật đó chưa nói hết tính đa dạng phong phú
của sự vận động, phát triển. Nó mới chỉ phản ánh một cách cơ bản nhất về
nguồn gốc, động lực và xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Do đó để phản ánh hết tính chất phong phú, phức tạp và nhiều vẻ trong quá
trình tồn tại, vận độngvà phát triển của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng
duy vật còn chỉ ra những quy luật không cơ bản( hay còn gọi là những cặp
phạm trù không cơ bản) đó là các cặp phạm trù: Cái chung và cái riêng; Bản
chất và hiện tượng; Nội dung và hình thức; Nguyên nhân và kết quả; Tất
nhiên và ngẫu nhiên; khả năng và hiện thực.
Khi nghiên cứu phép biện chứng duy vật mácxít chúng ta cần nhận thức
chính xác rằng: các quy luật cơ bản và các quy luật không cơ bản của phép
biện chứng duy vật như là sự cụ thể hóa thêm cho nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Có như vậy mới thấy hết ý nghĩa cụ
thể của các quy luật và các cặp phạm trù. Trong đó các nguyên lý của phép


20


biện chứng duy vật, là quan niệm bao quát những tính chất biện chứng chung
nhất của thế giới. Còn các quy luật và các cặp phạm trù là lý luận nghiên cứu
các mối liên hệ và khuynh hướng phát triển trong thế giới của các sự vật, hiện
tượng và các quá trình cụ thể. Ngay trong các cặp phạm trù cũng có ý nghĩa
khác nhau. Các cặp phạm trù: Cái chung và cái riêng; Tất nhiên và ngẫu
nhiên; Bản chất và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận trực tiếp cho các
phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, khái quát hoá, trừu
tượng hoá để rút ra mối liên hệ bản chất, từ đó hiểu được toàn bộ các mối liên
hệ theo một hệ thống nhất định. Còn các phạm trù nguyên nhân và kết quả,
khả năng và hiện thực là cơ sở phương pháp luận cho ta biết được trình tự kế
tiếp nhau của các mối liên hệ và sự phát triển là một quá trình tự nhiên. Đối
với cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây
dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung.
Phép biện chứng duy vật là đỉnh cao của tư duy triết học nhân loại, nó
chứa đựng trong mình tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Tính khoa học và
tính cách mạng của phép biện chứng duy vật thống nhất với nhau, bởi vì phép
biện chứng duy vật là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị, sâu
sắc và triệt để nhất. Đối với nó không có cái gì tồn tại ngoài quá trình không
ngừng vận động và phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật hiện tượng.
Trong khi đưa ra quan niệm về tính hợp lý của cái hiện tồn, thì đồng thời cũng
bao hàm trong nó quan niệm về sự diệt vong tất yếu của cái hiện tồn đó. Nó
chống lại mọi quan điểm bảo thủ, trù trệ. Tính khoa học của phép biện chứng
duy vật thể hiện đầy đủ trong các nguyên lý, các quy luật và các cặp phạm trù.
Nó là sự kết hợp hài hoà giữa sự kế thừa tinh hoa triết học nhân loại với
những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và bằng chính hoạt
động thực tiễn của các nhà triết học thiên tài. Vì vậy, nó đã trở thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học đồng thời là vũ khí lý luận sắc bén cho các



21

đảng cộng sản và giai cấp công nhân quốc tế trong quá trình đấu tranh thực
hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Về mặt lý luận, phép biện chứng duy
vật ra đời góp phần cùng chủ nghĩa Mác, biến chủ nghĩa xã hội không tưởng
trở thành khoa học. Về mặt thực tiễn, nó mở ra một thời đại mới, thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng cuộc cách mạng
tháng Mười Nga vĩ đại.
2.2 Những vấn đề cơ bản rút ra khi nghiên cứu bản chất khoa học
và cách mạng của phép biện chứng duy vật mácxít.
Phép biện chứng duy vật mácxít ra đời là một tất yếu khách quan. Khi
nghiên cứu bản chất khoa học và cách mạng của phép biện chứng duy vật
mỏcxớt cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Một là: trong xem xét, đánh giá cải tạo sự vật, hiện tượng phải luôn đặt
chúng trong mối liên hệ giữa chúng với những cái khác. Trong tổng số các
mối liên hệ, phải tìm ra được những mối liên hệ bản chất, chủ yếu nhất.
Ngược lại, từ những mối liên hệ bản chất, chủ yếu ấy để chúng ta hiểu rõ toàn
bộ sự vật, hiện tượng. Chống quan điểm chiết trung hoặc siêu hình trong xem
xét đánh giá cải tạo sự vật, hiện tượng.
Hai là: Trong nhận thức và cải tạo sự vật, hiện tượng, phải nhận thức đầy
đủ các mâu thuẫn bên trong, bên ngoài của nó, chỉ rừ đâu là mâu thuẫn cơ
bản, đâu là mâu thuẫn chủ yếu. Đồng thời luôn chủ động tích cực đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn, không thụ động ngồi chờ. Muốn cho sự vật, hiện tượng
phát triển nhanh và tốt, phải tạo điều kiện cho sự vật, hiện tượng tích luỹ về
lượng. Khi sự vât, hiện tượng tích luỹ về lượng đến giới hạn độ, phải kiên
quyết thực hiện nhảy vọt cách mạng. Chống chủ quan duy ý chí, chống quan
điểm nóng vội đốt cháy giai đoạn. Đồng thời chống thái độ bảo thủ trì trệ để
mất thời cơ.



22

Ba là: Phải luôn luôn quán triệt quan điểm phát triển trong nhận thức và
cải tạo sự vật, hiện tượng. Trong tư duy phải luôn năng động, mềm dẻo, biết
dự kiến được sự ra đời của cái mới, khi cái mới ra đời phải nắm bắt kịp thời
và kiên quyết ủng hộ cái mới.
Bốn là: Phát triển phải luôn tôn trọng tính kế thừa, nhưng phải kế thừa
một cách có chọn lọc, chống kế thừa theo kiểu dập khuôn, máy móc hoặc phủ
định sạch trơn trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Năm là: Quá trình nghiên cứu và vận dụng phép biện chứng duy vật, phải
luôn cảnh giác, chủ động và tích cực đập tan những quan điểm phản động, sai
trái. Ngày nay, kẻ thù của chủ nghĩa Mác vẫn đang tìm mọi cách hạ thấp,
xuyên tạc và phủ nhận tính cách mạng, khoa học của phép bịên chứng duy vật
mỏcxớt, do vậy việc đấu tranh làm thất bại mọi quan điểm phản động, sai trái
là một nguyên tắc trong nghiên cứu chủ nghĩa Mỏc nói chung và phép biện
chứng duy vật mỏcxit nói riêng.
Sáu là: Luôn tin tưởng nhất quán vào bản chất khoa học, cách mạng của
phép biện chứng duy vật mỏcxít trong mọi hoàn cảnh. Sự tin tưởng đó không
chỉ bằng tình cảm, mà điều đó chỉ có thể được duy trì và phát triển trên cơ sở
tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển những
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật lên một trình độ mới, đáp ứng
yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Phần III: Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng phép biện
chứng duy vật mỏcxít trong hoạch định đường lối lãnh đạo cách mạng.
Chủ nghĩa Mỏc nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng là một hệ
thống lý luận mở. Do vậy, sự vận dụng hệ thống lý luận ấy vào tình hình cụ
thể của mỗi nước đòi hỏi phải hết sức khoa học. Lịch sử đấu tranh cách mạng
của phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế đó minh chứng: chỉ khi nào
mà Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế nắm vững và vận dụng đúng đắn,



23

sáng tạo phép biện chứng duy vật vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước, thì khi
ấy cách mạng giành được thắng lợi. Và ngược lại, nếu vận dụng chúng một
cách áp đặt, chủ quan, duy ý chí, tất yếu cách mạng sẽ không phát triển, thậm
chí bị tổn thất to lớn.
3.1 Hồ Chí Minh với việc vận dụng phép biện chứng duy vật
macxít
Việt Nam là một quốc gia nằm ở vị trí chiến lược trong khu vực Đông
nam châu á. Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, Việt Nam luôn
phải gỏnh chịu những cuộc tấn công xâm lược của kẻ thù trong khu vực và
trên thế giới. Nhìn lại lịch sử cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy rằng: từ khi
thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nhân dân ta từ bắc đến nam, từ
miền xuôi đến miền ngược đã liên tiếp vùng lên kháng chiến không ngừng để
giành tự do, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Tiêu biểu trong các cuộc khởi nghĩa
chống Pháp trước chiến tranh thế giới thứ nhất là: phong trào Đông du(19061908); Phong trào Đông kinh nghĩa thục( 1907); Phong trào Duy tân;Việt
nam Quang phục hội (1912). Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất có các
phong trào chống Pháp là: Phong trào tư sản đấu tranh chống các thế lực tư
bản nước ngoài, chống độc quyền, đòi cải cách dân chủ (1919)... Việt Nam
Quốc dân Đảng (1927). Song tất cả những phong trào ấy đều đi đến thất bại.
Nguyên nhân của những thất bại ấy là do những nhà yêu nước lúc bấy giờ hạn
chế về nhận thức, hoặc hạn chế về lập trường giai cấp, nên không tìm ra một
con đường cách mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc.Khác biệt với những
nhà yêu nước trước đó;Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm một con đường cứu
nước riêng của mỡnh. Đó là con đường đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính
đến với chủ nghĩa Mỏc- Lênin. Thông qua bản sơ thảo lần thứ nhất đề cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Từ bản đề cương đó, Người rút ra
kết luận quan trọng là: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải



24

phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới, thoát
khỏi ách nô lệ”(19). Người nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không
có con đường nào khác là con đừờng cách mạng vô sản” (20). Đõy cũng là sự
lựa chọn của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Sự lựa
chọn đó dựa trên những nguyên lý khoa học và cách mạng của phép biện
chứng duy vật mỏcxít. Những nguyên lý ấy được Người quán triệt sâu sắc và
trình bày qua hàng loạt tác phẩm và bài viết như: “Đường cách mệnh”;
“Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt”... Ngay từ đầu “ Đường cách
mệnh” đã thể hiện hết sức sâu sắc bản chất cỏch mạng và khoa học của phép
biện chứng duy vật trong đó _ Như nguyên lý mối liên hệ và sự phát triển...
Người chỉ rõ: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách
mạng vô sản ở “chính quốc” có quan hệ khăng khít với nhau. Chủ nghĩa thực
dân là kẻ thù chung của các dân tộc và thuộc địa trên thế giới. Tư tưởng về
đường lối chiến lược của cách mạng ở thuộc địa là tiến hành giải phóng dân
tộc, mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn nhõn dõn lao động, giải phóng
con người. Cách mạng giải phóng dân tộc phải thực sự đoàn kết và liên minh
với các lực lượng quốc tế. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít,
không thể tách rời của cách mạng thế giới... nhưng muốn anh em trong thế
giới gíup ta, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình. Tiếp tục quán triệt phép
biện chứng duy vật mácxít vào soạn thảo chính cương vắn tắt, sách lược vắn
tắt. ở “ chính cương vắn tắt”, Người đã vạch ra những nét chính về chiến
lựơc và sách lược của cách mạng Việt Nam như sau: “ Tư bản bản xứ đã
thuộc về tư bản Pháp, vì tư bản pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản, làm cho
công nghệ bản sứ không thể mở mang được. Còn về nông nghiệp một ngày
một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân ta thất nghiệp rất
nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về
(19)

(20)

Hồ Chí Minh; Toàn tập, T10. NxbCTQG, HN, 2000, tr.128.
Hồ chí Minh: toàn tập, T2. NxbCTQG, HN, 1995, tr.274.


25

phe đễ quốc được, chỉ có bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe
đế quốc chủ nghĩa, nên chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới cộng sản chủ nghĩa” (21. Còn ở “ sách lược vắn tắt”,
Người đã chỉ rừ: “... Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, thanh niên...để lôi kéo họ, còn bọn phú nông, tiểu địa chủ và tư bản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho
họ trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng... thì phải đánh đổ.
Trong khi liên lạc với các giai cấp... phải đồng thời tuyên truyền và thực
hành liên lạc với giai cấp, các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp thế giới,
nhất là vô sản giai cấp Pháp”(22). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện sự quán
triệt sâu sắc các nguyên lý và các quy luật của phép biện chứng duy vật
mácxít, đặc biệt là chỉ ra được những mối liên hệ, những mâu thuẫn cơ bản,
chủ yếu và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam lúc bấy gìơ. Trong cuộc đời
hoạt động cách mạng sau này Bỏc luôn luôn quán triệt và vận dụng sắc bén
tính khoa học và cách mạng của phép biện chứng duy vật mácxít trong từng
hoàn cảnh cụ thể của nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Ví dụ như: Đánh cho Mỹ
cút, đánh cho nguỵ nhào... là thể hiện sự tài tình trong việc xác định mâu
thuẫn cơ bản, chủ yếu của địch và đề ra nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng giải phóng.
3.2 Đảng ta với việc vận dụng phép biện chứng duy vật mácxit.
Hội nghị thành lập Đảng vào 3-2-1930 đã thông qua chính cương vắn tăt,
sách lược vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo. Đồng chí Trần Phú đã kế thừa

những vấn đề cơ bản đó, bổ sung thực tiễn phong trào đấu tranh để soạn thảo
luận cương chính trị và được hội nghị trung ương lần thứ nhất thông qua
tháng 10- 1930. Ngay từ khi mới ra đời, trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng,
tính khoa học và tính cách mạng của phép biện chứng duy vật đã được Đảng
(21)
(22)

Hồ Chí Minh: Toàn tập, T3. NxbCTQG, HN,1995,tr.1
Hồ Chí minh : toàn tập, T3. NxbCTQG, HN,1995, tr.3.


×