Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

MỐI QUAN HỆ GIỮA NGHỆ THUẬT ÂM NHẠC VÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.69 KB, 9 trang )

MỐI QUAN HỆ GIỮA NGHỆ THUẬT ÂM NHẠC VÀ
NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU TRONG OPERA
Ths. Nguyễn Thị Tố Mai
Khoa Sư phạm Âm nhạc
Trong sân khấu luôn có sự tham gia của nghệ thuật âm nhạc. Từ
những hình thức sơ khai của sân khấu như các trò diễn, các hình
thức kể chuyện sử thi của các dân tộc trên thế giới… đến các hình
thức sân khấu lớn như kịch nói của phương Tây; Tuồng, Chèo, Cải
lương của Việt Nam… đều có mặt của âm nhạc. Thậm chí, có
người còn cho rằng, một vở kịch dù nhỏ đến đâu nếu như không
có sự tham gia của âm nhạc thì có thể nói đó là một tác phẩm
hoàn chỉnh.
Trong những hình thức sân khấu sơ khai như Kể khan của các dân
tộc Tây Nguyên, Đẻ đất đẻ nước của dân tộc Mường thường có
các nhạc cụ gõ, nhạc cụ hơi... đệm theo. Tuy ở đó có thể không
có các làn điệu hát, nhưng có yếu tố hát trong các câu kể thơ hay
có thể nói đó là những câu hát thơ mang tính ngâm ngợi.
Trong sân khấu kịch nói, âm nhạc thường tham gia vào các phần
mở màn, kết thúc, làm nhạc nền, nhạc chen, nhạc chuyển màn,
chuyển cảnh… góp phần tạo hình tượng, tăng thêm tính kịch và
nhiều khi còn có những tiết mục âm nhạc hoàn chỉnh để miêu tả
tâm trạng nhân vật hoặc làm nền bổ sung cho tình tiết kịch. Thí
dụ, trong vở kịch nói Pergun, nhạc sĩ Edvard Grieg đã viết phần
âm nhạc như những tiết mục âm nhạc hoàn chỉnh, trong đó giai
điệu đầy chất thơ đẹp như hoa đồng nội của bài hát “Khúc hát
nàng Solvei” (làm nền cho cảnh Solvei tóc bạc trắng đứng trên bờ
biển chờ đón Pergun tàn tạ trở về và chết trong vòng tay của
Solvei) đã làm cho người xem phải xúc động. Phần âm nhạc của
vở kịch Pergun sau này đã được Grieg tách ra viết thành tổ khúc
(suite) cho dàn nhạc giao hưởng và là một trong những tổ khúc
xuất sắc của âm nhạc lãng mạn thế kỷ XIX.


Còn trong Tuồng, Chèo và Cải lương thì giữa âm nhạc sân khấu
khó có thể nói nghệ thuật nào là chính và nghệ thuật nào là phụ.
Vì thế, có thể khẳng định trong sân khấu luôn có vai trò của âm
nhạc. Vậy trong opera, một nghệ thuật đỉnh cao của âm nhạc bác
học chuyên nghiệp thì sân khấu có vai trò như thế nào?
Opera ra đời ở châu Âu, được đánh dấu trong sự nghiệp sáng tác
của các nhạc sĩ người ý cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII với tác
phẩm đầu tiên là Dafné của Peri (1560 – 1633) sáng tác năm
1594. Quá trình phát triển của lịch sử opera cũng là quá trình của
những quan niệm khác nhau về vai trò của âm nhạc và kịch trong
nghệ thuật này.
Có thể nói, cội nguồn xa xưa của opera xuất phát từ bi kịch cổ đại
Hy Lạp - nghệ thuật tổng hợp kết hợp sân khấu với thơ ca, nhạc
và múa, mở đầu cho các vở bi kịch thường có sự tham gia của
một dàn hợp xướng. Gần hơn nữa là từ các tích trò hay còn gọi là
trò diễn trong nền âm nhạc của các hiệp sĩ ở thế kỷ XI thời Trung
cổ
1.
Các hiệp sĩ diễn các trò theo một nội dung tích truyện nào đó
và sáng tác các bài hát theo trình tự của tích truyện. Có một tác
phẩm là “Trò diễn về Robin và Marion” đã được trình diễn đến tận
thế kỷ XV và theo sách Lịch sử âm nhạc thế giới do Nguyễn Xinh
biên soạn đã cho rằng đó là một trong những “ hình ảnh báo hiệu
cho sự ra đời của nhạc kịch thông tục Pháp sau này”
2
. Tuy nhiên,
ở bi kịch cổ đại và các trò diễn trên, nghệ thuật sân khấu đóng
vai trò chủ yếu. Đến các thể loại như ca cảnh hay ca kịch sau này
thì âm nhạc đã chiếm một vị trí quan trọng. ở các thể loại này,
âm nhạc gắn bó hữu cơ với sân khấu. Âm nhạc không còn đóng

vai trò đệm nữa mà được cấu trúc thành các tiết mục thanh nhạc.
Đặc biệt, âm nhạc trong ca kịch không chỉ gồm các tiết mục mà
còn cấu trúc thành các trường đoạn, thậm chí xuyên suốt toàn bộ
quá trình phát triển của vở kịch và có cả những yếu tố tựa như
hát nói trong opera. Điều đó chứng tỏ ca cảnh và ca kịch là
những nguồn gốc trực tiếp của opera. Có thể lấy ngay các ca kịch
của Việt Nam làm thí dụ cũng đủ để chứng minh cho điều đó.
Trong vở ca kịch “ Sóng cả không ngã tay chèo” của Đỗ Nhuận,
tác giả đã dùng mô-tip và chất liệu chèo Bắc bộ làm sợi chỉ xuyên
suốt tác phẩm. Sau này, vở opera Việt Nam đầu tiên Cô Sao
chính là kết quả của một quá trình sáng tác nhiều tác phẩm ca
cảnh và ca kịch của nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
Nghệ thuật opera thế giới thực sự được đánh dấu bằng Dafné của
Peri, nhưng Dafnộ không còn tổng phổ nờn Eurydice (1600), cũng
của Peri, được coi là một trong hai tác phẩm đầu tiên. Trong
Eurydice nội dung cốt truyện được dẫn dắt bằng lời dẫn chuyện,
và ở đây âm nhạc đãng vai trò chủ chốt.
Nhiều khán giả xem opera thường để thưởng thức nghệ thuật âm
nhạc là chủ yếu bởi rất nhiều vở opera có nội dung cốt truyện lấy
từ các tích truyện hoặc từ các tác phẩm văn học nổi tiếng của thế
giới mà khán giả xem opera nhiều khi biết trước nội dung của vở.
Tuy nhiên, đã có một thời kỳ, do quá đề cao vai trò của âm nhạc
(đặc biệt là đề cao kỹ thuật thanh nhạc), dẫn đến sự trống rỗng
trong nội dung kịch. Các tiết mục thanh nhạc và cả các tiết mục
múa gần như được sắp xếp quy định theo lối mòn nên opera châu
Âu đã bị suy thoái (cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII). Đến thời
kỳ cổ điển Viên (nửa sau thế kỷ XVIII), nhạc sĩ C.W. Gluck đã cải
cách opera trên nguyên tắc âm nhạc phải phụ thuộc vào nội dung
kịch. Ông chống lại khuynh hướng sùng bái kỹ thuật thanh nhạc
đơn thuần.

Cũng là nhà cải cách opera nhưng W.A. Morazt lại có quan điểm
khác Gluck là kịch phải phụ thuộc âm nhạc. Ông đề cao vai trò
của âm nhạc như các tiết mục thanh nhạc của ông không sáng
tác theo khuôn mẫu quy định, ông chú ý tới vẻ đẹp của âm nhạc,
tính hình tượng trong từng tình huống kịch và hiệu quả của dàn
nhạc giao hưởng đem lại cho vở kịch. Nhưng điều quan trọng là
âm nhạc trong tác phẩm của ông được gắn bó một cách thống
nhất với nội dung kịch. Chính vì vậy, Mozart không những đề cao
được vai trò của âm nhạc, kỹ thuật thanh nhạc và dàn nhạc giao
hưởng mà ông còn làm phong phú cho nội dung kịch và trở thành
nhà cải cách vĩ đại sau Gluck.
Sự phát triển của nghệ thuật opera ở các thời kỳ sau (thế kỷ XIX,
XX) cho thấy nghệ thuật âm nhạc ngày càng đóng vai trò chủ
chốt trong opera.
Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, nghệ thuật sân khấu có vai trò
rất quan trọng trong opera. Nhiều ý kiến cho rằng trong opera,
vai trò hàng đầu là âm nhạc, sau đó là sân khấu. Có ý kiến đánh
giá sân khấu quan trọng ngang hàng với âm nhạc. Trong cuốn
Nghệ thuật opera của PGS- NSND Trung Kiên có viết: “Trong tác
phẩm opera tập trung hai nghệ thuật giữ vai trò chủ yếu là âm
nhạc và kịch”
1
. Nếu lấy hình ảnh để ví thì có thể coi sân khấu là
bệ đỡ cho âm nhạc cất cánh.
Tính sân khấu được biểu hiện trong opera ở nhiều phương diện.
Trước hết là về mặt kịch bản. Kịch bản trong opera về cơ bản
cũng giống như sân khấu kịch nói là có nội dung cốt truyện, được
chia thành các màn, các cảnh. Kịch bản có thể được chuyển thể
từ tác phẩm thơ ca, từ tác phẩm văn học của nhà thơ nhà văn
nào đó như opera Con đầm pích của nhạc sĩ P.I. Tchaikovsky có

kịch bản được chuyển thể từ tiểu thuyết thơ cùng tên của đại thi
hào người Nga - Puskin, opera La Traviata của G. Verdi đã lấy nội
dung kịch bản từ tiểu thuyết Trà hoa nữ của A. Dumas. Kịch bản
có thể do một nhà văn hay nhà biên kịch viết như vở opera
Eurydice do nhạc sĩ – ca sĩ Peri sáng tác phần âm nhạc, còn phần
kịch bản do nhà thơ Rinuccini đảm nhiệm. Ngoài ra, kịch bản còn
được chính các nhạc sĩ viết. Nhiều nhạc sĩ tự viết kịch bản cho
mình như R. Wagner, M. Mussorgsky, A. Borodin… ở Việt Nam,
nhạc sĩ Đỗ Nhuận cũng tự viết kịch bản cho opera Cô Sao, Người
tạc tượng. Nội dung kịch bản của hai opera này khá đồ sộ như
một tác phẩm sân khấu thực thụ, là những bức tranh sử thi
hoành tráng về cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào dân
tộc miền núi Tây Bắc (opera Cô Sao) và chiến đấu chống Mỹ của
đồng bào các dân tộc Tây Nguyên (opera Người tạc tượng).
Về cơ bản, kịch bản trong opera có nhiều điểm gần với kịch bản
của sân khấu kịch nói, nhưng cũng có nhiều điểm khác so với sân
khấu kịch nói. Đặc trưng cơ bản của opera là các nhân vật hát
chứ không nói. Có khi hát cùng lúc ba, bốn người hoặc đông hơn,
với những lời ca khác nhau, giai điệu cũng khác nhau thể hiện
những suy nghĩ tình cảm của nhiều nhân vật hoặc nhiều tuyến
nhân vật cùng một lúc nên người nghe khó mà hiểu được ý nghĩa
của lời ca. Chính vì vậy tính ước lệ trong opera rất khác so với
kịch nói. Người xem opera phải hiểu những quy định mang tính
ước lệ trong opera như các tiết mục thanh nhạc như thế nào, quy
định về phần của dàn nhạc, các màn múa ra sao, thậm chí là
cách hát của opera phải như thế nào... thì mới có thể hiểu được
cái hay cái đẹp của opera.
Cảnh diễn trong vở Opera Carmen của Orpheus
Nội dung cốt truyện trong kịch bản của đa số các vở opera chỉ
xây dựng những tình tiết chính. Kịch bản của kịch nói cũng có thể

được xây dựng dựa trên nội dung chính lấy từ cốt truyện của tác
phẩm văn học nào đó, nhưng ở opera thì tình tiết trong cốt
truyện có khi còn lược bớt hơn rất nhiều so với sân khấu kịch nói.
Thí dụ như trong opera Orpheus and Eurydice của C.W. Gluck, nội
dung ở màn I chỉ rất đơn giản là Orpheus và những người bạn
đưa tang Eurydice ra đồng và Orpheus khóc thương người vợ xấu
số. Nếu chỉ như vậy thì ở sân khấu kịch nói sẽ vô cùng nhạt nhẽo,
nhưng ở opera thì ngự trị trong màn I là bản hợp xướng mục
đồng, là những lời ca trong nước mắt đau thương của Orpheus và
giai điệu chân tình của hai vị thần khuyên giải chàng. Âm nhạc ở
đây đã làm xúc động khán giả và người xem vẫn hoàn toàn hiểu
được nội dung câu chuyện. Về điểm này, opera gần với nghệ
thuật ballet. Trong ballet, vai trò chính là nghệ thuật múa, kịch
bản chỉ có tính chất sơ lược tóm tắt những nội dung chính quan
trọng nhất nhằm dẫn dắt câu chuyện và người xem chủ yếu
thưởng thức vẻ đẹp của các tiết mục múa cổ điển, múa dân gian,
các tiết mục múa đơn, múa đôi, múa tập thể…
Tính sân khấu trong opera còn được thể hiện trong cấu trúc. Cấu
trúc của opera giống các tác phẩm sân khấu là được chia thành
các màn các cảnh. Mở màn có một khúc nhạc do dàn nhạc diễn
tấu gọi là ouverture. Giữa các màn có các phần nhạc chuyển
màn, có những opera có phần nhạc chuyển màn đồ sộ như khúc
mở màn thực thụ như phần nhạc chuyển từ màn III sang màn IV

×