Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lónh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.78 KB, 58 trang )

Header Page 1 of 126.

LUẬN VĂN:

Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho
cán bộ lónh đạo, quản lý nhà nước trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta

Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cách mạng nước ta, cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo quản lý nhà
nước nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.
Trong điều kiện hiện nay, trước những biến động lớn lao đầy phức tạp trên thế giới,
cũng như yêu cầu phát triển của đất nước, vai trò này càng trở nên to lớn hơn bao
giờ hết.
Để lãnh đạo quản lý nhà nước thúc đẩy đất nước phát triển theo mục tiêu
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có cả đức lẫn
tài trong đó đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: "Người cán bộ cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân" [32, 253].
Sau hơn 10 năm đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo số đông cán
bộ lãnh đạo quản lý nhà nước luôn trau dồi và giữ vững được phẩm chất đạo đức
cách mạng: yêu nước, yêu CNXH, chí công vô tư, có lối sống lành mạnh, giữ gìn
được phẩm chất của người cán bộ cách mạng.
Tuy nhiên, trước những sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, không ít


cán bộ đã bị thoái hóa, biến chất, sự sa sút về đạo đức của một bộ phận cán bộ này
thể hiện ở chủ nghĩa cá nhân phát triển mạnh: kèn cựa địa vị, lợi dụng chức quyền
trục lợi, tha hóa về lối sống... Đáng chú ý sự suy thoái về phẩm chất này trong cán
bộ đang có chiều hướng gia tăng, làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán
bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
Sự sa sút về phẩm chất đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý, một mặt
do sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, nhưng mặt khác cũng phải thấy
rằng do trong một thời gian dài chúng ta chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn
luyện phẩm chất đạo đức, buông lỏng việc quản lý cán bộ và ít tạo môi trường
thuận lợi cho việc phát triển đạo đức.

Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

Vậy việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ nói chung, cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước nói riêng đang là một vấn đề hết sức bức
bách hiện nay.
Chính vì lý do đó, tôi chọn đề tài " Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng
cho cán bộ lónh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta " làm
đề tài mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức của người cán bộ cách mạng đã thu hút được rất nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên đây là vấn đề rất lớn và cũng không kém phần
phức tạp. Vấn đề còn đặt ra trước chúng ta nhiều khía cạnh cần được tiếp tục làm rõ
và đòi hỏi phải có tính thiết thực hơn. Hơn nữa trên thực tế các luận án, các bài
báo... xung quanh đề tài này thường được nghiên cứu về dưới góc độ xây dựng
Đảng, ít nghiên cứu về phương diện triết học, nhất là chưa đi sâu vào khảo sát một

loại cán bộ cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở những yêu cầu mới về đạo đức và thực trạng đạo
đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, luận văn làm rõ sự cấp thiết của việc
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, từ đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhà nước trong điều kiện hiện nay.
- Để thực hiện mục tiêu đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:
+ Vạch ra yêu cầu đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý
nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
+ Đánh giá thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà
nước hiện nay (trên cơ sở khảo sát ở tỉnh Kiên Giang), từ đó nêu ra những đòi hỏi

Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.

khách quan của việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà
nước trong giai đoạn cách mạng mới.
+ Nêu một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong điều kiện hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đạo đức học
Mác - Lênin; các quan điểm đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận của nghiên cứu, thực hiện luận văn này.
- Đề tài kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lôgíc và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu đã có.
5. Cái mới của luận văn
- Luận văn bước đầu đã xác định được một số yêu cầu cơ bản về đạo đức

đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong tình hình hiện nay.
- Phân tích góp phần làm rõ thêm một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước ở nước ta nói chung, ở
Kiên Giang nói riêng trong điều kiện hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Với kết quả đã đạt được, luận văn đã góp phần nhỏ bé vào nâng cao đạo
đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, đáp ứng nhu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
- Luận văn có thể dùng tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
về môn đạo đức học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 5 tiết.

Footer Page 4 of 126.


Header Page 5 of 126.

Chương 1
Đạo đức của cán bộ lãnh đạo, Quản lý nhà nước
ở nước ta hiện nay - thực trạng
và những vấn đề nảy sinh

1.1. Yêu cầu đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, Quản lý nhà nước
trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Vai trò đạo đức cách mạng của người cán bộ trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
Vấn đề đạo đức của con người đã được mọi giai cấp, mọi xã hội, mọi thời
đại quan tâm. Ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy, đạo đức đã xuất hiện, từ đó

dần dần được phát triển hoàn thiện trên cơ sở phát triển của hình thái kinh tế - xã
hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Giống như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo
đức bị quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội và luôn luôn kế thừa và phát triển để
tiến bộ không ngừng.
Từ thế kỷ XVI trước công nguyên, Khổng Tử đã khuyên học trò của mình
"Tiên học lễ, hậu học văn". Ông mong muốn xã hội phát triển bình ổn, gia đình
sống hạnh phúc, con người giữ được đạo lý. Để thực hiện được ý tưởng đó, ông đề
ra nguyên tắc vua tôi, ông, bà, cha mẹ, con cháu đều phải theo luật nước, phép nhà.
Tuy không phải là người đầu tiên bàn đến đạo đức, nhưng công lao chính của ông là
đã tổng kết được kinh nghiệm thực tiễn của đời sống xã hội, trên cơ sở đó xây dựng
nên học thuyết đạo đức, trong đó chứa đựng nhiều nội dung: Đó là ý thức với bản
thân, ý thức với xã hội, đặt các mối quan hệ của con người trong mối tương quan xã
hội, cách ứng xử và hành vi của con người...
Trong xã hội ấn Độ cổ đại, học thuyết của đạo phật do Thích Ca Mâu Ni
sáng lập cũng đã đề cập nhiều đến vấn đề đạo đức. Cái cốt lõi nhất trong hệ thống

Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.

đạo đức Phật giáo là khuyên con người sống thiện, biết thương yêu nhau, giúp đỡ
nhau, tránh điều ác.
Trong xã hội Hy Lạp - La Mã cổ đại, người ta đề cao những giá trị đạo đức,
như tính trung thực, lòng dũng cảm, sự trong sáng và cao thượng trong tình bạn,
tình yêu...
ở nước ta, vấn đề đạo đức được đề cập rất sớm, từ trong các truyền thuyết,
ca dao, tục ngữ... nhân dân ta đã xây dựng những nguyên tắc, chuẩn mực giá trị đạo
đức nhằm giáo dục con người, chăm làm, chăm học để nâng cao trí tuệ, thương yêu
giúp đỡ lẫn nhau và có nhân cách cao đẹp trong cuộc sống.

Theo quan điểm mácxít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, quy tắc, nguyên tắc, chuẩn
mực xã hội. Nó ra đời tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ nó, con người
tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con
người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người,
giữa cá nhân với xã hội.
Trong đời sống xã hội loài người có những mối quan hệ rất phức tạp, đa
dạng, chúng tồn tại đan xen nhau: quan hệ huyết tộc, nhân chủng, các giới, các thế
hệ, các giai cấp... mặt khác, do trình độ nhận thức của mọi người cũng khác nhau,
nên về tập tục, lợi ích, văn hóa, trình độ phát triển cũng khác nhau. Để duy trì sự
tồn tại và phát triển, mỗi xã hội đòi hỏi phải xây dựng những nguyên tắc, chuẩn
mực sống, trên cơ sở đó con người tự ý thức, hành động. Nói cách khác là những
nguyên tắc đó được xây dựng trên cơ sở tính tự nguyện, tự giác của mỗi người; biến
thành ý thức xã hội để con người tự giác tuân theo.
Đạo đức là nhu cầu tất yếu khách quan, nhưng lại là vấn đề có tính lịch sử.
Xã hội nào cũng cần hình thành những nguyên tắc sống để con người tự nguyện
tuân theo, nhằm đảm bảo trật tự xã hội, duy trì sự tồn tại, phát triển của xã hội và
của cá nhân. Trong cuộc sống, có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức chung cho

Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.

mọi thời đại (sống thiện, yêu quí lao động, trung thực) nhưng vẫn có những nguyên
tắc, chuẩn mực chỉ phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ xã hội cộng sản nguyên thủy, đến xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong
kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, những yếu tố đạo đức tiến bộ được hình
thành và ngày càng phát triển. Đó là sự say mê lao động, sáng tạo, đề cao tính trung
thực, khiêm tốn, phẩm hạnh, danh dự con người, căm ghét áp bức tàn bạo, ghét sự

dối trá, sự tương trợ hợp tác lẫn nhau, nguyên tắc bình đẳng về lợi ích và lao động.
Những yếu tố đạo đức tốt đẹp đó luôn đối lập với chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, hiếu
danh, lười biếng, ăn bám, xa hoa, lãng phí.
Như vậy đạo đức là một hiện tượng phổ biến của xã hội, của mọi thời đại.
Nó tồn tại một cách tất yếu khách quan nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi, quan hệ
ứng xử của con người với nhau trong xã hội. ở đâu có con người thì ở đó có quan hệ
đạo đức, và con người có nhu cầu hướng tới những giá trị đạo đức, sống thiện, có
ích, nhân đạo, làm tròn các nghĩa vụ đạo đức đối với xã hội. Những giá trị đạo đức
khi đã được hình thành ở con người thì có tác động trở lại xã hội theo chiều hướng
tốt đẹp.
Đạo đức còn giúp cho con người hoàn thiện nhân cách của mình. Những
người có nhân cách bao giờ cũng có những phẩm chất đạo đức cao quý. Trong các
tiêu chuẩn giá trị làm nên cái đẹp của con người, sự lựa chọn của nhân dân cũng
hướng đến cái giá trị đạo đức "Cái nết đánh chết cái đẹp", "Tốt gỗ hơn tốt nước
sơn"...
Đạo đức là nhu cầu, là cội nguồn của hạnh phúc. Một xã hội hạnh phúc
chính là ở chỗ xã hội đã tạo ra những con người có ý thức, có năng lực thực tiễn
hành động vì người khác. Một người có lòng vị tha hay giúp đỡ người khác chính là
bản thân anh ta đã "làm phúc" cho mọi người và chính anh ta cũng cảm thấy hạnh
phúc. Những người gặp hoàn cảnh éo le sẽ hạnh phúc biết nhường nào khi được
người khác giúp đỡ vô tư.

Footer Page 7 of 126.


Header Page 8 of 126.

Nhờ có hành vi đạo đức tốt, con người mới đem lại hạnh phúc cho người
khác. Chủ thể đạo đức khi thực hiện hành vi đạo đức cũng trở nên hạnh phúc.
Người giúp đỡ người khác sẽ cảm thấy cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn, có

ý nghĩa hơn. Người hạnh phúc nhất là người biết đem lại niềm vui, hạnh phúc cho
người khác.
Lịch sử đã chứng minh đạo đức có vai trò tích cực trong đời sống xã hội, nó
như một động cơ có sức mạnh thôi thúc con người đấu tranh chống lại những cái ác,
cái xấu đi ngược lại lợi ích của xã hội; nó giữ gìn và phát triển những cái tốt, cái
thiện, làm cho xã hội ngày càng phát triển. Trong thời đại ngày nay, đạo đức càng
đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc
và tiến bộ xã hội. Đạo đức đang tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì quyền con
người, chống lại chủ nghĩa vô nhân đạo, bảo vệ môi sinh, chống nghèo đói, tạo ra
mọi khả năng và điều kiện thuận lợi để con người thực hiện nhu cầu của mình.
Đạo đức còn là một tiêu chuẩn giá trị cao của đời sống con người, nó loại
bỏ sự thấp hèn, vị kỷ, đê tiện, xấu xa, hướng con người đi tới cái tốt đẹp, cái thiện
và cái tiến bộ.
Đối với mỗi con người, đạo đức là cơ sở, là nền tảng để xây dựng lý tưởng
sống, hướng con người xác định đúng mục đích sống. Trong cuộc sống, người nào
cũng đặt cho mình một câu hỏi: mình sống như thế nào, vì mục đích gì? Tồn tại để
làm gì?
Nói chung, người có đạo đức là người sống vì xã hội, sống vì hạnh phúc của
người khác, sống để cống hiến và đem lại lợi ích nhiều nhất cho xã hội. Điều này
không có nghĩa là quên lợi ích cá nhân. Bởi vì, nếu không có cá nhân thì không thể
có xã hội, nên sự tồn tại của cá nhân là một tất yếu khách quan. Những điều kiện
tồn tại của cá nhân không thể bỏ qua, nhưng đó không phải là tất cả. Do đó, con
người sống phải vì lợi ích chung của xã hội và người khác, đó là một nhận thức đầy
tính nhân văn và cách mạng. Nó thể hiện quan niệm, tồn tại của con người là mục
đích chứ không phải đơn thuần là phương tiện như những kẻ vụ lợi tham lam.

Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.


Đạo đức giúp cho con người sáng tạo ra hạnh phúc. Nếu con người sinh ra
chỉ biết hưởng thụ, sống thụ động, không có trách nhiệm thì của cải tự nhiên sẽ bị
nghèo nàn, khô kiệt và khan hiếm dần đi; những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần
sẽ không nảy sinh, họ luôn nhìn đời bằng con mắt chán chường, cảm thấy sống
thừa, vô vị. Còn một khi con người đã xác định sống phải có lý tưởng để cống hiến
tài năng cho xã hội, thì mọi người sẽ tích cực tự giác làm việc, đem lại những thành
quả có ích cho xã hội, và cũng chính lúc đó con người tạo ra những giá trị cao
cho chính mình. Hạnh phúc chân chính biểu hiện mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội. Mối quan hệ ấy thúc đẩy lẫn nhau, làm cho con người
và xã hội ngày càng phát triển.
Đạo đức còn làm cho mỗi người biết giữ gìn phẩm giá, danh dự sống cao
cả, biết hòa nhập, gắn bó với tập thể; tránh tư tưởng bè phái, cục bộ, vị kỷ, cá nhân
và những thói đạo đức giả.
Đạo đức đem lại cho con người niềm lạc quan yêu đời, nó phát huy và khơi
dậy ở con người tính tích cực tự giác, kiên trì khắc phục khó khăn, khát khao vươn
tới cuộc sống chân, thiện, mỹ.
Trải qua các quá trình lao động sáng tạo và cải biến xã hội, con người càng
thấy rõ hơn giá trị to lớn của đạo đức. Đạo đức không chỉ đóng vai trò điều chỉnh ý
thức và hành vi của con người mà còn có tác dụng cảm hóa con người, giúp con
người nhận thức và hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người
và người. Đồng thời, đạo đức còn làm thức dậy trong mỗi con người những tình
cảm tốt đẹp, đó là lòng nhân ái, tính trung thực thẳng thắn. Cùng với sự tiến lên của
xã hội, đạo đức sẽ có mặt ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó giúp con người có
khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội, đánh giá tư cách, ý thức và hành
vi của bản thân mình, làm cho hoạt động của con người phù hợp với lợi ích của xã
hội, của cộng đồng.

Footer Page 9 of 126.



Header Page 10 of 126.

Xã hội muốn ổn định và phát triển, đòi hỏi phải xây dựng những chuẩn mực
đạo đức để giúp cho con người điều chỉnh hành vi của mình nhằm đáp ứng những
yêu cầu chung của nền đạo đức xã hội.
Chế độ xã hội nào cũng chú ý quan tâm đến cán bộ, vì nó liên quan đến vận
mệnh và sự hưng thịnh của mỗi chế độ, mỗi quốc gia. ở nước ta, trong các thời kỳ
cách mạng, cán bộ luôn là vấn đề nổi lên hàng đầu và giữ một vai trò hết sức trọng
yếu. Nó chẳng những có ý nghĩa quyết định đối với công tác xây dựng Đảng và việc
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ; vì cán bộ
"vừa là người lãnh đạo lại vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân".
Đảng muốn lãnh đạo cách mạng phải có đường lối chính trị đúng đắn.
Nhưng để xây dựng đường lối đúng và làm cho đường lối đó trở thành hiện thực
sinh động trong cuộc sống thì nhất thiết phải có đội ngũ cán bộ vững vàng, có phẩm
chất đạo đức trong sáng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc" [30, 269] và "Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc
kém", cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy nếu dây chuyền không tốt hoặc không
chạy thì động cơ dù tốt mấy thì toàn bộ máy cũng bị tê liệt.
Cán bộ là nhân tố quyết định trong việc thực hiện sự lãnh đạo của Đảng.
Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm thành công sự nghiệp đổi mới, nhưng để
thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, ngoài sự tự giác nhận thức, bảo vệ và kiên trì của
toàn Đảng và của toàn dân, thì cán bộ là nhân tố quyết định.
Cán bộ là người định ra đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà
nước và vận động tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra, đưa đất
nước ngày càng phát triển và tiến bộ. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng
cần có một đội ngũ cán bộ thích ứng, vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có năng lực để
đáp ứng được sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng. Hiện nay đất nước ta đang bước
sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong bối cảnh có những thời

cơ, thuận lợi mới, nhưng cũng có nhiều khó khăn, thách thức mới. Nhiệm vụ cách

Footer Page 10 of 126.


Header Page 11 of 126.

mạng mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng được một đội
ngũ cán bộ ngang tầm, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng cao. Chính vì
thế, trong điều kiện cách mạng hiện nay, đạo đức cần phải được nhấn mạnh trong
mỗi con người, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước và các tổ chức
đoàn thể quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, làm cách mạng để cải tạo xã hội
cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ
rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Vì vậy, người cán bộ có
đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không lùi bước. Vì
lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc người cán bộ sẽ
không ngần ngại hy sinh lợi ích của cá nhân mình. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cả
tính mạng của mình cũng không tiếc. Trong mọi hoàn cảnh khi thuận lợi, thành
công cũng như lúc gặp khó khăn gian khổ họ luôn thể hiện tinh thần "Lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ"; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Họ
ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính
sách của Đảng; đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên lợi ích riêng
của cá nhân mình; hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi công
việc, biết hòa mình với quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, từ lời nói đến
việc làm đều làm cho dân tin, dân phục, dân yêu.
Như vậy, đạo đức không thể thiếu đối với mỗi người và càng không thể
thiếu đối với mỗi cán bộ. Nó giúp cho người cán bộ nhìn đúng, làm đúng. Đạo đức

cách mạng là động lực thôi thúc nội tâm của người cán bộ vượt lên mọi khó khăn để
nâng cao trình độ trí tuệ, không có động lực này thì khó có thể nâng cao được trình
độ cho bản thân, hoặc nếu có thì rất có thể những hiểu biết và tài năng của họ được
sử dụng nhiều khi không đúng mục đích mà Tổ quốc và nhân dân mong muốn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm nhiều lĩnh vực, phản ánh
gần như toàn bộ những vấn đề quan trọng nhất của sự nghiệp cách mạng nước ta.

Footer Page 11 of 126.


Header Page 12 of 126.

Nhưng có thể nói, vấn đề đạo đức của người cách mạng được Người đặt ở vị trí
hàng đầu và được nói đến nhiều nhất trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng
của mình.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta thấy Người rất đề cao vai trò
của đạo đức. Người coi đạo đức là cái gốc của người cán bộ. Suốt cuộc đời đấu
tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người,
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đạo đức cách mạng, đạo đức làm người. Người nêu
lên những tiêu chuẩn về đạo đức cách mạng và chính Người là một kiểu mẫu về đạo
đức cách mạng. Khi đã trở thành người Cộng sản, Hồ Chí Minh thấy có trách nhiệm
tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu nước đúng đắn cho
người cách mạng Việt Nam. Đồng thời, người truyền thụ đạo đức cách mạng cho
họ. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, ở chương đầu tiên, Người nêu: "Về tư cách
người cách mệnh". Tháng 10 năm 1947, khi Người viết cuốn Sửa đổi lối làm việc,
Người nhấn mạnh đến đạo đức mới, vì chỉ có thực hiện đạo đức mới thì người cán
bộ mới nhận thức đầy đủ ý thức trách nhiệm của mình và hoàn thành nhiệm vụ của
tập thể, của dân tộc, của giai cấp và của loài người.
Người nói: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng không có

đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [34, 252-253].
Trong sự nghiệp cách mạng, một trong những vấn đề Hồ Chí Minh quan
tâm hàng đầu là đạo đức. Suốt đời, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến việc giáo
dục lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng cho những người yêu nước, cho
thanh niên, cho quần chúng, đặc biệt là cho cán bộ đảng viên. Phải khẳng định rằng,
Hồ Chí Minh không chỉ là người giáo dục đạo đức cách mạng, mà còn là hiện thân
của đạo đức cách mạng đã nêu gương cho toàn Đảng, toàn dân ta.
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan
tâm, lo lắng đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng bởi vai trò của họ đối
với quần chúng, đối với sự nghiệp cách mạng là rất lớn. Người cho rằng, người cán

Footer Page 12 of 126.


Header Page 13 of 126.

bộ cách mạng phải có nhiều ưu điểm, nhiều đức tính tốt, khái quát lại là phải có đạo
đức cách mạng và năng lực làm việc. Một cán bộ lãnh đạo quản lý tốt phải được xác
định trên cơ sở tổng hợp một cách biện chứng giữa hai mặt đức và tài. Xét trong
mối quan hệ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đạo đức cách mạng của người cán bộ
là gốc, vì không có đạo đức cách mạng thì có giỏi mấy cũng không làm được cán
bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý của Đảng và Nhà nước. Người thường nhắc nhở cán
bộ, đảng viên rèn luyện đạo đức cách mạng và năng lực làm việc. Người cho rằng,
quần chúng nhân dân theo Đảng không phải vì cái mác "cộng sản" mà là vì tư cách,
đạo đức của người cán bộ cộng sản. Nội dung chủ yếu của đạo đức cách mạng đó
là: xây dựng chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa, chống chủ nghĩa cá nhân, lao động
tự giác, sáng tạo, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư... những tư tưởng đó của
Người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta.
Hồ Chí Minh không phải là người đầu tiên đề cao vị trí, vai trò của đạo đức.

Trước đây hàng chục thế kỷ Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo đều đã đề cao vị trí
của đạo đức, đặc biệt là Khổng giáo. Khổng Tử là một nhà đạo đức lớn. Ông chủ
trương xây dựng một nền chính trị đạo đức lấy chữ "nhân" làm nền tảng. Hồ Chí
Minh đánh giá cao Nho giáo chủ yếu ở đạo đức học. Người cho rằng "Học thuyết
của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân". Nhưng đừng vì
thế mà nghĩ rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cũng giống như tư tưởng đạo
đức của Khổng Tử. Hồ Chí Minh chỉ lấy cái hay, cái đúng của Nho giáo ở chỗ nó
đề cao đạo đức nhưng không phải là thứ đạo đức trừu tượng mà là đạo đức của con
người trần gian, đặc biệt là đạo làm người "tu thân" của Nho giáo là để trở thành
người có nhân, có đức. Về mặt nào đó chữ "nhân" của Nho giáo cũng như quan
niệm về đạo đức của Khổng Tử dễ gần với chủ nghĩa nhân đạo mácxít. Nho giáo đề
ra "cần, kiệm, liêm, chính". Hồ Chí Minh cũng nói tới: Cần, kiệm, liêm, chính,
nhưng với một nội dung khác về cơ bản. Quan điểm Nho giáo đề ra "cần, kiệm,
liêm, chính" là chỉ để người khác thực hiện chứ không phải cho vua, chúa, quan lại
phong kiến thực hiện, như Hồ Chí Minh đã từng có nhận xét. Hồ Chí Minh không

Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.

chỉ là một nhà đạo đức học mà đúng hơn phải nói Người là nhà cách mạng về đạo
đức. Người tiếp thu tất cả những cái hay, cái đúng của Nho giáo về quan điểm đạo
đức, song về cơ bản, Người đã có sự cải tạo lại phát triển lên khiến nó trở thành
những giá trị phù hợp với thực tế Việt Nam, với đường lối cách mạng nước ta. Từ
đó ở Người hình thành một hệ thống quan điểm riêng về đạo đức bổ sung cho quan
điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo thành một triết lý phát triển lấy đạo
đức cách mạng làm nền tảng cho cách mạng nước ta. Triết lý đạo đức Hồ Chí Minh
là triết lý phát triển hướng về con người, thực hiện sự nghiệp cách mạng để giải
phóng con người, nhất là người lao động bị áp bức, bóc lột. Đó cũng là triết lý về

đạo đức thể hiện sự đoàn kết tất cả mọi người cần lao trên thế giới để thực hiện sứ
mệnh cách mạng cao cả là giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, khỏi sự nghèo
nàn, lạc hậu, để xây dựng một xã hội phồn vinh, bình đẳng, dân chủ, văn minh.
Phải chăng, cũng từ bài học của bản thân là nhờ có tấm lòng yêu nước,
thương dân được xem như một động lực lớn, Hồ Chí Minh mới xem đạo đức là cái
gốc của người cách mạng, để từ đó Người đặt vấn đề đạo đức có tầm quan trọng
như một triết lý phát triển của xã hội nói chung, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
nói riêng. ở đây còn có ý nghĩa sâu xa nữa mà có lẽ chúng ta chưa phải ai cũng đã
thấy hết, đó là việc Hồ Chí Minh không chỉ đặt đối tượng của sự nghiệp cách mạng
mà mình theo đuổi là giải phóng con người, mà quan trọng là chủ thể cách mạng
cũng là con người. Con người nói ở đây không phải là một siêu nhân nào đó có sứ
mệnh giải phóng cho người khác mà chính là người dân, người cùng khổ, người bị
áp bức. Tóm lại, "số phận dân ta ở trong tay ta, văn hóa soi đường cho quốc dân đi
"như Hồ Chí Minh khẳng định là với ý nghĩa đó. Nói văn hóa soi đường là nói đến
tầm trí tuệ của mỗi người, yêu cầu về dân trí, nhưng cũng là nói đến vai trò của đạo
đức. Bởi lẽ, nếu thiếu đạo đức thì dù có văn hóa con người cũng không làm nên trò
gì, hơn nữa, đạo đức mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở đây là đạo đức cách mạng. Bản
chất đạo đức cách mạng đã tiềm ẩn một nội lực khiến cho con người phải vươn lên
không ngừng để thực hiện những hoài bão của mình. Hồ Chí Minh là một tấm
gương như vậy và Người mong muốn mọi người cũng như mỗi người, nghĩ đến

Footer Page 14 of 126.


Header Page 15 of 126.

thân phận của mình và số phận của dân ta thì trước hết phải tự mình nâng mình lên,
tự mình phát huy mọi tiềm năng mà mình có được để phụng sự cho nước, cho dân
trong đó có bản thân mình.
Hồ Chí Minh được mọi người tôn vinh là siêu nhân và chính Người đã có

nhiều công lao vĩ đại đối với đất nước ta, nhân dân ta và cả thế giới. Thế nhưng Hồ
Chí Minh lại không bao giờ xem mình là siêu nhân. Điều đó chẳng những xuất phát
từ phẩm chất khiêm tốn của Người mà còn xuất phát từ một quan niệm về triết lý
phát triển, xem sự nghiệp cách mạng là công việc của mọi người, của dân và do
dân. Một người dù tài giỏi đến mấy nếu không có nhân dân cũng không làm gì
được. Chỉ có nhân dân mới là nhân tố quyết định của phát triển. Đó là một quan
điểm mới về triết lý phát triển mà không phải ai cũng thấy, cũng quán triệt được
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng của mình. Đây là một nội dung đạo
đức hết sức quan trọng hầu như chúng ta chỉ thấy rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
bởi lẽ, Hồ Chí Minh không chỉ nói mà chính Người đã làm như vậy. Bản thân người
là một hình ảnh sinh động của triết lý xem đạo đức như một động lực của phát triển
xã hội nói chung, của sự nghiệp cách mạng nước ta nói riêng.
Nhìn lại thực tế lịch sử của dân tộc, chúng ta có thể thấy rõ chỉ những triều
đại nào biết dựa vào dân, coi dân thực sự là gốc của nước, dân mới là sức mạnh
"vừa có khả năng đẩy thuyền vừa có khả năng lật thuyền", thì triều đại đó sẽ chẳng
những đứng vững được mà còn vượt qua được những sóng gió, giữ cho đất nước
được độc lập, thịnh vượng, nhân dân được tự do. Đó là những tấm gương của Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung và nhiều vị vua hiền, tôi giỏi khác.
Đương nhiên, không chỉ có đạo đức mà phải nói đến tài năng vốn được xem là một
điều kiện cũng có vai trò quyết định trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Song, như Hồ Chí Minh đã từng nói giữa đức và tài thì đức cần có trước, bởi
lẽ, nếu không có đức thì dù có tài cũng không thể làm gì, thậm chí có tài mà không
có đức có khi còn trở thành tai họa cho dân, cho cách mạng.
Nhìn lại sự nghiệp cách mạng nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám đến
nay, chúng ta càng thấy rõ quan điểm xem "đạo đức là gốc của người cách mạng"

Footer Page 15 of 126.


Header Page 16 of 126.


của Hồ Chí Minh quan trọng và đúng đắn như thế nào. Có thể trước đây khi nói đến
quan điểm xem đạo đức là gốc của người cách mạng, có người còn e ngại nghĩ rằng
chắc Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của Nho giáo nên mới đề cao vai trò của đạo đức
như vậy. Nhưng đến nay, sau những thực tiễn sinh động, nhất là sau thời kỳ đất
nước đổi mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, đồng thời có sự mở cửa giao lưu, hội nhập với thế giới chúng ta mới thấm
thía với những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh trong việc đề cao vai trò của
đạo đức.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Di chúc để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
tiếp tục nhấn mạnh "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên"... Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát
triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân [33,
510-511].
1.1.2. Đặc điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, những yêu cầu
đạo đức của họ trong giai đoạn hiện nay
Cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước là gì? Nó khác với những loại cán bộ
khác như thế nào? Đây là những vấn đề chưa thật được giới nghiên cứu quan tâm.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII), khi
nói về tiêu chuẩn của các loại cán bộ, Đảng ta đã phân cán bộ thành bốn loại: cán
bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ
trang; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý kinh doanh. Như vậy ở đây cán
bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước chưa được phân thành một loại cán bộ riêng biệt
trong mối quan hệ với các loại cán bộ khác. Điều đó chứng tỏ loại cán bộ này vẫn

Footer Page 16 of 126.



Header Page 17 of 126.

có những đặc điểm chung với các loại cán bộ khác, nhất là cán bộ lãnh đạo Đảng và
các đoàn thể nhân dân.
Ngay việc phân biệt hai thuật ngữ "lãnh đạo" và "quản lý" hiện nay cũng
đang có nhiều cách phân biệt và có nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng, lãnh đạo chỉ là một bộ phận, một chức năng của
công tác quản lý. Nghĩa là, quản lý bao trùm trong nó cả công tác lãnh đạo. Đối với
nhà quản lý, lãnh đạo chỉ là một trong những phẩm chất mà thôi.
Cũng có quan điểm lại cho rằng, "lãnh đạo" bao gồm trong nó cả "quản
lý", "quản lý" chỉ là một bộ phận hay một khía cạnh của "lãnh đạo".
Theo Từ điển tiếng Việt (1992): "lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và
tổ chức, đảng viên thực hiện" [42, 540]; còn "quản lý" - một là: trông coi và giữ gìn
theo những yêu cầu nhất định, hai là: tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những yêu cầu nhất định" [42, 789].
Nếu theo cách hiểu trong Từ điển tiếng Việt thì rõ ràng lãnh đạo bao trùm
lên quản lý và quản lý chẳng qua là thực thi một nhiệm vụ nào đó được cấp trên chỉ
đạo, được lãnh đạo. Nghĩa là, quản lý không chỉ là một bộ phận cấu thành công tác
lãnh đạo mà quản lý thực chất là sự triển khai cụ thể của lãnh đạo.
Trong luận văn này chúng tôi không có ý phân biệt giữa lãnh đạo và quản
lý. Hai thuật ngữ này được dùng đôi khi thay thế nhau trong các văn cảnh tương
thích không phân biệt.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước ở đây chúng tôi muốn nói tới những
người có chức vụ, quyền hạn, sử dụng chức vụ, quyền hạn mà Nhà nước giao cho
để thực hiện những nhiệm vụ của Nhà nước, quản lý, điều tiết xã hội. Khái niệm
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước có liên quan tới khái niệm cán bộ công chức Nhà
nước.
Cán bộ công chức Nhà nước bao gồm những người trong biên chế, hoặc

được tuyển dụng, bổ nhiệm. Họ là những người hoặc được giao nhiệm vụ thường

Footer Page 17 of 126.


Header Page 18 of 126.

xuyên, hoặc những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ hưởng
lương từ ngân sách Nhà nước và làm việc trong các nhiệm sở của Nhà nước, các tổ
chức chính trị, xã hội; những người là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp đang làm
việc trong các cơ quan quân đội, công an. Như vậy đội ngũ cán bộ, công chức
không phải chỉ có những người làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước,
mà cả những người làm việc trong các cơ quan Nhà nước khác, miễn là họ có đặc
điểm chung: giữ một công việc thường xuyên, được xếp vào ngạch bậc cán bộ công
chức nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Thực tiễn lãnh đạo, quản lý nhà nước trong thời gian qua đã khẳng định
rằng muốn công việc Nhà nước được thông suốt, thống nhất, kịp thời, linh hoạt
không thể không cần có một đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp có đủ phẩm
chất và năng lực.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước là những người có chức vụ, quyền hạn
để thực thi quyền lực của Nhà nước. Trong chế độ ta chức vụ quyền hạn, quyền lực
Nhà nước không phải là của bản thân người cán bộ, của bản thân Nhà nước. Quyền
lực Nhà nước vốn là quyền lực công cộng của xã hội, của nhân dân "trao cho", ủy
nhiệm cho. Những người cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước được nhân dân và xã
hội "ủy nhiệm" thay mặt xã hội, thay mặt nhân dân để quản lý xã hội.
Xã hội muốn vận động, phát triển đòi hỏi phải có sự tổ chức và quản lý chặt
chẽ. Xét về nguyên tắc và xu thế phát triển thì mọi thành viên trong xã hội đều tham
dự vào quá trình này. Đây là xu thế tất yếu trong chủ nghĩa xã hội. Nhưng trên thực
tế, thực hiện đầy đủ nguyên tắc này lại là một quá trình lịch sử lâu dài, đòi hỏi quần
chúng nhân dân phải có một mặt bằng dân trí cao và có một trình độ phát triển kinh

tế, văn hóa cao. Lúc đó việc quản lý nhà nước sẽ không còn là "chức năng đặc biệt
của lớp người đặc biệt" nữa. Trong tình hình hiện nay, nhất là ở nước ta còn rất
cần thiết phải có một bộ máy quản lý chuyên nghiệp bao gồm một đội ngũ cán bộ,
viên chức thành thạo chuyên môn nghiệp vụ quản lý, tận tâm tận lực phục vụ lợi ích
chung của nhân dân, của xã hội.

Footer Page 18 of 126.


Header Page 19 of 126.

Như vậy cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước vẫn là một tầng lớp đặc biệt
được trao cho những quyền hạn và quyền lực nhất định, nhưng quyết họ không phải
là tầng lớp đặc biệt "có đặc quyền đặc lợi". Sử dụng chức quyền và việc lợi dụng,
lạm dụng chức quyền là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, là Nhà nước mà tất cả
quyền lực của nó đều thuộc về nhân dân. Khi nói về bản chất của Nhà nước ta Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của
dân, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Quyền hành và lực
lượng đều ở dân" [34, 199].
Để thể hiện và thực hiện được bản chất của Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đòi hỏi người cán bộ Nhà nước phải là "công bộc", là "người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân".
Được nhân dân "ủy quyền", "trao cho" do đó Nhà nước, cũng như cán bộ
lãnh đạo, quản lý nhà nước là những người có chức vụ, quyền hạn, có quyền lực
trong xã hội và do đó cũng rất dễ dẫn tới sự chuyển hóa từ chỗ là công bộc, công cụ
của nhân dân trở thành "ông chủ" đứng lên trên xã hội đè đầu cưỡi cổ nhân dân;
rất dễ coi quyền lực được ủy quyền là quyền lực của mình và sử dụng nó nhằm
mục đích trục lợi. Do đó, đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước bên

cạnh những yêu cầu cần phải có năng lực để thực thi nhiệm vụ, còn đòi hỏi phải
có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, tận tâm vì tập thể, hết lòng hết sức vì nhân
dân, có tinh thần trách nhiệm cao nhất trước nhân dân.
Trong suốt quá trình cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã hết
sức quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ nói chung, cán bộ
lãnh đạo quản lý nhà nước nói riêng. Nói về tiêu chuẩn của người cán bộ, Đảng ta
luôn thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: coi trọng cả đức và tài,
trong đó đức là gốc.

Footer Page 19 of 126.


Header Page 20 of 126.

Hiện nay đất nước ta đang bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi mới, nhưng cũng có nhiều
khó khăn thách thức mới. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức
tạp, đặt ra rất nhiều vấn đề cho công tác cán bộ, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng
được đội ngũ cán bộ ngang tầm, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng,
năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn, góp phần thực hiện thành công hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng mới. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 (khóa VIII) đã
đề ra những tiêu chuẩn chung cho đội ngũ cán bộ là:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, có tinh thần phục vụ nhân dân, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có hiệu quả đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn
bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.

- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, nắm vững quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn,
đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa, trước sự cám dỗ của tiền tài,
vật chất, trước những đòn tiến công hiểm độc của các thế lực thù địch, nhiều cán bộ
lơi lỏng tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu, bị thoái hóa biến chất về phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống... thì việc tiếp tục nhấn mạnh đức là gốc là hoàn toàn đúng đắn và
cần thiết.
Từ đại hội toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã khẳng định quan điểm, đường
lối của Đảng là lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Đạo đức cách mạng được hình

Footer Page 20 of 126.


Header Page 21 of 126.

thành và phát triển trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
đồng thời kế thừa truyền thống đạo đức của dân tộc. Đó là sự kết hợp giữa bản chất
cách mạng của giai cấp vô sản, những tinh hoa của văn hóa, văn minh nhân loại và
những nét ưu việt trong truyền thống đạo đức của dân tộc. Sự kết hợp đó tạo nên
một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam. Muốn xây dựng được nền đạo
đức mới cho toàn xã hội thì trước hết đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước phải là
lực lượng tiên phong, là tấm gương cho toàn thể quần chúng nhân dân. Để làm tròn
nhiệm vụ vẻ vang của mình thì mỗi cán bộ phải không ngừng học tập, rèn luyện,
trau dồi phẩm chất cách mạng.
Đạo đức cách mạng không phải là những tiêu chuẩn trừu tượng, mà gắn với
yêu cầu đặc điểm của từng thời kỳ cách mạng. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, những yêu cầu đặt ra về phẩm chất đạo đức của người

cán bộ nói chung và của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước nói riêng là:
Thứ nhất, Có lòng trung thành với Tổ quốc, với Đảng, tin tưởng vào sự
nghiệp đổi mới của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phấn đấu tích cực
góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phẩm chất này là cái gốc của người cán bộ nói chung và người cán bộ lãnh
đạo, quản lý nhà nước nói riêng, là chuẩn mực và giá trị cao nhất về đạo đức cách
mạng của người cán bộ, nó phải được trở thành tình cảm và ý chí cách mạng của
mỗi người cán bộ. Bởi vậy, sự tự rèn luyện để có được tình cảm tốt đẹp của bản
thân mỗi cán bộ là công việc của chính họ. Làm sao để trái tim mỗi người cán bộ
rung động trước niềm vui của dân tộc cũng như đau buồn trước cảnh nghèo nàn và
lạc hậu của quần chúng nhân dân, coi đó như niềm vui và nỗi buồn của chính bản
thân, gia đình mình. Phải có tình cảm cách mạng đó thì mới thôi thúc người cán bộ
hăng say làm việc, tìm cách hoàn thành nhiệm vụ. Không có sự say sưa thì không
thể có sự tìm tòi sáng tạo. Nhờ có ngọn lửa nhiệt tình cách mạng mà có sự say sưa
với công việc và sáng tạo trong hành động, tìm kiếm những phương án tối ưu cho
công việc. Bất luận vì nguyên cớ gì mà để ngọn lửa nhiệt tình, lý tưởng hoài bão tắt

Footer Page 21 of 126.


Header Page 22 of 126.

đi, chắc chắn không thể có điều kiện để nâng cao và thâu tóm được tri thức. Giai
đoạn cách mạng hiện nay, hơn bao giờ hết cần phải có nhiệt tình cách mạng một
cách bền bỉ, lặng lẽ nhưng lại là sự đấu tranh quyết liệt với bản thân trước những
ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, một cơ chế thường làm triệt tiêu nhiệt
tình cách mạng của mỗi người, làm tăng động lực cho chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa cơ hội, óc vị kỷ.
Nhiệt tình cách mạng của mỗi người cán bộ là biểu hiện của tính nhân văn

cao cả. Để bảo vệ con người chống lại những hành vi "phi nhân tính", người cán bộ
không ngần ngại chấp nhận sự hy sinh. Tình cảm và ý chí cách mạng tạo cho người
cán bộ lãnh đạo dũng cảm dám nhìn thẳng vào sự thật, đấu tranh bảo vệ cái đúng,
chống lại cái sai không vì lợi ích, địa vị cá nhân hoặc do sự áp đặt cá nhân độc đoán
nào chi phối.
Thứ hai, Cán bộ phải trau dồi chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa quan liêu và thói đặc quyền, đặc lợi.
Chủ nghĩa tập thể đòi hỏi mọi người gắn bó đoàn kết để tạo nên sức mạnh
to lớn của cách mạng. Sự đoàn kết gắn bó chặt chẽ đó phải đi liền với sự tôn trọng
cá nhân, không lấy danh tập thể coi thường cá nhân, sáng kiến của cá nhân, xâm
phạm nhân cách cá nhân... Chủ nghĩa tập thể phải tạo điều kiện thuận lợi đúng
hướng cho sự phát triển tiến bộ của cá nhân, cho sự tự do sáng tạo cũng như phát
triển cá tính, nhân cách phong phú của mỗi con người.
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể
phải được kết hợp và giải quyết một cách hài hòa giữa quyền lợi và nghĩa vụ, lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể theo phương châm "Mỗi người vì mọi người, mọi
người vì mỗi người". Phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân, vì nó là thứ bệnh
rất nguy hiểm đẻ ra hàng loạt những căn bệnh khác, như tham ô, hối lộ, hủ hóa, đặc
quyền, đặc lợi, lãng phí của công, công thần địa vị, kéo bè, kéo cách, tự do vô tổ
chức vô kỷ luật, cơ hội, xu nịnh, bợ đỡ, quan liêu, với rất nhiều biểu hiện xấu xa tệ
hại như mệnh lệnh, cửa quyền, giấy tờ, quan cách, hách dịch, gia trưởng, độc đoán

Footer Page 22 of 126.


Header Page 23 of 126.

chuyên quyền, ức hiếp quần chúng, đẳng cấp, xa quần chúng, xa thực tế, vô trách
nhiệm, bảo thủ, trì trệ...
Chủ nghĩa cá nhân và bệnh quan liêu là kẻ địch ở bên trong con người "một

thứ giặc trong lòng chúng ta". Nó thường ẩn náu kín đáo, hơn nữa còn được bao che
bởi chính chúng ta. Do đó, yêu cầu mọi người phải kiên quyết chống lại, phải quét
sạch nó đi. Muốn củng cố nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ phải chống chủ
nghĩa cá nhân, tham nhũng, quan liêu. Đây là công việc vừa mang tính cấp bách
vừa mang tính cơ bản trong chiến lược xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức
Đảng của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người giữ cương vị trọng trách
trong hệ thống chính trị, trong Nhà nước.
Thứ ba, Cán bộ phải gương mẫu, trung thực trong lao động, cần kiệm, liêm
chính, chí công, vô tư.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải: cần, kiệm,
liêm, chính, chí công tô tư. "Cần" là cần cù trong lao động, biết khuyến khích và
giúp đỡ người khác làm tốt công việc. "Cần" trong giai đoạn hiện nay còn phải là
tích cực, chủ động, sáng tạo trong công việc được giao, mang lại hiệu quả cao trong
công việc mình đảm nhiệm. Tính hiệu quả là yêu cầu bức thiết trong điều kiện kinh
tế thị trường, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước. Cho nên, "cần"
trong giai đoạn hiện nay là yếu tố không thể thiếu được đối với người cán bộ lãnh
đạo, quản lý nhà nước.
"Kiệm" có nghĩa là không hoang phí thời gian, của cải của mình và của
nhân dân. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm trong sản xuất để mang lại hiệu quả sản
xuất cao. Tiết kiệm trong đời sống, trong sinh hoạt, tránh xa hoa, lãng phí của cải
của cá nhân, gia đình và xã hội. Những điều đó vẫn giữ nguyên giá trị và vai trò
trong điều chỉnh hành vi của cán bộ, đảng viên hiện nay. Tuy nhiên, cũng phải có
sự đổi mới nhận thức, không nên hiểu chữ "kiệm" với nghĩa hạn hẹp, đòi hỏi cán bộ
quản lý phải "thắt lưng, buộc bụng", "nắm cơm với quả cà" để xây dựng CNXH,
cán bộ không được mua sắm và sử dụng những phương tiện hiện đại... Cái chúng ta

Footer Page 23 of 126.


Header Page 24 of 126.


cần đấu tranh, giáo dục đối với cán bộ là lối sống gấp, sự xa xỉ, lãng phí chạy theo
thị hiếu không lành mạnh về văn hóa và đạo đức.
"Liêm" là không tham ô, tôn trọng tài sản của công dân và của nhân dân.
Chúng ta muốn xây dựng thành công CNXH thì trước hết đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý nhà nước phải là tấm gương về "liêm". Cán bộ lãnh đạo, quản lý không
nghiêm, vi phạm các thói xấu như tham ô, móc ngoặc, hối lộ, tư lợi bất minh... thì
không mang lại được niềm tin cho quần chúng, làm suy yếu xã hội. Đây chính là
một trong những vấn đề nhức nhối hiện nay ở nước ta mà Chính phủ xem là một tệ
nạn xã hội. Nhiều cán bộ lãnh đạo quản lý trở thành tội phạm chỉ vì danh lợi bất
minh, bất "liêm".
"Chính" là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh.
Tức là đòi hỏi cán bộ phải có tính thẳng thắn, trung thực, làm theo lẽ phải, đấu
tranh chống sự giả dối, không trung thực, cơ hội, lợi dụng chức quyền làm việc bất
minh. Đó chính là một trong những phẩm chất tư cách tốt của người cán bộ lãnh
đạo quản lý nhà nước. Ngày nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, cán bộ lãnh đạo
quản lý nhà nước càng cần phải được giáo dục, rèn luyện phẩm chất đó.
"Chí công vô tư" trong điều kiện kinh tế thị trường được hiểu với nghĩa
quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người bao giờ cũng gắn với xã hội, không tách rời,
cô lập một cách tuyệt đối khỏi lợi ích xã hội. Hoạt động của cá nhân phải trên cơ sở
nền tảng của xã hội, vì xã hội trong đó có quyền lợi trực tiếp của bản thân mình.
Trong từng nhiệm vụ cụ thể, mọi người phải lấy lợi ích chung của tập thể, của quốc
gia, của dân tộc đặt lên trên lợi ích cá nhân mình. Cán bộ lãnh đạo quản lý không
được vì quyền lợi (nhất là quyền lợi không chính đáng) của riêng bản thân mình mà
vi phạm tới lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia. Chí công vô tư với nghĩa như vậy vẫn
phải là nội dung giáo dục và xây dựng đạo đức cho cán bộ lãnh đạo quản lý nhà
nước ở nước ta hiện nay
Thực tế cho thấy, sự hiểu biết kết hợp với nhiệt tình cách mạng là cơ sở,
điều kiện tạo nên hành động đúng đắn của người cán bộ. Chính bằng hành động,


Footer Page 24 of 126.


Header Page 25 of 126.

bằng những việc làm cụ thể, bằng tấm gương của mình về cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư cán bộ sẽ thuyết phục, quy tụ, tổ chức được mọi người xung quanh
thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Sẽ là giả dối và lý
thuyết suông khi cán bộ "nói một đằng làm một nẻo", nói những điều viển vông
trừu tượng mà không chú ý giải quyết những công việc đời thường. Có người
thường dạy dỗ người khác những điều to tát nhưng khi phải ủng hộ lẽ phải, bảo vệ
lợi ích chân chính cho một con người cụ thể, mà việc đó đụng chạm đến lợi ích, địa
vị của mình thì họ lại né tránh, làm như vậy họ tự đánh mất mình và làm mất đi
lòng tin và sự tín nhiệm của mọi người. Người Việt Nam giàu tình cảm và rất thực
tế, họ coi một tấm gương sáng của người cán bộ, có giá trị gấp trăm, gấp nghìn lần
lời lẽ tuyên truyền đẹp đẽ nhưng lại không thực tế. Phẩm chất đạo đức có sức thuyết
phục nhất của người cán bộ hiện nay là tấm gương, là hành vi gương mẫu, là lòng
trung thực của họ. Khi người cán bộ không còn trong sáng, phẩm chất đạo đức giảm
sút, hành động không xuất phát từ trách nhiệm phục vụ nhân dân, mà đặt quyền lợi
của cá nhân lên trên hết, thì tất yếu dẫn đến hành vi tham nhũng, vụ lợi, vị kỷ, vô
trách nhiệm...
Thứ tư, Cán bộ có tinh thần nỗ lực học tập, cần cù, có chí tiến thủ. Công
cuộc đổi mới của đất nước ta là sự nghiệp to lớn và khó khăn, đòi hỏi mọi cán bộ
phải học hỏi nắm vững kiến thức, mà trước hết là kiến thức trong lĩnh vực hoạt
động của mình, khắc phục được chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm.
Đảng ta coi việc nỗ lực học tập, cầu tiến bộ của cán bộ cũng là một phẩm chất đạo
đức cách mạng. Đảng ta cho rằng: "Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán
bộ, đảng viên và phải được quy định thành chế độ. Lười học tập, lười suy nghĩ,
không thường xuyên tiếp nhận những thông tin mới, những hiểu biết mới, cũng là
biểu hiện của sự thoái hóa" [5, 141]. Nếu người cán bộ ngại học tập, thỏa mãn với

những trí thức đã có thì sẽ dẫn đến sự lạc hậu, không tiên phong về trí tuệ, do đó
không đủ khả năng để lãnh đạo quần chúng nhân dân vượt qua những thử thách
mới.

Footer Page 25 of 126.


×