Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Vai trò của gia đình trong việc giáo dục vị thành niên về hành vi ứng xử (Nghiên cứu tại huyện Thanh Trì – Hà Nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HẠNH

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC
GIÁO DỤC VỊ THÀNH NIÊN VỀ HÀNH VI ỨNG XỬ
(Nghiên cứu trƣờng hợp tại Huyện Thanh Trì, Hà Nội)

Chuyên ngành

: Xã hội học

Mã số

: 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS ĐẶNG CẢNH KHANH

Hà Nội, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ: “Vai trò của gia đình trong việc
giáo dục vị thành niên về hành vi ứng xử” – Nghiên cứu tại huyện Thanh
Trì – Hà Nội là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu được trích
dẫn trong đề tài đều được ghi nguồn cụ thể. Số liệu nghiên cứu được trích


dẫn trong đề tài là số liệu nghiên cứu thực địa tại huyện Thanh Trì thành phố
Hà Nội từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2016.
Học viên

Trần Thị Hạnh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn
khoa học: Giáo sư – tiến sĩ Đặng Cảnh Khanh đã tận tìn chỉ bảo, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu này.
Tôi cũng xin cảm ơn Học viện khoa học xã hội Việt Nam – Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện tốt nhất cho chúng tôi trong
suốt quá trình theo học ở đây.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo – những người đã truyền
đạt cho tôi những kiến thức vô cùng bổ ích trong quá trình học tập.
Tôi xin cảm ơn các thầy giáo tham gia Hội đồng xét duyệt đề cương
luận văn đã có những ý kiến hết sức quý báu để tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo và nhân dân huyện Thanh Trì đã
tạo điều kiện cho tôi tiến hành khảo sát và nghiên cứu tại địa phương.
Tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình hỗ trợ tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình, những người thân yêu của
tôi đã luôn ủng hộ, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để
hoàn thành luận văn này.
Học viên

Trần Thị Hạnh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ............................................. 15
1.1 Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 15
1.2 Lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu của đề tài ........................................ 22
1.3 Đặc điểm tâm, sinh lý tuổi Vị thành niên ............................................... 26
Chƣơng 2:THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦAGIA
ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC HÀNH VI ỨNG XỬ CHO VỊ THÀNH NIÊN
TẠI HUYỆN THANH TRÌ HIỆN NAY .................................................... 33
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu, đặc điểm của vị thành niên và gia đình .. 33
2.2 Thực trạng việc thực hiện giáo dục hành vi ứng xử cho vị thành niên trong
các gia đình tại huyện Thanh Trì hiện nay ..................................................... 43
2.3 Sự tiếp nhận và ảnh hưởng của những nội dung, phương pháp giáo dục
hành vi ứng xử đến thái độ, hành vi của vị thành niên .................................. 68
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC VIẾT TẮT
BLDS

:

Bộ luật Dân sự

BLHS

:


Bộ luật Hình sự

CBNN

:

Cán bộ nhà nước

NTL

:

Người trả lời

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học Phổ thông

VTN

:


Vị thành niên


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Mức độ khi xảy ra mâu thuẫn của các mối quan hệ trong gia đình (%) ....42
Bảng 2.2. Mức độ quan tâm của bố/mẹ đối với NTL (%) ...........................................49
Bảng 2.3. Tương quan Hành vi ứng xử được gia đình lựa chọn giáo dục cho NTL *
Mức sống(%) .....................................................................................................................51
Bảng 2.4. Tương quan Phương pháp giáo dục của gia đình * Trình độ học vấn của
cha/ mẹ NTL (%) ..............................................................................................................61
Bảng 2.5. Tương quan Hình thức khen thưởng * Mức sống của gia đình (%) ..........67
Bảng 2.6. Thái độ, hành vi tiếp nhận của VTN đối với nội dung, phương pháp dục
của gia đình (%) ................................................................................................................74


DANH MỤC BIỂU
Biểu đồ 2.1. Số thế hệ đang cùng sinh sống trong gia đình NTL (%) ........... 38
Biểu đồ 2.2. Đánh giá của VTN về mức sống của gia đình (%) .................... 39
Biểu đồ 2.3. Trình độ học vấn của bố và mẹ NTL (%) .................................. 40
Biểu đồ 2.4. Đánh giá của VTN về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình NTL (%) ................................................................................................. 41
Biểu đồ 2.5. Cách xử lý của bố mẹ khi NTL không thực hiện theo yêu cầu
hoặc mắc lỗi (%) ............................................................................................ 63
Biểu đồ 2.6. Hình thức khen thưởng của gia đình đối với NTL (%) ............. 66
Biểu đồ 2.7. Tương quan Giới tính của NTL * Đánh giá về sự cần thiết của
những nội dung bố mẹ giáo dục (%) .............................................................. 70
Biểu đồ 2.8. Tương quan Tuổi của NTL* Đánh giá về sự cần thiết của những
nội dung bố mẹ giáo dục (%) ......................................................................... 70
Biểu đồ 2.9. Tương quan Giới tính của NTL* Đánh giá về sự phù hợp của
phương pháp giáo dục hành vi ứng xử (%) ................................................... 72

Biểu đồ 2.10. Tương quan Tuổi của NTL* Đánh giá về sự phù hợp của
phương pháp giáo dục hành vi ứng xử (%) ................................................... 72
Biểu đồ 2.11. Tương quan thái độ, hành vi tiếp nhận * Giới tính NTL (%) . 76
Biểu đồ 2.12. Tương quan Giới tính của NTL * Tự đánh giá về sự ảnh hưởng
của nội dung và phương pháp giáo dục gia đình đến tính cách và hành vi của bản
thân (%) ........................................................................................................... 77
Biểu đồ 2.13. Tương quan Tuổi của NTL * Tự đánh giá về sự ảnh hưởng của nội
dung và phương pháp giáo dục gia đình đến hành vi của bản thân (%) .............. 78


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi con người được chăm lo cả về thể
chất, trí tuệ, nhân cách, đạo đức để hòa nhập vào cuộc sống. Gia đình là môi
trường giáo dục đầu tiên, là trường học đầu tiên của con người. Tuy không
phải là thiết chế duy nhất có chức năng giáo dục nhưng giáo dục gia đình có
vai trò quan trọng nhất, ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành nhân cách
của mỗi người. Giáo dục của nhà trường, xã hội chỉ có hiệu quả khi có giáo
dục từ gia đình làm cơ sở.
Trong những năm qua, công tác gia đình đã được Đảng và Nhà nước ta
rất chú trọng: hàng loạt các văn bản chính sách, luật về gia đình được ban
hành; chất lượng đời sống gia đình được nâng lên cả về kinh tế, điều kiện
chăm sóc sức khỏe và đời sống tinh thần được cải thiện rõ rệt; đặc biệt là sự
biến đổi lớn về quy mô cấu trúc gia đình.Tuy nhiên, trong bối cảnh gia đình
đã có nhiều thay đổi tích cực nhưng một số chức năng của gia đình lại suy
giảm đặc biệt là chức năng giáo dục.Điều này được thể hiện rõ bởi sự gia tăng
tội phạm ở tuổi vị thành niên đang rung lên tiếng chuông cảnh báo cho toàn
xã hội. Khi nền kinh tế thị trường đang len lỏi vào từng gia đình, chức năng
kinh tế của gia đình được đề cao thì chức năng giáo dục đã và đang được gia
đình chuyển hoặc phó mặc giáo dục trẻ em cho nhà trường và xã hội. Một số

phụ huynh đã biến nhà trường thành“nhà giữ trẻ lớn” mà không biết rằng
chẳng gì có thể thay thế được giáo dục gia đình. Bởi lẽ, gia đình, cha mẹ là
trường học đầu tiên đối với cuộc đời mỗi con người, là môi trường gần gũi
nhất về không gian và lâu dài về thời gian có ảnh hưởng lớn tới sự hình thành,
phát triển nhân cách con trẻ.
Hiện nay, khi sự hội nhập của các nền văn hóa trên thế giới đang diễn
ra một cách nhanh chóng, sự phát triển của khoa học công nghệ đang hiện hữu
1


trong cuộc sống từng gia đình, nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang dần mai
một, sự buông lỏng quản lí, giáo dục của gia đình đã và đang tác động không
nhỏ đến hành vi ứng xử của trẻ em, đặc biệt là trẻ ở tuổi vị thành niên.
Vị thành niên là một giai đoạn ngắn nhưng lại hết sức quan trọng đối
với cuộc đời của mỗi con người. Đó là giai đoạn chuyển tiếp giữa con người
với tư cách là trẻ thơ cần được bảo vệ chăm sóc và giáo dục sang con người
với tư cách là những công dân trưởng thành có thể chịu trách nhiệm trước xã
hội và luật pháp về mọi hành vi của mình. Giai đoạn chuyển tiếp tưởng chừng
giản đơn và ngắn ngủi này bao giờ cũng để lại những dấu ấn mạnh mẽ không
dễ mờ phai suốt cuộc đời của mỗi người. Từ những gì ghi nhận được từ tuổi
vị thành niên, con người bắt đầu sự dấn thân thực sự vào cuộc sống và hoàn
thiện nốt những gì được gọi là xã hội hoá trong suốt những năm tháng tiếp
theo của đời người.
Chính vì vậy, việc giáo dục trẻ lứa tuổi vị thành niên là một công việc
khó khăn, đòi hỏi tính kiên nhẫn, sự hiểu biết về các đặc điểm tâm lý lứa tuổi
này. Trong đó quá trình giáo dục, nội dung, phương pháp giáo dục của gia đình
là một trong những yếu tố có tính chất quyết định.Trước thực tế đó, tác giả lựa
chọn đề tài “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục vị thành niên về hành vi
ứng xử” – Nghiên cứu trường hợp tại huyện Thanh Trì, Hà Nội nhằm tìm hiểu
vai trò của gia đình trong sự phát triển toàn diện của trẻ vị thành niên.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1 Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Gia đình có vị trí quan trọng trong sự phát triển và ổn định của xã
hội,nên từ lâu trong lịch sử tư duy của nhân loại, vấn đề gia đình đã nhận
được sự quan tâm của rất nhiều các nhà tư tưởng, nhà chính trị, các triết gia
và những lực lượng tiên tiến trong xã hội.

2


Một trong những nhà nghiên cứu xã hội học đầu tiên về gia đình là nhà
Xã hội học Pháp August Comte (1798 - 1857).Trong khi phân tích xã hội dưới
dạng cơ cấu của nó, A.Comte cố gắng xác định vị trí và chức năng của gia
đình trong sự vận động của tổng thể xã hội. Chia xã hội thành hai phần cấu
trúc cơ bản là tĩnh học xã hội (phần cơ cấu chức năng) và động học xã hội
(phần lịch sử), A.Comte cho rằng gia đình vừa nằm trong phần cơ cấu tĩnh
của xã hội tức là có vị trí, vai trò, chức năng quan trọng trong xã hội, lại vừa
nằm trong phần động của xã hội (tức là vận động và biến đổi cùng với các sự
kiện lịch sử). Chính vì vậy, ông cũng cho rằng gia đình là công cụ xã hội hoá
cá nhân, chuẩn bị cho con người bước vào cuộc sống xã hội, là trường học
đầu tiên của cá nhân con người trước khi bước vào đời sống xã hội.Gia đình
là một thành phần xã hội cơ bản và quan trọng nhất làm nên diện mạo của xã
hội. Cơ sở gắn bó gia đình trong xã hội là kết quả sự tác động tương hỗ giữa
các gia đình với nhau trên cơ sở những sự phân công lao động. [31,tr.171]
Đặt gia đình trong bối cảnh chung của một cơ cấu xã hội tổng thể, nhà
xã hội học Pháp E. Durkheim coi gia đình là một đơn vị xã hội quan trọng
nhất tạo nên cái mà ông gọi là sự “Đoàn kết xã hội”. Theo ông nếu xã hội
hiện đại đang tiến dần từ sự đoàn kết cơ học sang sự đoàn kết hữu cơ dựa trên
tính tự giác của con người thì gia đình cũng như vậy. Nó cũng vận động, phát
triển trên cơ sở duy trì các vị thế và vai trò của nó. Là người đặt nền móng

cho quan điểm chức năng luận trong xã hội học, Durkhem nhấn mạnh tới các
chức năng của gia đình trong sự vận hành của hệ thống xã hội. Trong tác
phẩm nổi tiếng và mang tính kinh điển xã hội học của mình là “Nạn tự tử”
Durkheim đã phân tích gia đình trong điều kiện của những sai lệch chuẩn mực
xã hội mà ông gọi chung là hiện tượng “anomie”. Sự khủng hoảng của gia
đình theo Durkheim chính là việc không duy trì được các chức năng của chính
gia đình. Theo ông, nạn tự tử xuất hiện cũng là biểu hiện của chính sự phá vỡ
chức năng mà ông đã nhấn mạnh trên.
3


Các nhà Xã hội học đã phát minh quá trình xã hội hóa (Biến con người
sinh vật thành con người xã hội) và cho rằng quá trình này diễn ra đầu tiên là
trong gia đình (Điều này khá gần với quan điểm về giáo dục của Nho giáo).
Xã hội hóa là quá trình mà trong đó, trước hết các giá trị và chuẩn mực và cả
năng lực nhận thức cũng được nội tâm hóa, nghĩa là thấm sâu vào nhân cách
của các cá nhân hành động. Đó là sự lưu truyền mẫu văn hóa trong trình tự
thế hệ. Điều này xảy ra trong hành động vai trò, chủ yếu trong gia đình nhỏ
mà ở đó bố mẹ tác động đến con cái như là những “Người đại diện cho xã hội
hóa” của xã hội. [5]
Trong số những tác giả nghiên cứu về gia đình hiện đại, chúng ta có thể
kể đến Norval Glenn với hàng loạt sách được coi là bán chạy nhất trong
những sách nghiên cứu về gia đình. Norval Glenn đã dành nhiều công sức để
phân tích mổ xẻ gia đình Mỹ thông qua những phân tích định tính và định
lượng khá sâu sắc. Các chỉ báo và chỉ số xã hội học được đưa ra là khá xác
thực với một phương pháp nghiên cứu thực sự khách quan sâu sắc đã giúp chúng
ta hình dung được bộ mặt của gia đình hiện đại xoay quanh sự biến dạng của
những chuẩn mực và giá trị gia đình trước sóng gió của cuộc sống hiện đại.
Gia đình cũng trở thành mối quan tâm của các nhà giáo dục học và văn
hoá học. Giáo sư John Macionis, nhà giáo dục học người Mỹ, đã coi giáo dục

và xã hội hoá cá nhân là những chức năng quan trọng nhất của gia đình. Ông
cho rằng nếu coi nhẹ những chức năng này thì đạo đức xã hội sẽ bị suy giảm.
Trong cuốn “Xã hội học”, Macionis đã chỉ rõ những thiếu hụt đáng kể trong
chức năng giáo dục ở các gia đình Mỹ. [32, pg. 201]
Các nghiên cứu về gia đình của một số nước châu Á thời hiện đại đưa
đến cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về tình hình của các nước xung quanh:
Phân tích số liệu về giao tiếp giữa con cái với cha mẹ ở Nhật Bản, các
nhà Xã hội học Ronald R. Rindfuss, Tim Futing Liao, và Noriko O. Tsuya
4


thấy rằng con trai đầu có xu hướng tuân thủ những giá trị và kinh nghiệm của
gia đình truyền thống. Những người có học vấn cao, đặc biệt là đại học hướng
đến gia đình có xu hướng giảm. So sánh những đặc điểm ưa thích đối với con
trai và con gái, các tác giả thấy rằng vẫn có sự khác biệt. Ví dụ trong một
cuộc điều tra Xã hội học có 51% người trả lời muốn con trai của họ có tính
độc lập, nhưng chỉ có 20% muốn con gái của họ như vậy.
Gia đình ở Nhật Bản có thể chậm biến đổi. Sau chiến tranh thế giới thứ
hai, hệ thống luật gia đình mới thay thế luật gia đình của Minh Trị Thiên
Hoàng. Luật mới đã phối hợp những giá trị dân chủ hơn, như đối xử công
bằng với phụ nữ trong gia đình về thừa kế tài sản. Cùng với những thay đổi về
luật pháp này, những thay đổi chủ yếu về kinh tế xã hội, bao gồm quá trình đô
thị hoá nhanh chóng đã ảnh hưởng đến hệ thống gia đình Nhật Bản. Tuy
nhiên, hầu hết các học giả đều nhất trí rằng những giá trị gia đình truyền thống
của Nhật Bản vẫn được bảo lưu khá mạnh và không thay đổi về bản chất.
Gia đình truyền thống Triều Tiên là thiết chế gia đình gia trưởng, trong
đó gia đình như một thực thể được đặt cao hơn các cá nhân thành viên. Chức
năng quan trọng nhất của các thành viên là duy trì và bảo vệ gia đình trong hệ
thống Nho giáo. Theo đó, quan hệ trung tâm của gia đình không phải là quan
hệ giữa vợ và chồng mà là quan hệ giữa cha mẹ và con cái, đặc biệt là giữa

người cha và con trai. Cũng như ở Nhật Bản, những nguyên tắc này của Nho
giáo về các quan hệ gia đình được chiếu vào đời sống cộng đồng và tạo ra
một giá trị xã hội quan trọng.
Trong suốt giai đoạn trước hiện đại hoá, gia đình ở Hàn Quốc về cơ bản
vẫn là Nho giáo. Luật đăng ký gia đình do Nhật Bản thiết lập trong giai đoạn
cai trị được người Triều Tiên chấp nhận. Ngay cả sau khi giải phóng năm
1945, gia đình Hàn Quốc vẫn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của quan hệ
dòng máu và quyền lực của người đàn ông là chủ trong hộ gia đình. Ngày
5


nay, ở Hàn Quốc, quan hệ về đằng họ nội vẫn còn phổ biến. Dù đã ra ở riêng
nhưng quan hệ giữa cha mẹ và con cái đã trưởng thành vẫn là quan hệ dựa
vào nhau, và con cái thường chăm sóc bố mẹ già khi họ không thể tự chăm
sóc được. Mặc dù có những dấu hiệu ở khu vực đô thị, quan hệ gia đình và
quan hệ họ hàng dần dần yếu đi, song ảnh hưởng của Nho giáo đến gia đình
Hàn Quốc vẫn còn khá mạnh.
Có thể nói, các nghiên cứu trên đã cung cấp cho chúng ta thấy phần nào
bức tranh về gia đình trên thế giới.
2.2 Tình hình nghiên cứu về gia đình ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây, khi chúng ta chuyển sang thực hiện cơ chế
thị trường, hệ giá trị và các chuẩn mực đạo đức truyền thống đang bị thay đổi
một cách mạnh mẽ. Những quan điểm sống gắn liền với sự cạnh tranh lợi
nhuận như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, các mối quan hệ “tiền
trao cháo múc” không những chưa bị lên án mạnh mẽ mà còn lấn át các chuẩn
mực tốt đẹp. Trước thực tế đó, vấn đề giáo dục trong gia đình càng trở nên
khẩn thiết và cấp bách hơn, đặc biệt là giáo dục về hành vi ứng xử.
Ngay từ thế kỷ 15, Nguyễn Trãi đã viết “Gia huấn ca” để truyền dạy
cho con cháu những giá trị của văn hoá gia đình, trong đó ông đã đưa ra nhiều
nguyên tắc xây dựng gia đình vừa theo quan điểm của Nho giáo vừa kết hợp

với những giá trị truyền thống của dân tộc.
Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước KX07-09: “Vai trò của gia đình trong
sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam”, của Trung tâm
Nghiên cứu gia đình và phụ nữ, giáo sư Lê Thi làm chủ biên. Các tác giả cho
rằng, những thành tự to lớn của cách mạng khoa học và công nghệ trong
những năm cuối thế kỷ XX đang đưa lại những khả năng sáng tạo, trí thông
minh tuyệt vời cho con người. Bên cạnh những tiến bộ vượt bậc do con người
tạo ra thì hàng loạt những tệ nạn xấu xa, nguy hiểm đang tồn tại trên khắp thế
6


giới do con người gây ra. Hậu quả đó đang làm cho hàng triệu gia đình tan
tác, chia ly, cùng khổ. Tác giả khẳng định, bàn về sự phát triển ổn định của xã
hội, không thể tách rời sự phát triển của con người và vai trò của gia đình
trong việc giáo dục con người.
Nhóm tác giả do Mai Quỳnh Nam chủ biên đã xuất bản cuốn sách “Gia
đình trong tấm gương xã hội học”, tập hợp nhiều bài viết xung quanh mảng
nghiên cứu xã hội học gia đình như cơ cấu gia đình hiện nay, việc thực hiện
các chức năng kinh tế, chức năng sinh sản của gia đình, văn hoá gia đình, sự
biến đổi các quan hệ gia đình.[19]
Từ những kết quả điều tra xã hội học, Vũ Tuấn Huy đã biên soạn và
xuất bản cuốn sách: “Xu hướng gia đình Việt Nam ngày nay” (2004). Trong
sách Vũ Tuấn Huy đã phân tích thực trạng những biến đổi trong quy mô và cơ
cấu của gia đình Việt Nam ngày nay, đồng thời dự báo xu hướng biến đổi của
gia đình, trong đó tác giả nhấn mạnh tới sự mở rộng của mô hình gia đình hạt
nhân và thu hẹp phạm vi các gia đình mở rộng trong thời gian tới. Nhóm tác
giả cũng đề xuất những giải pháp nhằm củng cố vị trí và vai trò của gia đình
trong sự phát triển của xã hội. [24]
Cuốn sách “Gia đình Việt Nam - quan hệ, quyền lực và xu hướng biến
đổi” của nhóm tác giả khoa xã hội học trường Đại học khoa học xã hội và

nhân văn do Vũ Hào Quang chủ biên. Cuốn sách đã đề cập tới hiện trạng gia
đình Việt Nam một cách tương đối toàn diện và đa dạng. Đây cũng là một
công trình được biên soạn khá công phu, đề cập tới hiện trạng gia đình Việt
Nam một cách tương đối toàn diện và đa dạng, các số liệu điều tra xã hội học
có nhiều phát hiện tốt. [20]
Tiếp cận gia đình dưới góc độ các sai lệch chuẩn mực và giá trị, hai tác
giả Lê Thị Quý và Đặng Vũ Cảnh Linh đã xuất bản cuốn sách khá công phu
có tiêu đề: “Bạo lực gia đình-một sự sai lệch giá trị”[25]. Cuốn sách đã đưa
7


ra những cảnh báo về thực trạng của hiện tượng bạo lực gia đình trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, đồng thời tổng kết những nghiên cứu thực tiễn,
những mô hình quản lý, truyền thông, ngăn chặn bạo lực gia đình mà các tác
giả đã thực hiện. Đây cũng là cuốn sách cần được quan tâm dưới góc độ quản
lý nhà nước về gia đình.
Cuốn “Gia đình học” của hai tác giả Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý
[16] dày 690 trang khổ lớn, cập nhật nhiều thông tin lý thuyết mới về nghiên cứu
gia đình trên thế giới và Việt Nam. Các tác giả đã cố gắng tạo tiền đề và tìm một
sự thống nhất cho việc hình thành một khoa học nghiên cứu đặc thù về gia đình
là “Gia đình học”ở Việt Nam. Từ đối tượng nghiên cứu, các tác giả đã hệ thống
lại các quy luật, phạm trù, khái niệm và bộ công cụ tư duy của môn khoa học
này. Các tác giả cũng đưa ra nhiều quan điểm mới của cả thế giới và Việt Nam
rất đáng được nghiên cứu, tham khảo và tranh luận khoa học.
Mảng chủ đề về gia đình và việc chăm sóc giáo dục trẻ em cũng đã
được quan tâm chú ý nhiều. Tiêu biểu cho xu hướng này có: Đặng Cảnh
Khanh - Gia đình và việc giáo dục các giá trị truyền thống cho trẻ em”[15].
Đáng chú ý trong cuốn sách này, tác giả đã dành một phần đáng kể đề phân tích
vai trò của gia đình đối với việc giáo dục, làm hình thành nhân cách trẻ em thông
qua các giá trị truyền thống của người Việt.

Ngoài những công trình nghiên cứu kể trên chúng ta thấy còn có một số
bài viết, bài chuyên khảo về gia đình cũng đã được đăng trên các Tạp chí
Cộng sản, Tạp chí Thanh niên, Khoa học và Phụ nữ, Xã hội học, Tâm lý học,
Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, các báo cáo tại các hội nghị khoa học về gia
đình, giới, phụ nữ, dân số, trẻ em. Nghiên cứu về gia đình cũng còn là mảng
chủ đề nhận được sự quan tâm mạnh mẽ của nhiều khoá luận tốt nghiệp đại
học và một số bản luận án khoa học thạc sĩ và tiến sĩ.

8


Tác phẩm của Nghiêm Sĩ Liêm, “Vai trò người phụ nữ trong giáo dục
gia đình ở nước ta hiện nay”, tác phẩm “Gia đình Việt Nam và người phụ nữ
trong gia đình thời kỳ công nghiếm hóa, hiện đại hóa đất nước” của Đỗ Thị
Bình chủ biên. Các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu về vai trò của từng
thành viên, ưu điểm nổi trội của họ đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, chứ chưa
đi sâu nghiên cứu vai trò của gia đình đối với trẻ vị thành niên.
Mặc dù không nghiên cứu trực tiếp về vai trò của gia đình trong việc
giáo dục hành vi ứng xử cho vị thành niên, nhưng các nghiên cứu trên đã đưa
ra cái nhìn tổng thể, bao quát về gia đình và giáo dục gia đình của người Việt
Nam. Trên cơ sở kế thừa những kết quả của những công trình đã nghiên cứu
về giáo dục gia đình, đề tài “ Vai trò của gia đình trong giáo dục vị thành niên
về hành vi ứng xử” xin đi sâu tìm hiểu vai trò của gia đình thông qua nội dung
và phương pháp giáo dục hành vi ứng xử cho vị thành niên ở huyện Thanh Trì
– Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu vai trò của gia đình tại huyện Thanh Trì, Hà
Nội trong việc giáo dục trẻ vị thành niên về hành vi ứng xử. Cụ thể:
 Tìm hiểu thực trạng việc thực hiện vai trò giáo dục vị thành niên về

hành vi ứng xử trong các gia đình tại huyện Thanh Trì hiện nay.
 Phân tích vai trò của gia đình trong việc giáo dục vị thành niên về
hành vi ứng xử.
 Đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng cường vai trò của gia đình trong
việc giáo dục vị thành niên về hành vi ứng xử.

9


3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan các tài liệu, các nghiên cứu có liên quan đến hành vi ứng xử
ở tuổi vị thành niên và các tài liệu có liên quan đến vai trò của gia đình trong
việc giáo dục hành vi ứng xử vị thành niên.
Hệ thống các khái niệm có liên quan đến vai trò của gia đình trong việc
giáo dục trẻ vị thành niên về hành vi ứng xử: Vai trò xã hội; hành vi ứng xử;
vị thành niên.
Hệ thống các lý thuyết xã hội học có liên quan đến vai trò của gia đình
trong việc giáo dục vị thành niên về hành vi ứng xử.
Nhận diện vai trò của gia đình trong việc giáo dục vị thành niên về
hành vi ứng xử.
Phân tích các yếu tố tác động đến vai trò của gia đình trong việc giáo
dục vị thành niên về hành vi ứng xử.
4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
Vai trò của gia đình trong việc giáo dục vị thành niên về hành vi ứng xử.
4.2 Khách thể nghiên cứu:
- Trẻ vị thành niên từ 15 – 17 tuổi đang sinh sống tại huyện Thanh Trì
- Bố mẹ có con ở tuổi vị thành niên đang sinh sống tại huyện Thanh
Trì, Hà Nội.
4.3 Phạm vi nghiên cứu

 Thời gian tiến hành khảo sát: tháng 7-9/2016
 Không gian nghiên cứu: tại xã Tứ Hiệp, xã Đông Mỹ và thị trấn Văn
Điển - huyện Thanh Trì, Hà Nội.

10


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1.Câu hỏi nghiên cứu
 Hiện nay, các em có được gia đình giáo dục về hành vi ứng xử
không?
 Những nội dung, phương pháp được các gia đình dùng trong việc
giáo dục hành vi ứng xử cho vị thành niên được các em đánh giá như thế nào?
5.2.Giả thuyết nghiên cứu
 Hầu hết các gia đình đều thực hiện vai trò giáo dục hành vi ứng xử
cho trẻ vị thành niên.
 Đa số vị thành niên đều thấy nội dung, phương pháp giáo dục hành
vi ứng xử của gia đình là phù hợp.
5.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.3.1. Phƣơng pháp luận
Phương pháp luận chung: vận dụng những nguyên tắc và phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; trên cơ
sở hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước, các chính sách dành cho
gia đình, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Phương pháp chuyên biệt: sử dụng các lý thuyết: thuyết vai trò, lý
thuyết xã hội hóa.
5.3.2 Phƣơng pháp thu thập và phân tích thông tin
Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
 Phương pháp tổng quan phân tích tài liệu
Phương pháp này được vận dụng trong suốt quá trình tác giả xây dựng

đề cương nghiên cứu cũng như trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên
cứu. Trước khi tiến hành điều tra khảo sát, tác giả nghiên cứu đã tiến hành
phân tích các tài liệu thu thập được có liên quan đến các vấn đề của đề tài
nghiên cứu. Trên cơ sở đó phát hiện vấn đề chưa được đề cập, chưa được làm
11


sáng tỏ từ đó hướng nghiên cứu làm rõ vấn đề còn thiếu.Tài liệu là các công
trình nghiên cứu trước đây như sách, bài báo, tạp chí… có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu.
 Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp được sử dụng trong quá trình thu thập thông
tin trên địa bàn nghiên cứu. Phương pháp này được thực hiện trong quá trình
khảo sát trực tiếp trên địa bàn nghiên cứu nhằm bổ sung thêm những hiểu biết
cần thiết về môi trường sống, thái độ, hành vi biểu hiện của đối tượng được
nghiên cứu.
 Phương pháp điều tra xã hội học, bao gồm:
 Phương pháp nghiên cứu định lượng:
Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (anket) với 200
trẻ vị thành niên (từ 15- dưới 18 tuổi). Các thông tin phục vụ mục đích nghiên
cứu được thu thập theo phương pháp phỏng vấn trực tiếp bằng bảng hỏi được
thiết kế sẵn. Bảng hỏi được thiết kế nhằm thu thập thông tin làm rõ vai trò của
gia đình trong việc giáo dục vị thành niên về hành vi ứng xử.Toàn bộ số liệu
sau khi tiến hành điều tra được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.
 Phương pháp nghiên cứu định tính
Bên cạnh phương pháp nghiên cứu định lượng, tác giả đã lựa chọn sử
dụng phương pháp phỏng vấn sâu với 10 cha/ mẹ có con đang ở tuổi vị thành
niên và thảo luận 4 nhóm cha mẹ và vị thành niên nhằm thu thập thông làm rõ
các ý kiến, những quan điểm, thái độ của các nhóm đối tượng khác nhau dựa
trên nguyên tắc cùng tham gia, trao đổi, thảo luận.


12


5.4. Khung phân tích
Bối cảnh KT – VH - XH

Đặc điểm nhân khẩu
học:
- Giới tính
- Tuổi
- Học vấn

Hoàn cảnh gia đình:
- Số thế hệ
- Mức sống
- Các mối quan hệ

Nhận thức của bố mẹ về

Sự lựa chọn nội dung,

VTN

phương pháp giáo dục
về hành vi ứng xử của
gia đình

VAI TRÒ CỦA GIA
ĐÌNH TRONG VIỆC

GIÁO DỤC VỊ THÀNH
NIÊN VỀ HÀNH VI ỨNG
XỬ

Sự tiếp nhận của VTN với
nội dung, phương pháp
giáo dục hành vi ứng xử
của gia đình

Sự ảnh hưởng nội dung,
phương pháp giáo dục hành
vi ứng xử của gia đình đến
hành vi ứng xử của VTN

13


6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn tìm hiểu và áp dụng các lý thuyết xã hội học vào khảo sát, từ
đó góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận về vai trò của gia đình trong
việc giáo dục vị thành niên về hành vi ứng xử.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn làm rõ thêm cơ sở lý luận về nhu cầu của trẻ vị thành niên đối
với nội dung, phương pháp giáo dục của gia đình, vai trò của gia đình trong
việc giáo dục vị thành niên về hành vi ứng xử.
Kết quả nghiên cứu được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên
cứu và học tập về những vấn đề có liên quan đến trẻ vị thành niên.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu 3 phần:

- Phần Mở đầu
- Phần Nội dung chính: gồm 2 chương
+ Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
+ Chương 2: Thực trạng việc thực hiện vai trò của gia đình trong việc
giáo dục vị thành niên về hành vi ứng xử tại huyện Thanh Trì hiện nay.
- Phần Kết luận và khuyến nghị

14


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm Vai trò
Người đầu tiên đề cập đến khái niệm vai trò là Ralph Linton (18931953) trong tác phẩm Study of Man (1936). Sau này, trong bản thảo được
biên soạn lại (1945), khái niệm này được thể hiện như sau: “Từ nay trở đi
chúng ta sẽ gọi vị trí do một cá nhân chiếm lĩnh vào một thời điểm cụ thể
trong một hệ thống cụ thể là địa vị của cá nhân đó…Vế thứ hai, vai trò được
coi là tổng thể của những khuôn mẫu văn hóa gắn liền với một địa vị cụ thể.
Như vậy, khái niệm này sẽ bao gồm những quan điểm, ước lệ về giá trị và
phương thức hành động được xã hội quy định cho chủ nhân của địa vị này”.
[23,tr.31]
Theo John J.Macionnis, vai trò là các khuôn mẫu hành vi tương ứng
với địa vị cụ thể [32,pg. 151]. Mỗi địa vị bao gồm các quyền lợi và nghĩa vụ
khác nhau, những ai nắm địa vị thường được nghĩ là phải có vai trò hành xử
theo những cách phù hợpvới địa vị đó.
Thuật ngữ “vai trò xã hội” xuất phát từ kịch học.Vai trò xã hội của cá
nhân được xác định trên cơ sở các vị thế xã hội tương ứng. Nó chính là mặt động
của vị thế xã hội vì luôn biến đổi trong các xã hội khác nhau thậm chí qua các
nhóm xã hội khác nhau. Để thực hiện những quyền và nghĩa vụ của từng vị thế
xã hội, mỗi cá nhân cần phải thực hiện những quyền và nghĩa vụ của từng vị thế

xã hội, mỗi cá nhân cần phải thực hiện những hành động nhất định. Tức là,
tương ứng với từng địa vị sẽ có một mô hình hành vi được xã hội mong đợi. Mô
hình hành vi được xã hội mong đợi này chính là vai trò tương ứng của vị thế xã
hội đó. Vậy, vai trò xã hội là mô hình hành vi được xác lập khách quan căn cứ
vào đòi hỏi của xã hội đối với từng vị thế nhất định, để thực hiện những quyền
và nghĩa vụ tương ứng với các vị thế đó.[4, tr.573]

15


Như vậy vai trò là những đòi hỏi của xã hội đặt ra với các vị thế xã hội.
Những đòi hỏi này được xác định căn cứ vào các chuẩn mực xã hội.Các
chuẩn mực này thường không giống nhau trong các loại xã hội.Vì vậy, ở các
xã hội khác nhau cùng một vị thế xã hội nhưng mô hình hành vi được xã hội
mong đợi rất khác nhau, tức là vai trò xã hội cũng khác nhau.
Để cá nhân có thể thực hiện tốt các vai trò, một mặt, các đòi hỏi, chuẩn
mực do xã hội đặt ra phải rõ ràng.Mặt khác, cá nhân phải học hỏi về các vai
trò trong quá trình xã hội hóa, tức là học hỏi về những yêu cầu, đòi hỏi mà họ
cần phải thực hiện tiếp nhận một vị thế xã hội nhất định.Tuy nhiên, không
phải bao giờ những điều mà cá nhân hiểu về vai trò và sự mong đợi của xã hội
đối với các vai trò đó cũng sẽ phù hợp với nhau.Hơn nữa, cá nhân nhiều khi
không thực hành tất cả những hiểu biết của họ về các đòi hỏi với những vai
trò trên thực tế.Chính vì thế, chúng ta thường thấy độ chênh nhất định giữa
kiến thức về vai trò, việc thực hiện vai trò và vai trò được xã hội kỳ vọng
(mong đợi).Sự chênh lệch càng nhiều chứng tỏ cá nhân càng không đáp ứng
được đời hỏi của xã hội. Cá nhân nào không thực hiện đầy đủ những đòi hỏi
của vai trò, tức là chưa thực hiện đúng vai trò của xã hội của mình thì thường
bị lên ấn vì không làm tròn bổn phận [6, tr.273].
Trong thực tế cá nhân có thể rơi vào tình huống xung đột vai trò, xảy ra
khi các kỳ vọng trái ngược nhau xuất hiện, từ hai hay nhiều địa vị mà một

người đồng thời đang nắm giữ. Trong trường hợp này, việc thực hiện các vai
trò của địa vị thứ nhất có thể vi phạm các vai trò của vị thế thứ hai.
Trong nghiên cứu này, khái niệm vai trò được sử dụng trong mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình, mà đặc biệt ở đây là mối quan hệ giữa cha mẹ
với con cái. Cha mẹ với quyền và nghĩa vụ của mình thực hiện sự mong đợi của
xã hội đối với người giữ vai trò là chủ thể trong quá trình giáo dục con cái.

16


1.1.2 Khái niệm Gia đình
Khái niệm “Gia đình” sơ khai đã tồn tại trong tác phẩm của Platon
“Nhà nước lý tưởng”, hoặc trong Nho giáo nguyên thủy nhưng phải đến gần
đây thì các định nghĩa về gia đình ngày càng chính xác và khoa học hơn. Theo
góc độ xã hội học vĩ mô thì gia đình là một thiết chế xã hội nghĩa là một đơn vị
cơ sở được mọi người công nhận để thực hiện những chức năng xã hội nhất định
mà trước hết là Sự tái sinh các đặc trưng của loài người được pháp luật bảo hộ và
công nhận (M.Horkheimer). Các nhà xã hội học gia đình nhưu Max Weber,
Talcott Parsons, Emile Durkheim với tác phẩm “Nhập môn xã hội học xã đình”,
xuất bản 1888 (Introduction on Family Sociology) đã được coi là người sáng lập
môn Xã hội học gia đình. Rõ ràng là gia đình gắn chặt với những nhân tố văn
hóa, xã hội nhất định, phải nhìn hôn nhân và gia đình như một bộ phận đặc thù
góp phần tạo ra xã hội và ngược lại do xã hội tạo ra. Cần xem xét hôn nhân và
gia đình dưới góc độ của các nhân tố xã hội, tức là tìm xem những nhân tố xã hội
đã chi phối hôn nhân và đời sống gia đình của các cá nhân như thế nào, dù rằng
quan điểm chung vẫn coi đó là những điều riêng tư và tự do.
Ở Việt Nam, định nghĩa đơn giản nhất về Gia đình là: Tập hợp những người
có cùng quan hệ hôn nhân và huyết thống sống trong cùng một nhà.[9, tr.305]
Định nghĩa này rất gần với định nghĩa của nhà Xã hội học Mỹ, giáo sư
John J. Macionis: Gia đình là một tập thể xã hội có từ hai người trở lên trên cơ

sở huyết thống, nhân nhân hay nghĩa dưỡng cùng sống với nhau.[31, pg198]
“Gia đình là một dạng thiết chế xã hội đặc biệt liên kết con người lại
với nhau nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống và chăm sóc con cái. Các mối
quan hệ gia đình còn được gọi là các mối quan hệ họ hàng. Đó là những sự
liên kết ít nhất cũng là của hai người trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và việc
nhận nuôi con nuôi. Những người này có thể sống cùng hoặc khác một mái
nhà”. [15, tr38]

17


“Gia đình là một nhóm người có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết
thống hoặc nuôi dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng
chung sống, có ngân sách chung”. [27, tr.27]
Trong luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam (sửa đổi và bổ sung năm 2014) có nêu định nghĩa về gia đình như
sau: Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và
quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này.
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các
thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết
thống hoặc con hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo
đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng
như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người.
Như vậy, gia đình không thể là một cá nhân mà với tư cách là một nhóm xã
hội. Ba yếu tố hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng là không thể thiếu được khi
nói đến gia đình. Trong đó là các mối quan hệ: vợ - chồng, cha mẹ - con cái, ông
bà – con cháu và anh - em…Trong nghiên cứu này, những người được khảo sát là
những người có mối quan hệ huyết thống, nghĩa dưỡng theo mô hình có bố mẹ và
con ở chung một mái nhà, có ngân sách chung và được pháp luật công nhận.

Nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, để tìm hiểu vai trò
của cha mẹ đối với việc giáo dục con cái trong gia đình.
1.1.3 Khái niệm Vị thành niên
Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam, “vị’’ có nghĩa là “chưa’’, “thành’’
là “trưởng thành’’, “niên’’ là “tuổi’’. Khái niệm “vị thành niên’’ dùng để chỉ
người chưa đến tuổi trưởng thành. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng, vị
thành niên có nghĩa là “người chưa đến tuổi trưởng thành, chưa được pháp
luật công nhận là công dân, “tuổi vị thành niên”.

18


×