Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trường PTDTBT tiểu học số 2 xã pắc ta hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.39 KB, 20 trang )

Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc
ta không chỉ là người đã sáng lập ra Đảng ta mà còn là người có công lao to lớn
trong việc giáo dục, xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Người đã để lại
một kho tàng lý luận quý báu, có ý nghĩa thực tiễn to lớn về việc tổ chức, xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong kho tàng đó nổi bật nên tư tưởng về đạo
đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Tư tưởng đó cùng với quá trình xây
dựng của Đảng ta đã tạo nên một đội ngũ cán bộ, đảng viên có uy tín, sáng ngời về
đạo đức cách mạng, góp phần xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, ngang
tầm với nhiệm vụ.
Hiện nay do những nguyên nhân khách quan, do chưa quán triệt vận dụng
một cách đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng đã
xuất hiện tình trạng đáng lo ngại trong Đảng ta, đó là sự suy thoái đạo đức cách
mạng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên, ảnh
hưởng đến uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức của người đảng viên, không chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc
xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay, mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong
sự nghiệp cách mạng của huyện Tân Uyên nói chung, sự nghiệp xây dựng đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên ở trường PTDTBT Tiểu học số 2 xã Pắc Ta nói
riêng. Vì lý do trên mà tôi chọn đề tài: “ Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên trường PTDTBT Tiểu học số 2 xã Pắc Ta hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích hệ thống những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Từ đó đề xuất một số vấn đề về việc
vận dụng những tư tưởng của Người vào thực tiễn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những nội dung cơ bản về đạo
đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên.



1


Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ,
đảng viên ở trường PTDTBT Tiểu học số 2 xã Pắc Ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức có mội dung rất phong phú. Vì vậy tôi
chỉ tập trung đi nghiên cứu một nội dung cơ bản đó là đạo đức cách mạng của
người cán bộ, đảng viên và vận dụng tư tưởng đó nhằm xây dựng đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên ở trường PTDTBT Tiểu học số 2 xã Pắc Ta.

2


Phần nội dung
Chương 1: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN.
1. Vài nét cơ bản về đạo đức và đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
1.1. Phạm trù đạo đức.
Đạo đức là chuẩn mực, những phương thức cơ bản điều tiết hành vi của con
người; là một hình thái ý thức xã hội; là một dạng của quan hệ xã hội; là đối tượng
nghiên cứu của đạo đức học.
Ngày nay, đạo đức có thể được xem xét từ nhiều phương diện khác nhau. Ở
đây có ba phương diện cần chú ý:
- Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội - là toàn bộ những quan
điểm, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm bảo đảm quan hệ lợi ích
cá nhân và cộng đồng. Xét về nội dung, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội.

- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài người
đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh mối quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội như phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức…
- Đạo đức là một hệ thống các giá trị: Giá trị là đối tượng của giá trị học.
Giá trị học phân loại các hiện tượng giá trị theo quan niệm đã được xây dựng nên
một cách truyền thống về các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2. Phạm trù “đạo đức cách mạng” trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nội hàm xuyên suốt phạm trù “đạo đức cách mạng” hay “đạo đức mới”
trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: “Suốt đời đấu tranh cho hạnh phúc của dân tộc,
của nhân dân”. “Suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng con người”, “Trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, đặt lợi ích cá nhân trong lợi ích cộng đồng; khi cách mạng
cần thì sẵn sàng hy sinh cho đến cả tính mạng của mình, vì độc lập tự do của Tổ
quốc và hạnh phúc của nhân dân”.
Từ các chuẩn mực đạo đức cách mạng chung đó, Hồ Chí Minh xây dựng
các chuẩn mực đạo đức cách mạng riêng, phù hợp với từng đối tượng và tiến hành
giáo dục đạo đức cho các đối tượng ấy như đạo đức cách mạng đối với người cán
3


bộ, đảng viên, đạo đức cách mạng đối với người công an nhân dân, đạo đức cách
mạng đối với người thanh niên…
Chung quy lại, “đạo đức cách mạng” mà Hồ Chí Minh xây dựng chủ yếu và
trước hết giành cho người cán bộ, đảng viên - lực lượng tiên phong của giai cấp
công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân và toàn dân tộc;
thay mặt nhân dân lãnh đạo chính quyền và lãnh đạo toàn xã hội. Người đã xác
định tầm quan trọng của đạo đức cách mạng đối với người đảng viên, xây dựng và
hoàn thiện, cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức cách mạng và không ngừng giáo
dục những chuẩn mực ấy cho người cán bộ, đảng viên bằng nhiều hình thức, biện
pháp rất hữu hiệu.

2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người
cán bộ, đảng viên.
2.1. Vai trò của đạo đức cách mạng đối với người cán bộ, đảng viên.
Theo Hồ Chí Minh người đảng viên phải nắm vững lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin nói chung và đạo đức mác-xít nói riêng, Hồ Chí Minh khẳng định đạo
đức của người đảng viên phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng. Trên cơ sở
nền tảng đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của đạo đức cách
mạng đối với người đảng viên. Xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí
Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người đảng viên.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh viết năm 1927 chuẩn bị
cho việc thành lập Đảng, ngay ở trang đầu Người đã viết về “Tư cách một người
cách mệnh”, nêu lên 23 điều răn dạy người đảng viên cách mạng trong việc giải
quyết ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người, đối với việc. Trong đó tập
trung vào các chuẩn mực đạo đức đó là: cần, kiệm, nhẫn lại, không hiếu danh,
không kiêu ngạo, nói thì phải làm…
Năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh viết: “Cũng
như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
Trong nhiều bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh còn khẳng định: “Mọi
việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ thấm nhuần đạo đức cách mạng hay

4


không”, “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, nhưng ai giữ được
đạo đức cách mạng đều là người cao thượng”
Hồ Chí Minh còn quan niệm trong điều kiện Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng
viên là các dây chuyền của bộ máy, dây truyền không tốt , động cơ máy dù có tốt
mấy cũng không vận hành được.

Theo Hồ Chí Minh sự nghiệp cách mạng mà chúng ta đang tiến hành là sự
nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự
nghiệp lâu dài, gian khổ và vô cùng vẻ vang. Theo Người sự nghiệp cách mạng đó
nhất định sẽ thành công. Đó là một điều chắc chắn nhưng thời gian nhanh hay
chậm, một phần quan trọng tuỳ thuộc vào đạo đức cách mạng: “Làm cách mạng
để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng
là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ.
Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang”
Như vậy, Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức cách mạng có vai trò cực kỳ
to lớn trong việc góp phần quyết định sự thành bại của cách mạng. Tuy nhiên,
người cán bộ, đảng viên không chỉ có đức mà phải có cả tài mới đảm đương được
công việc, mới có khả năng và trình độ làm chủ đất nước. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“...Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô, hủ hóa có hại cho nước. Có
đức không có tài như ông Bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”. Tư
tưởng đó của Người nhắc nhở chúng ta - những cán bộ đảng viên phải tự phấn đấu
thật nhiều để toàn diện hơn về trình độ và hoàn thiện hơn về nhân cách của mình.
Qua đó chúng ta cũng thấy rằng việc xem xét, nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí
Minh về vai trò của đạo đức cách mạng cũng không được phiến diện, một chiều,
mà phải đặt nó trong mối quan hệ biện chứng giữa đức và tài với vai trò, vị trí của
từng yếu tố.
2.2. Các chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên.
* Trung với nước, hiếu với dân
Đây là chuẩn mực bao trùm nhất, đứng đầu trong thang giá trị chuẩn mực
đạo đức cách mạng của người đảng viên. Trước hết chúng ta nghiên cứu chuẩn
mực “Trung với nước” trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

5



Khái niệm “trung” như chúng ta đã biết, xuất phát từ đạo đức Nho giáo.
Nhưng với Nho giáo “trung” là trung với vua và trung với vua là yêu nước. Và
mặc dù khái niệm này sau này được mở rộng hơn nhưng theo tư tưởng Nho giáo,
nó vẫn bó hẹp trong việc phản ánh những mối quan hệ cá nhân: vua tôi, cha con,
vợ chồng, bạn bè, hoặc cá nhân này với cá nhân khác.
Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng Nho giáo một cách có chọn lọc, phát triển,
sáng tạo đã mở rộng thành khái niệm “trung”, biến nó thành một khái niệm với nội
dung hoàn toàn mới mẻ: “Trung với nước”. Chúng ta biết rằng khái niệm “yêu
nước”, dù đã thể hiện một truyền thống đạo đức hàng đầu của dân tộc nhưng vẫn
chưa nói hết được tình cảm thiêng liêng và ý thức trách nhiệm cao cả bằng khi nói
“trung với nước”.
Đối với người đảng viên, Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao hơn trong việc
thực hiện chuẩn mực đạo đức này. Đảng viên “trung với nước” là trung thành với
sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với đường lối, mục tiêu của Đảng
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cho đến khi qua đời, Người còn
dặn lại trong Di chúc: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân”. Điều này càng làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh vượt lên trước rất nhiều.
“Hiếu với dân”. Khái niệm “Hiếu” cũng bắt nguồn từ Nho giáo. Nhưng nếu
theo tư tưởng Nho giáo chỉ là hiếu với cha mẹ thì đến tư tưởng Hồ Chí Minh đã có
một sự chuyển đổi mang tính cách mạng về nội dung khái niệm “hiếu”. Đó là
“hiếu với dân”. Hai khái niệm này gắn bó chặt chẽ với nhau. Muốn chung với
nước phải hiếu với dân.
Đối với người cán bộ, đảng viên, hiếu với dân không chỉ dừng lại ở chỗ
thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ, chăn dắt, ban ơn mà phải
lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ cho nhân dân, phải làm sao cho dân nắm
mọi quyền hạn, bao nhiêu lơi ích đều vì dân.
Đề cao đạo đức của người đảng viên trong mối quan hệ với dân, Hồ Chí
Minh nói: Tính xấu của một người thường có hại cho người đó, còn tính xấu của
mỗi đảng viên sẽ có hại cho Đảng, cho nhân dân, có hại cho công tác dân vận và

mối quan hệ Đảng - dân. Do đó, Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn ý

6


thức về lời nói, việc làm của mình. Đảng viên phải là người gương mẫu, luôn đi
đầu trong mọi công việc: “ Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
* Yêu thương và giúp đỡ con người, sống có nghĩa, có tình.
Phẩm chất này mang tính kế thừa trong truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Không có tình yêu “thương người như thể thương thân” thì không thể là
người cách mạng, người có lý tưởng XHCN. Tình yêu thương, quý trọng con
người luôn gắn liền với thái độ tôn trọng con người, biết cách nâng đỡ con người,
rộng lượng và khoan dung với người, nhưng lại phải nghiêm khắc với bản thân
mình.
Yêu thương, quý trọng con người không phải là tình thương chung chung
trừu tượng, phi giai cấp mà phải gắn với cuộc đấu tranh giải phóng, giành độc lập
tự do cho dân tộc và tiến lên CNXH. Chỉ khi nào con người được sống trong một
đất nước độc lập, trở thành chủ nhân thật sự của đất nước, được “ấm no, tự do,
hạnh phúc” thì mới có tình “yêu thương, quý trọng con người” thật sự. Chủ tịch
Hồ Chí Minh là mẫu mực về tình yêu thương, quý trọng con người. Người không
chỉ nói mà còn suốt cuộc đời mình thực hiện, thể hiện tình “yêu thương, quý trọng
con người”.
* Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm quen thuộc của
truyền thống đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Những khái niệm này được Hồ Chí Minh cải biến nội dung, đưa vào nó
những yêu cầu, nội dung mới trên cơ sở kế thừa, giữ lại những yếu tố tinh túy, tốt
đẹp, phù hợp, lọc bỏ những yếu tố lạc hậu, lỗi thời không còn phù hợp với điều

kiện lịch sử mới, thời đại mới. Về điểm này, Người đã giải thích rõ: Chế độ phong
kiến ngày xưa đưa ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm, nhưng lại
bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra
cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi
ích nước cho dân.
7


“Cần” tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai; phải lao động cần cù,
siêng năng, có kế hoạch, sáng tạo và có năng suất chất lượng cao, với tinh thần tự
lực cánh sinh là chính, hay như ngày nay ta thường nói “phát huy nội lực”.
“Kiệm” là không lãng phí thời gian, của cải của mình và của nhân dân là tiết
kiệm sức lao động, sử dụng sức người, sức của một cách hợp lý nhằm tạo ra nhiều
sản phẩm cho xã hội phục vụ cuộc sống của mình và của nhân dân; kiệm là tiết
kiệm từ cái nhỏ đến cái to, không phô trương, hình thức, xa xỉ, hoang phí.
“Liêm” là “luôn tôn trọng của công, của dân”, luôn liêm khiết trong mọi hoàn
cảnh, “không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không
ham người tâng bốc mình”.
“Chính” là không tà, thẳng thắn, đúng đắn đối với mình, đối với người và đối
với việc, tức là quang minh chính đại, không giả dối. Việc thiện thì dù nhỏ mấy
cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh hay việc phải làm thì dù nhỏ cũng
làm, việc trái dù nhỏ cũng tránh.
“Chí công vô tư” – mình vì mọi người là đem lòng chí công, vô tư của mình
mà đối xử với người, với việc. Phải ham muốn làm những việc ích quốc, lợi dân,
không ham địa vị công danh phú quý. Chí công, vô tư là chăm lo việc nước như
chăm lo việc nhà; chăm lo việc tập thể như chăm lo việc gia đình mình, nghĩ đến
việc nước, việc tập thể, việc chung trước việc riêng, việc nhà; làm trước hưởng
sau. Đó chính là nội dung của chủ nghĩa tập thể. Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với
đạo đức cách mạng. Thực hành chí công vô tư là phải “kiên quyết quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”

* Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Là một chiến sĩ cộng sản quốc tế nhận thấy được vai trò quan trọng của sức
mạnh thời đại, Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục toàn Đảng, toàn dân tinh thần
đoàn kết quốc tế, Người chỉ rõ đó là lương tâm, nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên.
Theo Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước phải gắn liền với tinh thần quốc tế
trong sáng, chân chính. Nếu chỉ có tinh thần yêu nước mà không có tinh thần quốc
tế trong sáng, chân chính thì sẽ dẫn đến hoặc là kỳ thị dân tộc, hoặc là dân tộc hẹp
hòi. Tinh thần quốc tế trong sáng, chân chính là tinh thần quốc tế vô sản, đoàn kết
các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới trong cuộc đấu tranh cho tiến
8


bộ, hòa bình, độc lập dân tộc, hữu nghị và công lý, vì CNXH và chủ nghĩa cộng
sản.
Đoàn kết quốc tế đã trở thành ba bài học thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Người nói: “Cách mạng Việt Nam luôn luôn được sự đồng tình ủng hộ của giai
cấp công nhân và nhân dân cách mạng thế giới, nhất là nhân dân các nước xã hội
chủ nghĩa anh em. Tình đoàn kết quốc tế vĩ đại ấy là một điều kiện rất quan trọng
cho cách mạng Việt Nam thắng lợi. Đó là một trong ba bài học lớn mà mỗi cán bộ
đảng viên cần phải ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi.

9


Chương 2:
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRƯỜNG
PTDTBT TIỂU HỌC SỐ 2 XÃ PẮC TA HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH.
1. Khái quát chung
Huyện Tân Uyên được thành lập theo Nghị định số 04-NĐ/CP, ngày

30/10/2008 của Chính phủ, chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2009.
Huyện nằm ở phía Đông Nam tỉnh Lai Châu, có diện tích tự nhiên 90.319,65 ha,
trong đó đất nông - lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản: 32.755 ha; đất phi nông
nghiệp: 2.184 ha; Huyện có 10 xã, thị trấn, 133 khu phố, bản. Dân số hơn 54000
người, có 8 dân tộc gồm Thái, Kinh, Laha, Mông, Khơ Mú, Dao, Lào, Giáy và
Tày, trong đó người Thái chiếm số đông với gần 52%.
Trường PTDTBT Tiểu học số 2 xã Pắc Ta được thành lập ngày 15/8/2003.
Quản lý 3 điểm trường với 07 thôn bản, khu phố. Điểm trường chính nằm cạnh
quốc lộ 32 nên thuận lợi trong công tác quản lý, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ. Có
5 dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn gồm dân tộc Kinh, Thái, H.Mông, Khơ Mú,
Dao.
Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo các
cấp Uỷ đảng, chính quyền địa phương của PGD&ĐT và sự đồng thuận của cộng
đồng dân cư.
2. Thực trạng đạo đức của người cán bộ, đảng viên trường PTDTBT
Tiểu học số 2 xã Pắc Ta hiện nay.
2.1. Mặt tích cực
Đội ngũ đủ về số lượng. Cán bộ, giáo viên nhiệt tình, có trách nhiệm với
công việc được giao, bám trường, bám lớp. Có ý thức chấp hành các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; các nội quy, quy chế của
ngành, của trường. Toàn trường có 24 cán bộ, giáo viên, nhân viên (9 nữ chiếm
37,5%) với 10 lớp/242 học sinh. Ban giám hiệu gồm 02 đồng chí, 18 giáo viên, 4
nhân viên. Tỉ lệ giáo viên cơ hữu đảm bảo 1,5 GV/lớp; có đủ phòng học để dạy 2
buổi/ngày. Hiện nay, trường có 1 chi bộ sinh hoạt độc lập với 17 Đảng viên; các tổ
chức đoàn thể hoạt động khá đồng bộ và có hiệu quả. Từ 01/01/2014 đến nay Chi bộ
10


nhà trường đã triển khai học tập và thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính
sách Pháp luật của Nhà nước, của Tỉnh, huyện, của Đảng uỷ xã tới cán bộ, đảng viên,

giáo viên, nhân viên và học sinh thông qua các buổi họp hội đồng nhà trường; triển
khai tới học sinh thông qua các buổi hoạt động đầu tuần và các buổi hoạt động tập thể.
Sau khi được quán triệt, tuyên truyền, nghiên cứu học tập các Nghị quyết, Chỉ thị
của Đảng, Chính sách Pháp luật của Nhà nước, việc “Xây dựng đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên trường PTDTBT Tiểu học số 2 xã Pắc Ta hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” Chi bộ nhà trường đã tiến hành các hoạt động chỉ đạo, kiểm tra,
đôn đốc, giám sát sơ, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách
Pháp luật của Nhà nước đối với cán bộ, giáo viên, nhân viên hàng tháng, hàng kỳ.
Ban giám hiệu nhà trường đã cùng với cấp ủy chi bộ lãnh đạo các bộ phận,
đoàn thể tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn quán triệt, học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách nghiêm túc đến toàn thể cán bộ, đảng
viên, giáo viên.
Gắn thực hiện chương trình hành động, kế hoạch thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ xã Pắc Ta và với phong trào "Xây dựng trường học văn
hóa", quy chế dân chủ trong nhà trường, phong trào thi đua yêu nước, thực hành
tiết kiệm; phòng chống quan liêu, tham nhũng lãng phí; tương thân, tương ái, từ
thiện, nhân đạo; đoàn kết bảo vệ an ninh chính trị-trật tự an toàn xã hội...Trong
trường học thực hiện tốt các cuộc vận động, nhiều cá nhân đã chủ động sáng tạo
trong việc triển khai Cuộc vận động phù hợp với điều kiện cụ thể của bản thân,
góp phần quan trọng thực hiện đạt và vượt mức chỉ tiêu kế hoạch của nhà trường
đề ra.
2.2. Mặt hạn chế
Sau mấy năm thành lập huyện Tân Uyên Nhìn chung có sự tăng trưởng toàn
diện các lĩnh vực trong đời sống. Tuy nhiên, kinh tế địa phương còn nhiều khó
khăn, tỉ lệ hộ nghèo chiếm 21,6%. Gần đây trong nhà trường xuất hiện một bộ
phận không nhỏ đảng viên, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối
sống, bất chấp luật pháp và dư luận xã hội.
Tình hình an ninh, tệ nạn xã hội trên địa bàn tương đối phức tạp. Nhiều vấn đề
mới đặt ra rất bức xúc, môi trường kinh tế - xã hội rất phức tạp, nhất là mặt trái
của cơ chế thị trường với những biểu hiện tiêu cực của nó đã tác động, làm phai

11


nhạt lý tưởng, làm suy thoái phẩm chất đạo đức cách mạng của một bộ phận đảng
viên. Nếu không tìm ra nguyên nhân và chấn chỉnh kịp thời thì các tệ nạn xã hội
diễn ra ngày càng nhiều trên địa bàn huyện.
Trường PTDTBT Tiểu học số 2 xã Pắc Ta cũng nằm trong vòng tròn quỹ đạo
đó. Do đó công tác giáo dục đạo đức cách mạng những năm qua của nhà trường
chưa được coi trọng đúng mức, nhiều đảng viên, giáo viên có biểu hiện sa sút đạo
đức, lối sống, nhưng chưa được cấp ủy đấu tranh phê bình mạnh mẽ và xử lý
nghiêm minh. Việc kiểm tra, quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, việc tu dưỡng, rèn
luyện của đội ngũ đảng viên còn bị xem nhẹ. Vì vậy việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên càng có ý nghĩa hơn khi kẻ thù của chúng ta đang
thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình, khi mà đất nước tiến hành mở cửa, hội nhập
các nền văn hoá khác đang thâm nhập vào tư tưởng cán bộ, đảng viên bằng nhiều
con đường khác nhau.
Vì thế sự suy thoái về đạo đức cách mạng, tự diễn biến, tự chuyển hóa của
một số cán bộ, đảng viên ngày càng gia tăng và còn nguy hiểm hơn nữa là thay đổi
lập trường, tư tưởng chính trị, có lập trường tư tưởng không vững vàng hay bị kẻ
xấu lợi dụng, tuyên truyền muốn đưa đất nước đi theo con đường khác. Sự suy
thoái về đạo đức này nếu chúng ta không có biện pháp ngăn chặn thì bước tiếp
theo tất yếu đó là biến chất về phẩm chất tư tưởng, chính trị. Ban giám hiệu nhà
trường cùng với một số tổ chức trong nhà trường có phần nào xem nhẹ, buông
lỏng mặt văn hoá, xã hội. Chỉ dừng lại ở hình thức, thành tích, phong trào mà
không xem đó là chiến lược, là công việc thường xuyên đối với sự phát triển và
trưởng thành của cán bộ, đảng viên
Thực trạng trên cho thấy tầm chiến lược, ý nghĩa to lớn, sâu sắc từ tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức của người đảng viên. Đồng thời cũng chứng tỏ chúng ta
chưa khai thác, vận dụng tư tưởng đạo đức đó vào thực tiễn xây dựng Đảng một
cách đầy đủ, nhất quán và có hiệu quả. Vì vậy, để giữ gìn nâng cao đạo đức cách

mạng cho đảng viên trong điều kiện hiện nay, một vấn đề cấp bách phải đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngan chăn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện «tự diễn
biến», « tự chuyển hóa» trong nội bộ.
3. Nguyên nhân của những mặt chưa tốt trong đạo đức của người cán
bộ, đảng viên trường PTDTBT Tiểu học số 2 xã Pắc Ta hiện nay.
12


Trong quá trình triển khai xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên trường PTDTBT Tiểu học số 2 xã Pắc Ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.còn có những hạn chế nhất định như: Các bước còn gặp nhiều lúng túng,
nhận thức về tầm quan trọng của Cuộc vận động trong mỗi cán bộ, đảng viên và
nhân dân còn chưa đồng đều; ở một số cá nhân công tác tự phê bình và phê bình,
vai trò tiên phong gương mẫu còn chưa cao; công tác tuyên truyền về gương điển
hình học tập và làm theo Bác còn chưa thường xuyên, còn mang tính hình thức;
kết quả "làm theo" Bác ở một số cá nhân chưa thật sự rõ nét, chưa tạo ra phong
trào rộng lớn, tự giác. Trong công tác đánh giá, kiểm điểm, xét thi đua của tập thể,
cá nhân ở đơn vị có lúc chưa đưa nội dung thực hiện Cuộc vận động vào đánh giá.
Các đợt phát động viết về những điển hình học tập và làm theo tấm gương đạo đức
của Bác triển khai chậm, hoặc còn nặng về thành tích (chú trọng số lượng, ít quan
tâm đến chất lượng); công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai, tổ chức thực hiện
còn chưa thường xuyên.
Nhà trường có một số giáo viên được tăng cường có thời hạn nên ảnh hưởng
không nhỏ đến việc xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Một số giáo viên, nhân viên chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của việc xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Một số
cá nhân chưa có quyết tâm cao, thực hiện còn lúng túng.

Công tác tuyên truyền việc xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong cán bộ, đảng viên giáo viên, nhân viên chưa thường xuyên, liên
tục, mới tập trung ở các Đảng viên, gương tập thể và cá nhân học tập và làm theo chưa
nhiều, chưa trở thành phong trào, sức lan tỏa còn hạn chế.

13


Chương 3:
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM GIÁO DỤC, TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRƯỜNG PTDTBT TIỂU
HỌC SỐ 2 XÃ PẮC TA HIỆN NAY.
1. Cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời nhằm nâng
cao đạo đức cách mạng.
Đối với mỗi người cán bộ, đảng viên cần phải tu dưỡng đạo đức. Vì cán bộ,
đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ suốt đời của nhân dân nên
càng phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Nếu không là được như vậy thì một người
đảng viên ở thời kỳ này giữ được đạo đức cách mạng, nhưng ở thời kỳ khác lại
thoái hóa, biết chất, hư hỏng. Thực tiễn đã chứng minh điều đó.
Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa
vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng. Người cách mạng phải
có ý thức được đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng con người và đạo đức của
những con người được giải phóng. Việc tu dưỡng đạo đức của người cán bộ, đảng
viên phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn của bản thân mình, bền bỉ,
mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh: trong đời tư cũng như đời công; trong sinh hoạt;
học tập lao động cũng như trong chiến đấu; trong mọi mối quan hệ từ to đến nhỏ,
từ rộng đến hẹp.
Cùng với việc rèn luyện, tu dưỡng suốt đời đạo đức cách mạng, người đảng
viên phải luôn củng cố nó một cách vững chắc trên nền tảng của chủ nghĩa MácLênin. Có như vậy mới làm tốt công tác Đảng giao phó cho mình.
2. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức và học tập tấm gương

sáng về đạo đức.
Không ở một lĩnh vực nào mà sự đòi hỏi lời nói phải đi đôi với việc làm lại
được chú trọng như trong lĩnh vực đạo đức. Điều này đã được Hồ Chí Minh nêu ra
ngay trong tác phẩm “Đường cách mệnh” khi nói về tư cách của một người cách
mệnh.
Trong lĩnh vực đạo đức, nói đi đôi với làm là nguyên tắc có tác dụng thiết
thực đối với bản thân và có tác dụng đối với người khác. Đối với người cán bộ,
đảng viên, điều đó lại càng quan trọng để tu dưỡng đạo đức chân chính vầ chống
lại thói đạo đức giả.
14


Cùng với nêu gương đạo đức, cán bộ, đảng viên phải học tập thật nhiều
những tấm gương đạo đức của đồng chí, đồng nghiệp, đặt biệt là nhân cách đạo
đức của các danh nhân và những ngươi vĩ đại đã cống hiến toàn bộ cuộc đời và sự
nghiệp cho sự phát triển của các dân tộc và của nhân loại.
Chúng ta cần phải học tập Hồ Chí Minh vì người là tấm gương đạo đức mẫu
mực nhất, sáng ngời nhất. Người không chỉ là nhà đạo đức đề ra các chuẩn mực
đạo đức cách mạng mà còn là người tiên phong thực hiện những chuẩn mực đạo
đức ấy một cách tự nhiên, chân thực, nhất quán trong mọi tư tưởng, lời nói, việc
làm, hành động, trong mọi mối quan hệ xã hội
3. Cấp ủy nhà trường phải thường xuyên giáo dục đạo đức đối với
người cán bộ, đảng viên.
Khi bàn về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Hiền dữ đâu
phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Chính qua đó mà chúng ta thấy
rằng vai trò quyết định của giáo dục và tự giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
của con người nói chung và người cán bộ, đảng viên nói riêng.
Về việc giáo dục đạo đức cho người đảng viên, thì Chi bộ nhà trường có vai
trò quan trọng, vì chi bộ tốt là do các đảng viên trong chi bộ phải tốt. Tuy nhiên
trong những năm qua nhà trường chưa quan niệm đầy đủ về vai trò của công tác

giáo dục đạo đức hoặc quan niệm coi giáo dục đạo đức là cần thiết, song chưa chú
trọng đến chất lượng nội dung giáo dục. Để khắc phục quan niệm đó, vấn đề trước
hết là phải đổi mới công tác giáo dục đạo đức đối với người cán bộ, đảng viên. Chi
bộ nhà trường đã duy trì việc đưa nội dung việc xây dựng đạo đức cách mạng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên giáo viên, nhân viên vào
nội dung sinh hoạt thường kỳ coi đó là một trong những tiêu chí để phân xếp
loại cán bộ, đảng viên, giáo viên, nhân viên vào cuối năm.
Để nhà trường cũng như chi bộ trong sạch, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải
giữ đúng thái độ trong cách tự phê bình và phê bình, phải thành khẩn, trung thực,
kiên quyết và có văn hóa, không nể nang, không thêm bớt. Đây là cách tốt nhất về
xây dựng Đảng, để đoàn kết thống nhất và ngày càng phát triển.
Để có chất lượng và hiệu quả cao, phải kết hợp chặt chẽ tự phê bình với phê
bình. Tự hiểu về mình dù sao cũng không thể đầy đủ, đồng chí, đồng nghiệp

15


thường có cái nhìn khách quan hơn. Cho nên mỗi đảng viên cần khiêm tốn lắng
nghe, tiếp thu ý kiến phê bình của người khác.
Phê bình và tự phê bình là một vũ khí sắc bén, nó giúp cho Chi bộ nhà
trường ngày càng mạnh thêm. Vì vậy, phê bình và tự phê bình phải được tiến hành
một cách thường xuyên, thiết thực, dân chủ.
Việc xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong cán
bộ, đảng viên giáo viên, nhân viên đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của chi bộ, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị địa phương. Đáp ứng tình
cảm, nguyện vọng của nhân dân, của phụ huynh học sinh, được đông đảo cán bộ,
đảng viên, giáo viên, nhân viên hưởng ứng với tinh thần phấn khởi, tin tưởng và đồng
tình cao.
4. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, làm trong
sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Tham nhũng, quan liêu là vấn đề nhạy cảm được xã hội đặt biệt quan tâm và
cũng là một nguy cơ tồn vong đối với Đảng.
Theo Hồ Chí Minh thì cán bộ dù to hay nhỏ đều có điều kiện đục khoét là
sâu mọt của nhân dân nếu như thiếu lương tâm. Và Đảng ta đã khẳng định một
trong những nguy cơ lớn của cách mạng nước ta hiện nay là nạn tham nhũng. Vì
vậy, để góp phần ngăn chặn, làm giảm và đẩy lùi tham nhũng cần tăng cường giáo
dục cho cán bộ, đảng viên, nêu cao tinh thần “ Chí công vô tư” mà Bác Hồ đã dạy.
Đối lập với chí công vô tư là “chủ nghĩa cá nhân”. Chủ nghĩa cá nhân còn
có mối nguy hại cho Đảng cho cả dân tộc. nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi
ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng
lợi ích chung của tập thể.
Cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu và nạn tham nhũng là một nội dung rộng
lớn và là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng chỉnh đốn
Đảng, và phải được tiến hành thường xuyên liên tục, làm cho bộ máy Đảng và nhà
nước trong sạch, có hiệu lực lãnh đạo và điều hành đất nước.
5. Tăng cường hiệu lực quản lý, kiểm tra, giám sát của Chi bộ, các đoàn
thể đối với cán bộ, đảng viên.
Nâng cao chất lượng hoạt động của cấp ủy, các đoàn thể để ngăn ngừa hành
vi tham nhũng, quan liêu của cán bộ, đảng viên. Đồng thời nếu làm tốt công tác
16


này sẽ nâng cao được việc học tập, quán triệt, rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo
đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Công tác kiểm tra, giám sát Cuộc việc xây dựng đạo đức cách mạng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên giáo viên, nhân viên được coi
trọng, chỉ đạo sát sao, qua đó kịp thời phát hiện những vướng mắc nảy sinh, những
hạn chế, thiếu sót, từ đó giúp cán bộ, đảng viên, giáo viên, nhân viên uốn nắn, điều
chỉnh, sửa chữa kịp thời.
Cùng với những biện pháp nêu trên, cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt

chẽ về tài chính, ngân sách và tài sản của cán bộ, đảng viên để ngăn chặn kịp thời
những hành vi tham nhũng. Cấp ủy Đảng cần thực hiện nghiêm chỉnh việc đảng
viên kê khai tài sản, báo cáo thu nhập. Cấp ủy cần tăng cường công tác quản lý
cán bộ, đảng viên, nhất là quản lý về sinh hoạt, đời sống, quan hệ xã hội.

17


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đạo đức Hồ Chí Minh là đỉnh cao rực rỡ nhất của nền văn hóa Việt Nam, là
nền đạo đức lấy tiêu chí phục vụ đất nước, nhân dân, con người làm mục đích
phấn đấu. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta quyết tâm học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Sức sống
của những chuẩn mực đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh ngày càng tỏa sáng và
thấm sâu vào đời sống tinh thần, nếp nghĩ của mỗi người dân Việt Nam. Đạo đức
Hồ Chí Minh ngày càng trở thành niềm tin cuốn hút mọi thế hệ người Việt Nam
phấn đấu, làm theo.
Sau 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hiện nay phần
lớn đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn giữ và phát huy tư cách, đạo đức lối sống lành
mạnh, tích cực lao động, học tập, công tác, gắn bó với nhân dân…chính nhờ thế
chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới. Tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất
về đạo đức. Bộ phận này không nhiều nhưng đã gây mất đoàn kết trong nội bộ,
làm giảm uy tín lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến suy thoái đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Nhưng, trong đó có nguyên nhân quan trọng nhất đó là mắc bệnh chủ nghĩa cá
nhân, sống buông thả, thiếu tự giác rèn luyện, tu dưỡng, trong khi đó sự giáo dục,
quản lý, kiểm tra của Cấp ủy còn lỏng lẻo. Để giải quyết tốt được vấn đề này thì
mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn phải khắc sâu và thực hiện ngay lời thề với Bác

“Suốt đời học tập và bồi dưỡng phẩm chất cách mạng”
Đạo đức, lương tâm là ngọn đuốc soi sáng trí tuệ, bảo đảm cho tài năng
được phát huy vào những mục đích phục vụ Tổ quốc và nhân dân, không vụ lợi.
Sự yếu kém, sa sút về đạo đức sẽ làm cho cán bộ đảng viên không thể làm tròn
chức trách, mà còn có nguy cơ thoái hóa, biến chât, phạm tội, thậm chí phản bội
quốc gia dân tộc.
Để phát huy vai trò, vị trí của người cán bộ, đảng viên, thì việc chấn chỉnh
đi đôi với xây dựng lại đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một sự
nghiệp lớn của Cấp ủy và Nhà trường, trước hết là của những người làm công tác
quản lý, lãnh đạo. Chỉ khi làm được những vấn đề đó thì mới nâng cao được đạo
18


đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong trường PTDTBT Tiểu học số 2 xã Pắc
Ta
2. Kiến nghị
- Mỗi cán bộ, đảng viên trong nhà trường phải thường xuyên tu dưỡng rèn
luyện đạo đức cách mạng, coi đây là một việc làm thường xuyên của mỗi cán bộ,
đảng viên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb, CTQG, HN 2000.
2. GS.TS.Hoàng Chí Bảo. Văn hoá đạo đức Hồ Chí Minh- NXB- CTQGHN 2009.
3. Nguyễn Khánh Bật ( chủ biên). Những bài giảng về môn học tư tưởng Hồ
Chí Minh. NXB chính trị quốc gia Hà Nội 1999.
4. Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (2003), “mấy vấn đề đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí triết học, (1).
5. PGS- TS Thành Duy: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Nhà xuất bản
chính trị Quốc gia năm 1996.
19



6. Báo cáo kết quả 2 năm (2009 - 2010) thực hiện Cuộc vận động tại Đảng
bộ huyện Tân Uyên từ khi thành lập huyện đến nay.

20



×