Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN QUYỀN lực NHÀ nước và vấn đề KIỂM SOÁT QUYỀN lực NHÀ nước ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.57 KB, 28 trang )

1

“Quyền lực nhà nước và

vấn đề kiểm soát quyển lực nhà nước ở Việt Nam hiện

nay”

MỞ ĐẦU
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp sửa đổi năm 2013 bổ sung một
nguyên tắc mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta: “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Đây vừa là quan điểm,
vừa là nguyên tắc chỉ đạo công cuộc tiếp tục, xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà
nước ta trong thời kỳ mới. “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu quyền lực đều là
của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ đều là của dân, chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân cử ra, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương do dân
tổ chức ra. Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” 1. Đây là luận điểm thể
hiện những vấn đề căn bản nhất đó là: Nhà nước do dân thiết lập và trao quyền lực,
nghĩa là quyền lực nhân dân trở thành quyền lực nhà nước. Quyền lực đó thể hiện ý
chí của nhân dân được báo đảm thực hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước, trong
đó có độc quyền bộ máy cưỡng chế, trấn áp và hệ thống quy phạm pháp luật.
Đất nước trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tổ chức và hoạt động của
bộ máy quyền lực nhà nước nói chung, các thể chế kiểm soát (kiểm tra, thanh tra, kiểm
sát, tài phán, giám sát) quyền lực nhà nước nói riêng từ Trung ương đến cơ sở có nhiều
điểm bất cập như còn chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và
trách nhiệm của tập thể và cá nhân chưa được chế định chặt chẽ. Xảy ra tình trạng tập
trung quá mức ở Trung ương, vừa phân tán, cục bộ ở các cấp, các ngành.


1

Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 698


2

Hiện nay; ở nước ta có nơi xuất hiện nguy cơ chính quyền địa phương xa rời
nhân dân, với những biểu hiện là một số cán bộ công chức nắm quyền lực được
nhân dân ủy thác lại xa dân, xa cấp dưới, xa cơ sở. Nhiều vấn đề bức xúc về chính
trị, xã hội liên quan đến quyền lực nhà nước đang gây hậu quả xấu cho xã hội, làm
suy yếu mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Vì vậy, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta đã trở thành yêu cầu
cấp bách, đòi hỏi phải được giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đồng thời đề ra
các giải pháp tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, góp phần vào
việc chống tha hóa quyền lực, đẩy mạnh thực hành dân chủ trong xã hội, bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân lao động, của nhà nước trong chế độ chính
trị xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Phạm vi bài viết này nêu lên một số vấn đề về
“Quyền lực nhà nước và vấn đề kiểm soát quyển lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”
NỘI DUNG
1. Kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu tất yếu khách quan.
1.1 Khái niệm về quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước
Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, xuất hiện từ khi xã hội loài
người bị phân chia thành những giai cấp đối kháng. Quyền lực nhà nước là biểu
hiện tập trung của quyền lực chính trị và là trung tâm của quyền lực chỉnh trị, được
hình thành thông qua cuộc đấu tranh chính trị, nhằm giành quyền tổ chức nhà nước
và thực hiện chức năng thống trị xã hội. Quyền lực nhà nước được thực hiện thông
qua tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có việc tổ chức và việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đồng thời còn được bảo đảm
bằng các phương tiện độc quyền như luật pháp, và bộ máy cưỡng chế chuyên nghiệp

quân đội, cảnh sát, nhà tù...
Sự thay đổi vai trò vị trí của các giai cấp trong đời sống sản xuất xã hội sẽ dẫn
tới việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác, dẫn
tới thay đổi căn bản tính chất của quyền lực nhà nước, phương thức cầm quyền, các


3

quan hệ chính trị, các thể chế chính trị và hệ thống chính trị. Các cơ quan nhà nước
thực chất là các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước, được các giai cấp và lực lượng
xã hội (còn gọi là nhân dân) trao quyền cho mà thôi. Tuy nhiên, do những hình thức
ủy quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước khác nhau, nên nhiều lúc quan hệ giữa
người có chủ quyền và người được ủy quyền bị tha hóa, xuyên tạc.
Quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội có những điểm khác biệt so với
quyền lực nhà nước trong các xã hội trước đó ở chỗ nhà nước chủ nghĩa xã hội là
nhà nước chuyên chính của giai cấp công nhân. Nhưng lợi ích căn bản của giai cấp
công nhân là thống nhất với lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Nên quyền lực
nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội đã có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội,
giữa tính chính trị với tính công quyền. Trong các kiểu nhà nước khác, đặc biệt là
nhà nước quân chủ chuyên chế, giữa chức năng giai cấp đối lập với chức năng xã
hội, lợi ích của giai cấp thống trị đối lập với lợi ích quảng đại quần chúng.
Trong nền dân chủ chủ nghĩa xã hội, chức năng giai cấp và chức năng xã hội
tạo thành một thể thống nhất, trở thành điều kiện và tiền đề hoàn thiện cho nhau. Ở
Việt Nam, các bản hiến pháp đều nhất quán khẳng định quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân. Tại Điều 1 Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
quy định rõ: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo giai cấp, tôn giáo". Tư tưởng nhất
quán này đều được thể hiện qua Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp
1992. Tại Điều 2 và Điều 6 Hiến pháp 1992 thì "Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức", "nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân". Quyền lực nhà
nước bao giờ cũng được thực hiện bởi các cơ quan trong bộ máy, với những con
nguời cụ thể trong bộ máy ấy. Vì vậy, việc thực thi quyền lực cụ thể phụ thuộc vào


4

phương thức tổ chức bộ máy nhà nước và con người trong bộ máy ấy. Nếu như
người cầm quyền được trao quyền, không biết thực thi quyền lực cho đúng, hoặc sử
dụng quyền lực vì mục đích vụ lợi thì sức mạnh của quyền lực nhà nước sẽ gây
nguy hiểm cho xã hội. Vì thế muốn có một xã hội tốt đẹp, quyền tự do con người
được đề cao, xã hội không phải gánh chịu những lộng hành sai phạm vô ý thức hoặc
có ý thức của nhà nước thì phải có cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước, kiểm soát hoạt động của công chức, viên chức nhà nước. Đây là một yêu cầu
tất yếu trong tổ chức và hoạt động của một nhà nước dân chủ, kể cả trong nền dân
chủ XHCN của chúng ta.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là hoạt động có chủ đích của nhà nước và xã
hội, với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thông qua các hình thức
hoạt động như giảm sát, kiểm tra, thanh tra, kiếm sát, kiếm toán, tài phản nhằm hạn
chế nguy cơ sai phạm cũng như những hành vi lộng quyền, chuyên quyền, độc đoán
của cơ quan quyền lực nhà nước và của công chức nhà nước. Đảm bảo cho quyền
lực nhà nước được thực hiện đúng mục đích, khoa học, hiệu lực và hiệu quả.
1.2 Cơ sở khoa học của việc kiểm soát quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân. Các cơ quan Nhà nước, cán bộ,
công chức nhà nước có trong tay quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy quyền; Tuy
nhiên các cán bộ công quyền cũng chỉ là con người, không phải là thần thánh, chính
vì vậy họ cũng hoàn toàn có thể mắc sai lầm, vì thế để hạn chế những sai lầm, thiếu

sót trong thực thi quyền lực nhà nước thì phải kiểm tra, kiểm soát để tránh lạm quyền.
Mục đích của việc kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo cho quyền lực
nhà nước không bị lạm dụng, ngăn chặn các hiện tượng, xu hướng, quan liêu, độc tài,
chuyên quyền, độc đoán trong bộ máy nhà nước, không bị sử dụng trái với ý chỉ của
nhân dân. Khi quyền lực càng tập trung, thì khả năng kiểm soát quyền lực càng khó.
Nếu không có sự kiểm soát tốt quyền lực sẽ trở thành bức rào cản của tự do và dân
chủ, kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Xã hội càng phát triển, quyền lực của nhà nước càng
lớn thi yêu cầu của kiểm soát quyền lực nhà nước tăng lên. Quyền lực nhà nước có


5

thể được kiểm soát thông qua hai yếu tố: Quá trình tổ chức bộ máy nhà nước sao cho
các bộ phận của nhà nước có khả năng kiểm soát lần nhau và hoạt động của các hệ
thống kiểm soát quyền lực từ bên trong và bên ngoài bộ máy nhà nước.
Trong các xã hội bóc lột trước đây, nhà nước xuất hiện từ xã hội, trở thành lực
lượng tách rời xã hội, đứng trên xã hội, do đó nó có nguy cơ thoát ly khỏi sự kiểm
soát của của nhân dân. Mặc dù, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Như thế
trong xã hội có giai cấp đối kháng, nhân dân có rất ít khả năng thực tể tham gia vào
việc tổ chức quyền lực nhà nước, để từ đó kiểm soát được quyền lực. Việc kiểm soát
quyền lực này thực tế phụ thuộc trước hết là vào cấu trúc quyền lực của nó. Một cấu
trúc có thể cho phép tồn tại sự kiểm soát, sau đó là năng lực kiểm soát của các chủ
thể khác. Chế độ tập quyền chuyên chế kéo dài suốt thời kỳ trung cổ thực sự là
mảnh đất cho sự lộng hành, cản trở sự phát triển xã hội. Để xóa bỏ rào cản đi đến tự
do, dân chủ đã buộc các nhà tư tưởng phải tìm ra các giái pháp cho sự tiến bộ xã hội,
học thuyết phân quyền mà trường phái khai sáng đề xướng đến nay vẫn là những chỉ
dẫn cho việc kiểm soát quyền lực ở các quốc gia, phân chia rành mạnh về chức năng
và nhân sự, cùng với cơ chế kìm chế, đối trọng vừa có tác dụng đề cao trách nhiệm
cá nhân, ở mức độ nhất định cơ chế phân quyền đảm bảo tính độc lập của cơ quan
xét xử và đảm bảo (ở mức độ nhất định) hiệu lực của hiến pháp.

Xuất phát từ ưu điểm trên đây, các nước tư bản hiện đại đã áp dụng học thuyết
phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước của minh và coi đó là một trong
những nguyên tắc quan trọng nhất, có ý nghĩa cơ sở để đảm bảo dân chủ, tự do, bình
đẳng xã hội. Tuy nhiên cũng cần nói rằng, mặt trái của phân quyền là tranh giành,
chia rẽ phân tán quyền lực nếu không được kiểm soát tốt. Vì vậy, phân quyền vừa có
mục đích kiểm soát quyền lực vừa phải kiểm soát cả sự phân quyền và thực thi
quyền lực trong cơ chế phân quyền.
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền lực nhà
nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền lực được nhân dân ủy
quyền và giao quyền. Vì thế, tất yếu nảy sinh đòi hỏi tự nhiên và chính đáng là phải


6

kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực
nhà nước lại có nguy cơ thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành
đối lập với chính mình lúc ban đầu (từ của nhân dân là số đông chuyển thành số ít
của một nhóm người hoặc của một người). C. Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa
của quyền lực nhà nước. Hơn nữa, quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các
cơ quan nhà nước suy cho cùng là giao cho những người cụ thể thực thi. Mà con
người thì “luôn luôn chịu sự ảnh hưởng của các loại tình cảm và dục vọng đối với
các hành động của con người. Điều cũng khiến cho lý tính đôi khi bị chìm khuất”.
Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm thì khả
năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Với đặc điểm đó của
con người, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ
những gì mà nhân dân đã ủy quyền. Chế độ XHCN, về nguyên tắc nhân dân có toàn
quyền quyết định đối với quyền lực nhà nước, có toàn quyền kiểm soát quyền lực
đó. Thế nhưng các nguyên tắc đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi có một cơ chế tổ
chức và thực hiện khả thi quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Nhân dân, với tư
cách là người chủ của quyền lực, có quyền và cần thiết phải thực hiện sự kiểm soát

như vậy nhằm đảm bảo quyền lực được thiết lập và thực hiện vì lợi ích của nhân dân
và xã hội. Nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân thông qua những người đại diện
của mình có thể kiểm soát toàn bộ quyền lực nhà nước.
1.3. Tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước trong lịch sử tư tưởng
chính trị
Việc kiểm soát quyền lực có thể được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau,
trong đó có ít nhất là hai xuất phát điểm cơ bản: Từ lợi ích của những người nắm giữ
quyền lực và từ lợi ích của những người chịu tác động quyền lực.
Các nhà tư tưởng cổ đại Phương Đông bàn về quyền lực chính trị và kiểm
soát quyền lực cai trị đáng chú ý nhất trong trường phái pháp trị Trung Hoa cổ đại,
được biểu hiện trong tác phẩm của Hàn Phi Tử, một "Tập đại thành" gói trọn kinh
điển pháp gia. Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử là một hệ thống quan điểm về


7

pháp - thế - thuật, lấy pháp làm nội dung cai trị. Pháp luật được Hàn Phi xem là tiêu
chuẩn để phân biệt đúng - sai, chính tà, là phương tiện của người cầm quyền dùng
để điều khiển đất nước. Theo Hàn Phi chỉ có pháp luật mới làm cho nước trị: "Cái
làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì
không ai có thể làm điều riêng tư được nữa"2
Các nhà tư tưởng cổ đại phương Tây nêu ra tư tưởng phân quyền, ở những
mức độ khác nhau. Đại biểu của những tư tưởng ấy là Platôn và Arixtôt.

Aristôt

quan

niệm hình thức nhà nước phụ thuộc vào cách tổ chức quyền lực chính trị. Nhà nước
là một thể thống nhất được tạo bởi ba bộ phận độc lập. Cơ quan nghị luận (làm luật),

cơ quan chấp hành (hành chính), cơ quan xét xử. Tư tưởng phân quyền thời cổ đại
chỉ là phân công lao động, phân công chức năng, thẩm quyền giữa các bộ phận của
bộ máy nhà nước. Việc thực hiện nhiệm vụ nhà nước theo chức năng, tự nó đã có sự
giám sát quyền lực.

Platôn

cho rằng, nguyên tắc cơ bản của xã hội lý tưởng là chính

trị phân giải thành pháp lý, hành chính, tư pháp và ngoại giao. Song tất cả các yếu tố
đỏ phải được thống nhất bởi chính trị. Tức là phân công lao động trong bộ máy nhà
nước là cần thiết, hoạt động của nhà nước như lập pháp, hành pháp, tư pháp cùng
nhằm vào một đối tượng, nhưng đồng thời chúng có khác nhau.
Các nhà tư tưởng thời cận đại đã kế thừa tư tưởng phân quyền về kiểm soát
quyền lực thời cổ đại, phát triển thành học thuyết "phân chia quyền lực" vào thời kỳ
cách mạng tư sản thế kỷ XVI - XVIII đại diện là Jon Lock và đỉnh cao là Mongtecxkiơ.
Mongtexkiơ (1689 - 1775):

Là nhà tư tưởng chính trị xuất sắc của Pháp, người đề

xướng học thuyết phân quyền; tư tưởng của ông được phản ánh trong tác phẩm
"Tinh thần pháp luật" và "Những bức thư thành Ba Tư".
Nghiên cứu lịch sử của chế độ chuyên chế, quyền lực nằm trong tay một
người, hay một tổ chức tất yếu dần đến lạm quyền và sử dụng quyền lực để mưu lợi
ích riêng. Mongtexkiơ cho rằng, để loại trừ khả năng lạm quyền thì cần phải thiết
2

Phan Ngọc (1992), Hàn Phi Tử, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.



8

lập một trật tự trong đó quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp phải độc lập, trở
thành lực lượng kiềm chế nhau. Quyền lập pháp được chia giữa tư sản và phong
kiến. Nghị viện có hai viện, Thượng viện đại diện cho quý tộc; Hạ viện đại diện cho
dân. Mongtecxkiơ giải thích: "Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại
trong tay một người hay một viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì
người ta sợ rằng chính ông ta hay Viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một
cách độc tài"3. Cũng tương tự như vậy, "nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập
pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân" và "nếu
quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thi ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của
kẻ đàn áp" và ông còn cho rằng, quyền tư pháp phải độc lập, không trao cho cơ quan
thường trực nào, mà trao cho nhân dân bầu theo định kỳ.
Thuyết phân chia quyền lực ra đời trở thành ngọn cờ tư tưởng của giai cấp tư
sản tập hợp quần chúng chống chế độ phong kiến. Khi giai cấp tư sản giành được
chính quyền, học thuyết này đã trở thành nguyên tắc căn bản về tổ chức và hoạt
động của nhà nước tư sản. Ý nghĩa lịch sử của học thuyết phân quyền là ở chỗ thấy
được sức mạnh của quyền lực nhà nước (với tư cách là quyền lực của nhân dân ủy
quyền). Vì thế nó không được trao cho một ai hoàn toàn, mặt khác nó cho thấy sự
nguy hiểm nếu quyền lực nhà nước không được kiểm soát để rơi vào tay quý tộc hay
tư sản. Cũng cần thấy rằng, nguồn gốc sâu xa của lý thuyết phân quyền là ở chỗ nó
đã thích ứng với tính không thuần nhất về lợi ích giữa các bộ phận khác nhau trong
nội bộ giai cấp tư sản, thích ứng với tình trạng tranh giành quyền lực diễn ra liên tục
giữa các bộ phận đó.
Quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít về kiểm tra - kiểm soát quyền lực
nhà nước
Qua di sản lý luận mà Mác - Ăngghen để lại, hầu như hai ông không đi sâu
bàn tới việc kiểm soát quyền lực một cách trực tiếp, mà bàn tới công tác kiểm tra,
kiểm soát của Đảng và Nhà nước. Trong bộ Tư bản, Mác đã đề cập đến công tác
3


Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr 100


9

kiểm tra nói chung - kiểm tra là một phương thức hành động để thực hiện mục đích.
Nó như là quy luật. Như vậy theo quan điểm của Mác - Ăngghen thì kiểm tra là một
tất yếu khách quan đối với hoạt động của con người và tổ chức. Có hoạt động thì
phải có kiểm tra. Các Mác khẳng định rằng: Vào một thời kỳ ở một nước mà thế lực
vua chúa, giai cấp quý tộc và giai cấp tư sản tranh giành quyền thống trị, mà do đó
quyền thống trị bị phân chia thì học thuyết phân quyền tỏ ra là tư tưởng thống trị, nó
được người ta coi là quy luật vĩnh viễn... mỗi điều khoản của hiến pháp đều chứa
sẵn trong bản thân nó cái phản đề của bản thân nó, cái thượng viện và hạ viện của nó
tự do trong câu nói chung chung, và xóa bỏ cái tự do trong điều khoản kèm theo...
Hiến pháp đã được thảo ra sao cho nghị viện có thể gạt bỏ được tổng thống bằng con
đường lập hiến, nhưng Tổng thống lại có thể gạt bở nghị viện bằng con đường
không hợp hiến, bằng cách thủ tiêu luôn cả hiến pháp. Như thế là ở đây, bản thân
hiển pháp lại đi thách thức thủ tiêu mình bằng bạo lực. Chẳng những nó thần thánh
hóa chế độ phân quyền giống như Hiến chương 1830, mà nó còn mở rộng chế độ
phân quyền đến chỗ mâu thuẫn không sao chịu nổi... Nếu hiến pháp giao cho tổng
thống quyền thực tế thì nó lại cố gắng bảo đảm cho nghị viện quyền tinh thần...4
Khi xem xét mối liên hệ giữa thuyết phân quyền với sự phân công lao động
trong bộ máy nhà nước Ph. Ăngghen đã viết "Phân quyền được xem như là nguyên
tắc thiêng liêng và không thể xâm phạm được trên thực tế, về thực chất nó không có
gì khác là sự phân công công việc lao động được áp dụng đối với bộ máy nhà nước
nhằm đơn giản hóa và để kiểm tra."5 Các ông cho rằng, Thuyết phân quyền ở đó
Nghị viện chỉ là nơi bàn cãi suông, tòa án chỉ độc lập giả dối, còn toàn bộ quyền lực tập
trung vào cơ quan hành pháp. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của các học
thuyết chính trị pháp lý, kể cả thuyết phân chia quyền lực. Đồng thời, tổng kết kinh

nghiệm đấu tranh giai cấp, Mác và Ăngghen đã cho ta thấy, trong xã hội có giai cấp đổi
kháng, quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị; nếu chế độ nhà nước đó bị
đập tan thì quyền lực nhà nước trở về tay nhân dân, như chính cội nguồn ban đầu của
4
5

C.Mác - Ph.Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị pháp lý Beclin, tr 236
C.Mác - Ph.Ăngghen (1981), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr 405


10

nó, nhân dân là gốc của quyền lực là chủ thể của quyền lực. Sự thay đổi về bản chất
này cần có quan điểm mới về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, kiểm soát
quyền lực nhà nước khi nhà nước của nhân dân lao động được thành lập dưới CNXH.
Quan điểm của V.I. Lênin về công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm kê kiểm soát,
V.I. Lênin bàn đến rất nhiều, rất sâu. Nội dung quan điểm của V.I. Lênin được thể
hiện rõ ở 4 vấn đề chủ yếu đó là: Tính tất yếu phải kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát;
Những nội dung cơ bản của kiểm tra, kiểm soát; Chủ thể kiểm tra, kiểm soát và đối
tượng của nó; tổ chức, hình thức, phương pháp tiến hành kiểm tra, kiểm soát.
Lênin, những

Theo

nội dung chủ yếu của kiểm tra, kiểm soát bao gồm : Kiểm tra, kiểm soát

việc sản xuất và phân phối những sản phẩm chủ yếu nhất; kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động tài chính và tiền tệ, nhất là hoạt động của ngân hàng, lưu thông tiền tệ, thu
nhập, chi tiêu và nộp thuế của các nhà giàu; kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các
chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc thi hành các chức trách

và chấp hành kỷ luật lao động; kiểm tra, kiểm soát để phát hiện kịp thời và đấu tranh
chống các hiện tượng tiêu cực.
Đây chính là những vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, tuy nhiên ở các quy
mô rất khác nhau. Nói một cách khái quát, theo V.LLênin, nội dung công tác kiểm tra
bao gồm: kiểm tra việc và kiểm tra người. Nó bao trùm toàn bộ việc kiểm soát việc
thực thi quyền lực nhà nước, chứ không chỉ là một quá trình của công tác lãnh đạo.
Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điếm Đảng Cộng sản Việt Nam
về công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát ở Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra,
kiềm soát gắn liền với quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Người về Đảng
nói chung, xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền, nhà nước của dân do dân, vì dân nói
riêng. Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề "đặt ra đặc biệt ủy viên Hội để điều tra và xử
đoán"6 những sự kiện cáo nhau. Tiếp đó trong các văn kiện, bài nói, bài viết từ năm
1930 đến năm 1969 tư tưởng về công tác kiểm tra, kiểm soát và thi hành kỷ luật đã
6

Văn kiện Đảng toàn tập (1998), Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


11

không ngừng được người bổ sung, hoàn thiện. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác kiểm tra, kiểm soát và thực hành kỷ luật được biểu hiện rõ nét ở những vấn đề chủ
yếu đó là: “Vì sao phải tiến hành công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý kỷ luật?; Phải tổ
chức sự thi hành cho đúng...; phải tổ chức sự kiểm soát...”7 .
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi trọng công tác
kiểm tra và giữ gìn kỷ luật. Điều lệ Đảng 1930 ghi rõ: Cái trách nhiệm của đảng
viên và các cán bộ là giữ theo kỷ luật Đảng một cách nghiêm khắc. Tất cả đảng viên
đều phải chấp hành các nghị quyết của Quốc tế, của Đảng đại hội, của Trung ương
và của thượng cấp cơ quan... Đối với vấn đề phạm kỷ luật thì do toàn chi bộ hoặc

các cấp Đảng bộ tra xét.
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra các
cấp lại được sửa đổi, bổ sung thêm những nội dung mới: Kiểm tra đảng viên, kể cả
cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp
ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng; xem xét, kết luận những
trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật; giải
quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng;
kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Thực chất của quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta là tổng hợp
các công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, của các cơ quan trong hệ thống chỉnh trị và
của nhân dân. Bảo cáo chính trị Đại hội IX chỉ rõ: “Lãnh đạo việc đổi mới và tăng
cường công tác thanh tra của Chính phủ và các cơ quan hành pháp; phát huy vai trò
giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân, theo đúng chức năng và thẩm quyền của các cơ quan đó. Tăng cường công tác
kiểm tra của cấp ủy, của ủy ban kiểm tra các cấp tập trung vào các nội dung chủ yếu:
7

Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


12

Thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chấp hành
nguyên tắc tập trung dân chủ và qui chế làm việc, củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục,
rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên”8.
Có thể nói, sự vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển của Đảng ta về công
tác kiểm tra, kiểm soát thể hiện ở mấy điểm chủ yếu sau:

Một là, Đảng ta đã cụ thể hóa rõ hơn, đầy đủ hơn vị trí, tầm quan trọng của
công tác kiểm tra - đã xác định kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo chủ
yếu của Đảng; một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Có
lãnh đạo thì phải có kiểm tra. Lãnh đạo cũng có nghĩa là kiểm tra. Công tác kiểm tra
là của toàn Đảng, các cấp ủy Đảng và người đứng đầu cấp ủy có trách nhiệm lãnh
đạo và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
Hai là, xác định rõ ràng và cụ thể hóa nội dung, nhiệm vụ kiểm tra của cấp ủy
và của ủy ban kiểm tra. Trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng, Đảng ta đều
có sự sửa đổi, bổ sung thêm những nội dung mới, phù họp với hoàn cảnh thực tiễn.
Việc xác định chủ thể, khách thể kiểm tra trong tùng nhiệm vụ cũng rõ ràng hơn.
Điều này có ý nghĩa thiết thực - khắc phục được tình trạng buông lỏng, khoán trắng,
thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra của một số cấp ủy.
Vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh mà công tác kiểm tra của Đảng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, công tác kiểm tra của Đảng đã góp phần quan trọng
vào việc xây dựng, hoàn thiện, bảo vệ đường lối, chính sách, quan điểm, các nguyên
tắc của Đảng, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, góp phần tăng
cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Tuy nhiên, công tác kiểm tra của các tổ chức đảng và cấp ủy các cấp còn
nhiều thiếu sót, khuyết điểm. Không ít cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ về công tác
kiểm tra của Đảng, coi đây chỉ là công việc của ủy ban Kiểm tra các cấp. Khi xem
8

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tr146


13

xét kỷ luật hoặc khi đơn vị có vụ việc, còn lúng túng, thiếu chủ động cả về nội dung

và phương pháp kiểm tra. Nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng không
được chấp hành nghiêm túc, thậm chí sai lệch nhưng không được kiểm ừa, uốn nắn.
Nhiều tiêu cực trong quản lý kinh tế, tài chính, tiền tệ gây hậu quả nghiêm trọng, tệ
quan liêu, tham nhũng đang làm tha hóa một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
nhưng chậm được kiểm tra, phát hiện, xử lý công minh, kịp thời. Công tác cán bộ
còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm, chưa đáp ứng yêu cầu. Điều đó lại càng đòi hỏi
phải kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực
nhà nước được nhân dân ủy quyền.
Tóm lại, trong xã hội có giai cấp kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu
khách quan, và cũng tất yếu khách quan như quyền lực nhà nước. Sự thực thi quyền
lực nhà nước bao giờ cũng đi kèm với vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm
đảm bảo sự cân bằng, nhà nước hoạt động đúng mục đích.
Xuất phát từ các đòi hỏi khách quan, quyền lực nhà nước thường được lượng
hóa bằng các quy định của Hiến pháp để phân định nhiệm vụ quyền hạn của các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự lượng hóa này là để giao cho các cơ quan
nhà nước khác nhau, thay mặt nhân dân thực hiện. Sự phân định các quyền như vậy
là điều kiện cơ bản để nhân dân giao quyền mà quyền đó không bị lạm quyền hoặc
lạm dụng, nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các
quyền mà mình đã giao. Đồng thời cũng là để cho các cơ quan tương ứng được giao
quyền cần đề cao trách nhiệm trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra
việc thực hiện quyền lực nhà nước được giao. Mặc dù không phải lúc nào việc kiểm
soát quyền lực nhà nước cũng được thực hiện tốt. Lịch sử đã chứng minh rằng
quyền lực nhà nước nếu không được kiểm soát sẽ gây nhiều tai họa cho xã hội và
cho nhân loại. Đó là lúc con người mất quyền tự do, dân chủ, xã hội bị bóp nghẹt
bởi các thế lực chuyên chế, các cơ quan và công chức nhà nước trở nên chuyên chế,
lộng quyền... kết quả là xã hội bị trì trệ, sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân cực


14


khổ tối tăm (đêm trường trung cổ là một ví dụ). Vì vậy, các nhà tư tưởng từ trước
đến nay đều cố gắng luận giải cho sự cần thiết phải có kiểm soát quyền lực nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bởi các hình thức, phương
thức, nguyên tắc, cơ chế khác nhau, như phân quyền, tập trung dân chủ, giám sát,
kiểm tra, kiểm sát, kiểm toán... kiểm soát từ bên trong cơ cấu nhà nước và từ bên
ngoài; từ trên xuống, từ dưới lên... tùy theo điều kiện mỗi thời đại, mồi nước khác
nhau sẽ có các hình thức lịch sừ và phương thức khác nhau.
Ở nước ta hiện nay vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được đặt ra trong
điều kiện trong điều kiện xây dựng CNXH. Mặc dù mang rõ nét tính đặc thù, nhưng
quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta cũng phải tuân thủ những nguyên
tắc phổ biến, vấn đề đặt ra là tính hiệu quả của hệ thống đó. Có thể nói, quyền lực
nhà nước ở nước ta hiện nay chưa được kiểm soát tốt, điều đó cũng đồng nghĩa với
việc chưa thực thi tốt quyền lực nhà nước. Trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã
tiến một bước mới trong việc phân công quyền lực nhà nước. Lần đầu tiên trong
Hiến pháp nước ta chỉ rõ Quốc hội thực hiện quyền lập hiến (không còn là duy nhất
có quyền lập hiến như Hiến pháp năm 1992), quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ
thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp
(Điều 102). Việc xác nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp là một sự đổi mới quan trọng, tạo điều kiện để làm rõ vị trí,
vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi quyền.
2. Một số vấn đề về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện hay
2.1 Những vấn đề đặt ra về hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam hiện nay.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một hệ thống những cơ chế được thực hiện
bởi nhà nước và xã hội nhằm giữ cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục
đích, hiệu quả. Kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm kiểm soát phạm vi hoạt động
của quyền lực nhà nước; kiểm soát quá trình thông qua và sửa đổi Hiến pháp; kiểm
soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; kiểm soát những người thực thi



15

quyền lực nhà nước và có thể kiểm soát từ bên ngoài và bên trong nhà nước. Kiểm
soát từ bên ngoài nhà nước là sự kiểm soát của nhân dân và xã hội; kiểm soát từ bên
trong là sự kiểm soát do nhà nước thực hiện.
Hệ thống kiểm soát quyền lực nhà nước ta đã được thiết lập từ khi Nhà nước
dân chủ nhân dân ra đời cho đến nay. Ở nước ta hiện nay vấn đề kiểm soát quyền
lực nhà nước được đặt ra trong điều kiện nhà nước của giai cấp công nhân, trong
điều kiện xây dựng CNXH. Do quyền lực chính trị thống nhất cao với quyền lực nhà
nước nên vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trước hểt được đặt ra là hệ thống
giám sát của Quốc hội và HĐND, kiểm tra, thanh tra của Chính phủ, phán quyết của
cơ quan tài phán, kiểm sát của VKSND, giám sát của MTTQ, kiểm tra của Đảng.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị, bộ máy nhà nước, hệ thống thanh tra, kiểm tra, giám sát quyền lực
nhà nước đã tạo điều kiện cho nhân dân, người chủ của quyền lực có khả năng kiểm
soát quyền lực đó. Các tổ chức xã hội có những quyền hạn rộng hơn trong việc kiểm
tra, giám sát quyền lực nhà nước. Các cá nhân cũng có khả năng rất lớn trong lĩnh
vực này theo quy định của pháp luật, hệ thống tự kiểm tra giám sát của nhà nước
cũng được tổ chức khá chặt chẽ. Mặc dù vậy, thực trạng kiểm soát quyền lực nhà
nuớc của chúng ta hiện nay cũng đang đặt ra nhiều vấn đề về nhận thức, phương
thức tổ chức, hoạt động và hiệu quả của nó được thể hiện trên những vấn đề sau:
Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân còn tồn tại nhiều vấn đề bất
cập, thể hiện ở những báo cáo trình Quốc hội, UBTVQH hiện nay là còn mang tính
khép kín, hoàn toàn do Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc
hội và đại biểu bàn luận, thiếu sự tham khảo từ nhân dân, từ công luận; Tính công
khai dân chủ trong hoạt động của nhà nước còn hạn hẹp; Chất vấn của đại biểu Quốc
hội qua hai kỳ họp là rất ít và bị hạn chế nhiều mặt. Nhiều chất vấn sa vào những
vấn đề cụ thể mà nhân sự cao cấp của quốc hội không biết để trả lời ngay được
(những vụ án tư pháp hình sự chẳng hạn). Có những chất vấn không đúng đối tượng,
do đại biểu Quốc hội không nắm vững chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước;



16

hoạt động giám sát ở các địa phương còn hạn chế, kiến nghị qua giám sát chưa được
đối tượng bị giám sát tiếp thu để khắc phục những thiếu sót trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho cơ quan địa phương ở cơ sở.
Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội còn có
hạn chế nhất định, nhất là giám sát việc ban hành văn bản của cơ quan hữu quan
chưa làm được nhiều. Các kiến nghị qua các đợt giám sát đôi khi chưa được cơ quan
hữu quan thực hiện. Hiện nay, chức năng giám sát của HĐND có xu hướng được
tăng cường, hoàn chỉnh và rõ ràng hơn, mặc dù vậy giám sát của HĐND còn có một
số hạn chế trên cả hai phương diện pháp luật và thực hiện pháp luật.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc trong những năm qua đã đã triển khai thực
hiện hoạt động giám sát toàn diện trên một số lĩnh vực như: Trong lĩnh vực xây
dựng pháp luật; hoạt động tư pháp; giải quyết đơn thư khiếu nại, tổ cáo; hoạt động
của đại biêu dân cử; thực thi chính sách, pháp luật. Tuy nhiên hiệu quả chưa được
như mong đợi, chưa thể hiện hết vai trò giám sát của MTTQ.
Hoạt động giám sát của cơ quan tài phán chưa thật sự hiệu quả, thể hiện ở
công tác kiểm sát xét xử có những tồn tại của nó; tòa hành chính chưa phát huy được
hiệu quả hoạt động như mong đợi; số lượng vụ việc được thụ lý giải quyết rất nhỏ,
trong khi đó khiếu kiện hành chính lại rất nhiều và phần lớn lại không đủ điều kiện
đế giải quyết theo luật định.
Giám sát của công dân đối với bộ máy nhà nước thông qua tổ chức Thanh tra
nhân dân và thực hiện quyền khiếu nại - tố cáo nổi lên vấn đề nhận thức chưa đầy đủ
trong các quy định về thanh tra nhân dân, không đủ khả năng vì không có chuyên
môn, nghiệp vụ thanh tra, không đủ kiến thức pháp luật, không có kinh phí, phương
tiện để hoạt động, không có cơ chế bảo vệ chống sự trù dập; có sự lẫn lộn giữa
Thanh tra nhân dân với Thanh tra của Thủ trường. Có sự nhầm lẫn giữa hoạt động
thanh tra nhân dân với các hình thức hòa giải tư pháp và các hoạt động mang tính

giám sát của quần chúng.


17

Tình hình khiếu nại - tố cáo trong thời gian qua đã phát sinh nhiều vụ việc và
diễn biến gay gắt, phức tạp, tình trạng khiếu kiện đông người vẫn gia tăng, nhiều vụ
việc đã được các cấp, ngành có thẩm quyền tập trung giải quyết nhưng vẫn không
dứt điểm. Nhiều địa phương vẫn tiếp tục phát sinh những điểm phức tạp, điểm nóng.
Công tác tiếp dân ở một số địa phương, đơn vị chưa thật quan tâm đầy đủ,
chưa gắn chặt giữa tiếp dân thường xuyên, tiếp dân của thủ trưởng với công tác chỉ
đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc tiếp công dân đến trực tiếp khiếu kiện nhiều
nơi nhìn chung còn hình thức, kém hiệu quả. Không ít nơi còn tư tưởng khoán trắng
cho cán bộ tiếp dân hoặc cơ quan chức năng.
Công tác kiểm tra của cấp ủy Đảng các cấp: Kiểm tra là một trong những
chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra. Tổ
chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra của Đảng, cấp ủy Đảng lãnh đạo công tác
kiểm tra và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của tổ chức đảng và đảng viên chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Tuy nhiên
công tác kiểm tra của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế như: Còn nhiều cấp ủy chưa
nhận thức đầy đủ về công tác kiểm tra, buông lỏng sự lãnh đạo, thậm chí vẫn "khoán
trắng" cho ủy ban kiểm tra. Nhiều cấp ủy viên còn ngại khó, nẻ tránh, hữu khuynh,
không muốn làm kiểm tra; thậm chí có cán bộ, đảng viên nhận thức còn lệch lạc, không
tự giác tiến hành kiểm tra, còn lẩn tránh, đối phó khi có sự kiểm tra của cấp trên, một số
nơi còn có tinh trạng bao che, dung túng trong hoạt động kiểm tra của Đảng.
Hoạt động Kiểm tra, thanh tra bộ máy hành chính chưa xác định được đúng đối
tượng, mục đích, phạm vi cũng như quyền lực trong hoạt động thanh tra; hoạt động
thanh tra phát hiện ra nhiều vi phạm, các tổ chức thanh tra cũng có nhiều kiến nghị,
quyết định xử lý nhưng thực tế hiệu lực vẫn còn thấp. Hoạt động thanh tra thực chất là
sự kiểm tra giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước mà đổi tượng bị kiểm tra giám

sát là cơ quan quản lý nhà nước cho nên hiệu lực không cao là điều khó tránh khỏi do
tính chất của hoạt động quản lý có phạm vi rất rộng và quản lý trực tiếp các nguồn lực
con người và tài chính cho nên các cơ quan quản lý có quyền hạn thực tế rất lớn.


18

Hoạt động kiểm toán nhà nước chưa phân định phạm vi hoạt động kiểm toán
với hoạt động thanh tra tài chính, thanh tra tài chính vốn là chức năng quản lý thiết
yếu của nhà nước. Trong khi đó hoạt động kiểm toán chỉ giới hạn ở phạm vi kiểm
tra kế toán đối với những cơ quan, đơn vị có sử dụng kinh phí nhà nước cấp hoặc tài
sản của nhà nước.
Những vấn đề trên tác động không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng hiệu quả
của việc thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực của Nhà nước ta hiện nay, ảnh hưởng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân trong tình hình mới.
2.2 Những giải pháp cơ bản đế thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước
Trong giai đoạn hiện nay, trước những yêu cầu ngày càng cao của xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực, hiệu quả
lãnh đạo đối với Nhà nước, trong đó phát huy vai trò của Đảng trong kiểm soát
quyền lực nhà nước là một nội dung rất quan trọng. Trên cơ sở thực trạng về kiểm
soát quyền lực thời gian qua và trước yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, chúng ta phải có hệ
thống giải pháp để kiểm soát chặt chẽ quyền lực nhà nước, góp phần chống tha hóa
quyền lực, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng củng cố mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng và nhân dân. Trong phạm vi bài viết này xin nêu một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả việc kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay.
2.2.1 Đổi mới nhận thức về tổ chức và hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước.
Tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, là sự phân công giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp, trên cơ sở

phối hợp để đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, về sự phân công và phối
hợp được xác định trong bộ máy nhà nước. Khi có sự phân công rồi thì phải kiểm
soát (theo dõi, kiểm tra, thanh tra...) bảo đảm cho các cơ quan có quyền này đi làm
đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, không vượt qua khỏi phạm vi, thẩm quyền,
tính chất và chức năng đã được xác định. Như vậy, sự phân công, phân cấp, phân


19

quyền đều phải gắn liền với sự kiếm soát quyền lực. Tức là ở đâu có quyền lực nhà
nước ở đó phải có sự kiểm soát.
Có sự thống nhất trong nhận thức về bản chất của kiểm soát quyền lực (bản
chất của thanh tra, kiểm tra, kiểm soát...) là biện pháp thực thi quyền lực nhà nước
nó có ý nghĩa cho cả lý luận và thực tiễn bởi vì: Điều đó xác định đúng vị trí, vai trò
của hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra trong việc thực thi quyền lực nhà nước.
Đây là cơ sở và căn cứ để phân định một cách khoa học chức năng, nhiệm
vụ, phạm vi hoạt động của hệ thống kiểm soát quyền lực; xây dựng được cơ sở pháp
lý cho việc thiết kế mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát. Từ đó
chúng ta thấy rằng, hoạt động kiểm soát quyền lực không thể do một vài cơ quan đảm
nhận mà phải do nhiều cơ quan, tổ chức tiến hành, được thực hiện bởi nhiều, hình
thức, quy mô với tư cách là phương thức thực thi quyền lực nhà nước.
Để kiểm soát quyền lực có hiệu quả thì trước hết phải kiểm soát quyền lực từ
chính nhà nước và sau đó là từ xã hội công dân thông qua hai yếu tố: tổ chức và hoạt
động, nhưng phải tránh chồng chéo, phải đảm bảo được nguyên tắc pháp lý chung
"những vấn đề đã thuộc thẩm quyền của cơ quan này thì sẽ không đồng thời thuộc
thẩm quyền của cơ quan khác". Vì vậy, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực đang
là vấn đề cấp bách hiện nay. Cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát hợp lý phải phát
huy được hiệu quả hoạt động của cả hệ thống và từng cơ quan có chức năng thanh
tra, kiểm tra, giám sát. Các phương thức hoạt động của từng loại hình cơ quan phù
hợp với yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội và đáp ứng được yêu cầu của thực

tiễn. Việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan phải đảm
bảo rõ ràng, rành mạch, không bỏ trống, bở sót, chồng chéo, trùng lặp trong hoạt
động giữa các cơ quan; phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cơ quan,
các vụ việc được giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền.
2.2.2. Hoàn thiện hoạt động giám sát của Quốc hội đối với văn bản pháp
luật, trên quan điểm tổng thể, cần tập trung vào các khâu sau:
Hoàn thiện cơ chế thấm định và thấm tra dự án, dự thảo văn bản pháp luật:


20

Đây là một khâu quan trọng trong quá trình giám sát việc ban hành văn bản pháp,
luật, đặc biệt là văn bản quy phạm pháp luật. Đối với các văn bản do Quốc hội và
UBTVQH trực tiếp ban hành thì cơ quan thẩm dịnh là Bộ tư pháp và cơ quan thẩm
tra do Quốc hội, UBTVQH quyết định thường là Hội đồng dân tộc, các ủy ban của
Quốc hội hoặc các ủy ban lâm thời.
Cải tiến thủ tục Quốc hội xem xét bãi bỏ văn bản trái Hiến pháp và pháp luật.
Nghiên cứu thành lập các thiết chế chuyên trách giúp Quốc xem xét quyết định bãi
bỏ một phần hay toàn bộ văn bản pháp luật trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH nêu trên thì có thể thấy thủ tục này
quá rườm rà. cần chỉ tập trung vào một vài đầu mối (chẳng hạn, Chủ tịch nước,
UBTVQH) thực hiện việc đề nghị Quốc hội, UBTVQH bãi bỏ văn bản. Thành lập
Ủy ban chuyên trách thuộc Quốc hội để xem xét (giám sát) có tính chuyên sâu các
văn bản pháp luật, có thể tự mình hoặc đề nghị Quốc hội, UBTVQH bãi bỏ văn bản
sai trái, nếu cứ để cho nhiều cơ quan có thẩm quyền đề nghị như hiện nay thì rất ít
hiệu quả. Cơ quan này có thể là ủy ban giám sát Hiến pháp thuộc Quốc hội.
Tăng cường vai trò giám sát của Tòa án nhân dân và Hội đồng nhân dân: Cần
bổ sung vai trò của Tòa án nhân dân trong việc xét xử văn bản quy phạm pháp luật
sai trái bị kiện. Xét trên tất cả các mặt, Tòa án nhân dân có thể và cần phải đóng vai
trò chủ yếu trong việc thực hiện quyền này. Điều này cũng phù hợp với xu thế tăng

cường vai trò của Tòa án trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam; đối với Hội đồng nhân dân các cấp: cần nâng cao hơn nữa vai trò của Hội
đồng nhân dân trong hoạt động giám sát văn bản pháp luật ở địa phương. Hội đồng
nhân dân thực hiện quyền giám sát tính hợp hiến, họp pháp của các văn bản pháp
luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang ở địa
phương, song trước hết và chủ yếu là giám sát hệ thống văn bản pháp luật do các cơ
quan chính quyền địa phương ban hành.
2.2.3 Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực phái dựa trên cơ sở hoàn thiện
cơ chế quản lý.


21

Quản lý gắn liền với cơ chế kinh tế, với điều kiện xã hội cụ thể (trình độ kinh tế
và dân trí, trình độ quản lý, tính kỷ cương và truyền thống luật pháp...). Thanh tra, kiểm
tra, giám sát lại gắn liền với quản lý, nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra, kiểm tra, giám sát cho
thấy: nội dung quản lý quyết định nội dung của hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám
sát; phân cấp quản lý là cơ sở, là tiền đề và căn cứ để xác định phạm vi, đối tượng,
nội dung thanh tra, kiểm tra, giám sát; quản lý quy định cơ chế và chi phối phương
thức thanh tra, kiểm tra, giám sát: tiếp nhận hoặc không tiếp nhận kết quả thanh tra,
kiếm tra, giám sát. Mặt khác, mặc dù bị ràng buộc, chế ước bởi quản lý, nhưng đồng
thời thanh tra, kiểm tra, giám sát cũng có tác động trở lại, góp phần điều chỉnh các
cách thức, phương pháp quản lý, bổ sung, hoàn thiện chính nội dung quản lý và nó
đưa đến hệ quả: thanh tra, kiểm tra, giám sát chính là một trong những công cụ để
đánh giá hiệu quả của quản lý.
2.2.4 Đổi mới giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ và hệ
thống hành pháp nhà nước
Cần xác định khái niệm, chủ thể, phạm vi, hình thức, nội dung, đối tượng của
hoạt động giám sát của Quốc hội. Từ đó phân biệt phạm vi, hình thức và đối tượng

giám sát của Quốc hội và thanh tra Chính phủ. Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang
bộ đương nhiên thuộc đối tượng bị giám sát của Quốc hội nói chung, của UBTVQH
nói riêng. Còn trong quan hệ với Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, Chính
phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, có phải là đối tượng bị giám sát của Hội đồng dân tộc
và các ủy ban của quốc hội hay không, vấn đề này cần làm rõ. Về nguyên tắc, Quốc
hội có quyền giám sát mọi hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, trong đó có cơ
quan hành chính nhà nước. Trong khi đó, Chính phủ có quyền thanh tra hoạt động của
tất cả các cơ quan hành chính và các hoạt động công vụ. Suy cho cùng hoạt động
thanh tra của Chính phủ cũng là hoạt động nhằm bảo đảm việc tuân thủ Hiến pháp,
luật, pháp lệnh và Nghị quyết của Quốc hội. Cần thay đổi cơ cấu tổ chức và xác định
rõ thẩm quyền giám sát của cơ quan làm công tác giám sát của Quốc hội nhằm một


22

mặt tăng thêm thẩm quyền cho các cơ quan của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát, mặt
khác, thành lập thêm một ủy ban chuyên trách về giám sát. Do đó, cần có quy định
trong Hiển pháp và luật nên tăng thêm thẩm quyền của UBTVQH có quyền xem xét
và bãi bỏ các văn bản pháp quy do Chính phủ ban hành trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH.
Quy định trách nhiệm, chế độ, hình thức báo cáo và số lượng văn bản cần báo
cáo, quy trình thẩm định báo cáo và quy định trách nhiệm nếu báo cáo không đạt
tiêu chuẩn, sai lệch thông tin, thông tin không đầy đủ, thông tin chậm, ở đây cần lưu
ý đến nội dung báo cáo, cần cụ thể, đi thẳng vào vấn đề, tránh tình trạng chung
chung, phải có chế tài đối với việc báo cáo không trung thực.
2.2.5 Hoàn hiện mô hình thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt
động tư pháp
Quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp chỉ được thực hiện
đầy đủ nhất, giải quyết những vấn đề phát sinh qua giám sát ở mức độ quyền lực cao
nhất tại kỳ họp với sự tham gia của tất cả các đại biểu Quốc hội. Đặc trưng của

quyền giám sát tối cao trong đó có quyền giám sát của Quốc hội đối với các hoạt
động tư pháp là có tính liên tục. Do đó, để đảm bảo tính liên tục của quyền lực thì
phải có những tổ chức nhất định do Quốc hội bầu ra để đảm đương những công việc
giữa hai kỳ họp. Theo quy định của pháp luật hiện hành. UBTVQH, ủy ban pháp
luật của Quốc hội là những cơ quan thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với
hoạt động tư pháp giữa hai kỳ họp. Các hoạt động giám sát của UBTVQH, ủy ban
pháp luật của Quốc hội cũng phải có mối liên hệ hữu cơ và làm căn cứ cho hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp. Nếu tách rời mối liên hệ hữu cơ này
thì quyền giám sát tối cao của Quốc hội không có điều kiện thực hiện.
UBTVQH là cơ quan Thường trực của Quốc hội có quyền lực hạn chế khi
tiến hành giám sát như: đình chỉ, hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật của TANDTC,
VKSNDTC. Căn cứ vào kết quả giám sát, UBTVQH cũng có thẩm quyền sửa đổi,


23

bổ sung, ban hành pháp lệnh, nghị quyết để điều chỉnh biên chế, tổ chức và hoạt
động của cơ quan tư pháp, bộ máy giúp việc của một số cơ quan tư pháp.
Nâng cao năng lực hoạt động đại biếu Quốc hội. Để thực hiện tốt các hình
thức giám sát này, đại biểu Quốc hội phải là người am hiểu cơ cấu, tổ chức, chức
năng nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp, các quy chế về hoạt động của Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Điều tra viên, chấp hành viên và các chức danh
khác làm việc trong cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp. Đồng thời đại biểu
phải thu nhận được tối đa nguyện vọng chính đáng của cử tri về tổ chức, hoạt động
của các cơ quan tư pháp.
2.2.6 Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp
Đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là tập trung, nhưng có sự phân công, phân cấp rành mạnh giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền kiểm sát

các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát và quyền công tố nhà nước đều nằm trong
phạm vi quyền tư pháp.
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động hành pháp
(chức năng kiểm sát chung), đã chuyển sang Chính phủ đảm nhận. Chức năng kiểm
sát văn bản chính là một trong những nội dung quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Việc điều chỉnh như trên, vừa đảm bảo được tính khoa học, lại vừa đảm bảo tính
thực tiễn, phù hợp với yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước ta, theo tinh thần các nghị
quyết của Đảng về đổi mới, hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Việc
điều chỉnh như trên, sẽ giảm bớt được sự cồng kềnh, nặng nề của bộ máy nhà nước;
giảm bớt được biên chế; tiết kiệm chi ngân sách cho hoạt động thanh tra, kiểm tra,
kiểm sát: đảm bảo được tính năng động của hoạt động thanh tra, kiểm tra, đáp ứng
yêu cầu quản lý nhà nước trong công cuộc đổi mới.


24

2.2.7 Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan xét xử hành chính nhằm nâng
cao hiệu quả giám sát của cơ chế tài phán hành chính đổi vớii hoạt động ban hành
các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước
Sự ra đời của cơ quan xét xử hành chính đánh dấu một bước phát triển mới
trong thiết chế bảo đảm quyền dân chủ của người dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ, tránh được sự xâm phạm từ phía các cơ quan nhà nước. Hoạt động tài
phán hành chính như một cơ chế kiểm soát trong tổng thể các yếu tố kiểm tra, giám
sát của nhà nước đối với hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước. Cần mở rộng
thẩm quyền xét xử của tòa án đến tất cả các lĩnh vực quản lý hành chính của Nhà
nước; tòa án có thẩm quyền phán quyết về tính hợp pháp của các văn bản quy phạm
pháp luật từ cấp Bộ trở xuống ban hành; xây dựng một hệ thống tòa án hành chính
độc lập với hệ thống Tòa án nhân dân hiện nay Đổi mói tổ chức và hoạt động thanh
tra, góp phần hoàn thiện cơ chế kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước
2.2.8 Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

MTTQ các cấp cần tăng thêm người tiêu biểu, người ngoài Đảng trong ủy ban
MTTQ. Đồng thời, tăng cường cán bộ chuyên trách có năng lực, có trình độ chuyên
môn cao và mở rộng đội ngũ công tác viên là những chuyên gia giỏi (dưới hình thức
hội đồng tư vấn hoặc ban tư vấn).
Đổi mới phương thức phối hợp với cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ,
Chủ tịch nước, các bộ, ngành, HĐND, UBND). Về giám sát, MTTQ cần tăng cường
sự phối hợp với các cơ quan có chức năng giám sát, thanh tra, kiểm tra để thực hiện
quyền giám sát của mình, đồng thời cán bộ Mặt trận cần phải đi sâu, đi sát với các
tầng lớp nhân dân để lắng nghe ý kiến phản ánh của nhân dân đối với hoạt động của
cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước.
2.2.9 Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng.
Công tác kiểm tra Đảng có mối quan hệ mật thiết với các cơ chế kiểm tra,
giám sát khác của các cơ quan nhà nước vì xét cho cùng thì mọi cơ chế kiểm tra,
giám sát (của Đảng và Nhà nước) cũng nhằm tới mục tiêu chung là bảo đảm thực


25

hiện đường lối chính sách của Đảng thông qua việc thực hiện những mục tiêu hoạt
động cụ thể của các cơ quan nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, rất nhiều đảng viên vừa là thành viên tổ
chức đảng, vừa là thành viên của bộ máy nhà nước và các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội. Đảng viên vi phạm nguyên tắc đảng thường gắn với vi phạm về kinh tế và pháp
luật. Chính vì vậy công tác kiểm tra đảng cần chú trọng vào việc kiểm tra sự chấp
hành pháp luật của đảng viên cũng như các tổ chức đảng. Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ, bao gồm cả cán bộ các cơ quan đảng, bộ máy nhà nước, tổ chức
kinh tể và đoàn thể nhân dân. Tình hình trên đòi hỏi kiểm tra của đảng và thanh tra
của chính phủ cần phối họp chặt chẽ với nhau trong kiểm tra và xử lý kỷ luật đối với
cán bộ, đảng viên.
Thực tế cho thấy, bộ máy của ủy ban kiểm tra và Thanh tra nhà nước có cả ở

cấp Trung ương và địa phương. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, ủy
ban Kiểm tra và Thanh tra nhà nước các cấp có điều kiện phối hợp trong việc thực
hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và quy định của Điều lệ Đảng. Nếu việc
thực hiện tốt, vừa giúp Thanh tra nhà nước các cấp thực hiện tốt và có hiệu quả nhiệm
vụ thanh tra, làm rõ vụ việc và đối tượng vi phạm, vừa tạo điều kiện cho ủy ban kiểm
tra các cấp nắm được việc thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, pháp luật của nhà nước cũng như các vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên.
Tóm lại, về nguyên lý ở đâu có quyền lực nhà nước, thì phải kiểm soát quyền
lực nhà nước. Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước ta đã tạo thành một cơ chế
kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát... từ Trung ương đến cơ sở, trong mọi ngành,
mọi lĩnh vực góp phần đảm báo trật tự, kỷ cương mọi mặt của đời sống xã hội và là
yếu tố quan trọng trong việc bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Ở nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều loại hình hoạt động kiểm soát quyền lực
nhà nước, do nhiều chủ thể tiến hành, với phạm vi, đối tượng, tính chất khác nhau
đó là: Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội và HĐND các
cấp), MTTQ Việt Nam, Tòa án nhân dân các cấp, hoạt động thanh tra, kiểm tra của


×