Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TÍNH QUY ĐỊNH SINH vật xã hội của cái tâm lý được TRÌNH bày TRONG tác PHẨM NGUYÊN tắc QUYẾT ĐỊNH LUẬN TRONG tâm lý học của e v sô rô KHÔ VA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.47 KB, 14 trang )

1
TÍNH QUY ĐỊNH SINH VẬT- XÃ HỘI CỦA CÁI TÂM LÝ
ĐƯỢC TRÌNH BÀY TRONG TÁC PHẨM
“NGUYÊN TẮC QUYẾT ĐỊNH LUẬN TRONG TÂM LÝ HỌC”
CỦA E.V. SÔ-RÔ-KHÔ-VA

*

*

*
Vấn đề quyết định luận có một ý nghĩa rất to lớn trong bất kỳ lĩnh vực
nhận thức khoa học nào, nhất là đối với tâm lý học. Bởi vì, với lĩnh vực tâm lý
học, quyết định luận liên quan trực tiếp đến vấn đề bản chất của các hiện tượng
tâm lý là gì? yêu cầu nhận thức chúng phải bắt nguồn từ đâu?...Do đó, việc đưa
nguyên tắc quyết định luận vào trong tâm lý học là một cuộc cách mạng trong
lĩnh vực nhận thức tâm lý người. Giải quyết vấn đề này chính là giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học, vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, cái nào
có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Vấn đề cơ bản của triết học,
hiển nhiên trùng hợp với vấn đề cơ bản của tâm lý học và hoàn toàn chuyển
sang tâm lý học. Biểu hiện của cuộc cuộc đấu tranh tư tưởng trong lĩnh vực tâm
lý học trên thế giới là nguyên tắc vô định luận và nguyên tắc quyết định luận các
hiện tượng tâm lý người. Đưa nguyên tắc quyết định luận vào trong nghiên cứu
các hiện tượng tâm lý người của E.V. Sô-rô- khô-va là một sự vận dụng hết sức
sáng tạo và có nghĩa vô cùng to lớn trong lĩnh vực nhận thức tâm lý học.
E.V. Sô-rô- khô-va nữ tiến sĩ tâm lý học; phó chủ tịch hội tâm lý học Liên
Xô; phó viện trưởng viện tâm lý học thuộc viện hàn lâm khoa học Liên Xô,
người đã viết tác phẩm “nguyên tắc quyết định luận trong tâm lý học”. Thông
qua tác phẩm này, Sô-rô-khô-va đã giải quyết được hàng loạt các vấn đề quy
định đến sự hình thành, phát triển các hiện tượng tâm lý người như: liệt kê, hệ
thống lại các trường phái tâm lý học khác và chỉ ra những hạn chế của các


trường phái tâm lý học ấy, đặc biệt là những sai lầm phản động của thuyết vô
định luận. Đồng thời tác giả làm rõ nguyên tắc quyết định luận là gì? Những
nguyên lý quyết định luận trong tâm lý học; Quan hệ giữa cái bên ngoài và cái
bên trong trong sự quyết định của cái tâm lý; Bàn về tính quy định sinh vật – xã


2
hội của cái tâm lý. Trong bài thu hoạch này, tôi chỉ tập chung đi sâu làm rõ
những hiểu biết ban đầu của bản thân tôi về tính quy định sinh vật- xã hội của
cái tâm lý được trình bày trong tác phẩm “nguyên tắc quyết định luận trong
tâm lý học” của E.V. Sô-rô-khô-va
Đề cập đến tính quy định sinh vật và xã hội của cái tâm lý, trong tác phẩm
Sô-rô-khô-va đã phê phán một số nhà nghiên cứu chỉ coi sự phát triển của con
người một cách tự nhiên. Nghĩa là, đối với các nhà sinh vật luận họ coi “ Con
người trong sự phát triển lịch sử của mình phụ thuộc vào tác động của các quy
luật sinh vật giống như ở động vật, và các tác động của các quy luật lịch sử –
xã hội quy định sự phát triển đặc thù người”1. Sô-rô-khô-va cho rằng, những
người theo quan điểm này đã có sự đánh đồng các cơ chế quan hệ qua lại của
con người với hiện thực khách quan và các quan hệ của giới sinh vật. Nếu có
khác, chẳng qua chỉ là ở mặt số lượng. Còn đối với quan niệm của các nhà xã
hội học, tâm lý học Pháp tiêu biểu là (Duyc – khêm, Hôn bách…”, Sô-rô-khô-va
chỉ ra rằng theo họ thì “ con người được hình thành bởi xã hội, xã hội quy định
ý thức con người”2. Mặc dù các nhà xã hội học và tâm lý học Pháp chỉ ra được
xã hội quy định ý thức con người, song theo tác giả luận điểm này đã tuyệt đối
hoá yếu tố xã hội trong sự hình thành phát triển tâm lý người, nhưng họ vẫn
không trả lời được câu hỏi về tính chất quy định cho sự xuất hiện của cái tâm lý.
Theo Sô-rô-khô-va thì nguyên nhân dẫn đến tính chất phiến diện của các nhà xã
hội Pháp là do họ không hiểu đầy đủ chính xác cái xã hội là như thế nào. Vì vậy,
quan niệm của họ là quan niệm duy tâm. Quan niệm về cái tâm lý của họ thực
chất là tập hợp giản đơn của các biểu tượng tập thể, không gắn liền tâm lý con

người với tồn tại thực của họ, đặc biệt là các quan hệ sản xuất mà con người
hiện thực đang sống và hoạt động. Thực chất tính xã hội theo cách hiểu của các
nhà xã hội học - tâm lý học Pháp nằm bên ngoài hoặc bên trên các cơ sở tự
nhiên của con người. Do đó, tác giả cho rằng luận điểm này vẫn chưa trả lời
1
2

. Tâm lý học, Những cơ sở lý luận và phương pháp luận, Học viện CTQS. 1984, tr. 232.
. Sđd, tr. 232.


3
được câu hỏi cái tâm lý chịu sự quy định bởi yếu tố gì? Tác giả kết luận các nhà
xã hội học - tâm lý học Pháp lúc bấy giờ vẫn là những nhà nhị nguyên luận.
Khắc phục những luận điểm sai lầm phiến diện trên, kế thừa các công
trình khoa học nghiên cứu về con người đã có, dựa vào thế giới quan duy vật
biện chứng, tác giả chỉ rõ tính quy định sinh vật – xã hội của cái tâm lý người.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác và
Ăngghen coi “ Con người có một lịch sử, vì họ phải sản xuất ra đời sống của họ
và hơn nữa họ phải sản xuất như vậy theo một phương thức nhất định: đó là do
tổ chức thể xác của họ quy định: ý thức của họ cũng bị quy định giống như
vậy”3. Nghĩa là, trong quá trình phát triển tiến hoá của người, sự xuất hiện của
bản thân tính xã hội được biểu hiện trong hoạt động lao động của con người và
các hình thức giao tiếp chuyên biệt của họ. Tất cả những cái đó đều phải chịu
quy định bởi một cấu trúc sinh vật nhất định. Từ luận điểm trên của Mác và
Ăngghen, tác giả cho rằng: “ Vấn đề tính quy định sinh vật, xã hội biểu hiện ở
hai hình thức: Một là, sự phát triển của nhân loại có quan hệ gì với tiến hoá
của thế giới hữu cơ trước đó, tức là vấn đề tính kế thừa, phát triển và những
đặc điểm về chất của nó ở người; Hai là, vấn đề về sự ảnh hưởng có tính quy
định của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội trong quá trình phát triển của

xã hội người”4. Như vậy, tác giả đã làm rõ sự phát triển của nhân loại luôn có
quan hệ với sự tiến hoá của thế giới hữu cơ. Theo thời gian xuất hiện, Những tổ
chức thể xác là cái xuất hiện trước. Những tổ chức thể xác trong quan niệm của
Sô-rô-khô-va có sự thống nhất với các nhà tâm lý học Mác xít rằng: cái sinh vật
trong con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài của tự nhiên, như học
thuyết tiến hoá của Đarwin đã đề cập. Nó bao gồm hai thành tố cấu tạo lên. Một
là: những yếu tố sinh vật mang tính bản năng chung của loài động vật ( cơ thể
sống với các thành phần tế bào khác nhau…tạo thành cơ thể sống). Hai là:
Những yếu tố sinh vật mang tính đặc thù của chủng loại người (cấu tạo của bàn
3
4

. C. Mác và Ăngghen. Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1980, tr. 289.
. Sđd, tr. 232.


4
tay; hệ phát âm; đặc biệt là cấu tạo của hệ thần kinh cấp cao…). Yếu tố sinh vật
đóng vai trò bảo đảm sự thích ứng của cơ thể sống đối với môi trường tự nhiên và
là tiền đề cho sự hình thành, phát triển nhân cách. Vì vậy, nếu đứa trẻ sơ sinh có đủ
yếu tố sinh vật cần thiết sẽ là điều kiện bình thường cho sự phát triển về mặt xã hội.
Ngược lại, đứa trẻ sơ sinh nếu khiếm khuyết về mặt sinh vật sẽ phát triển không
bình thường về mặt xã hội. Cái sinh vật là điều kiện ban đầu tạo ra những điều kiện
thuận lợi hay khó khăn cho sự phát triển nhân cách. Do đó, mọi quá trình diễn ra
trong ý thức, cũng như hành vi biểu hiện bên ngoài đều chịu sự chi phối của một
cấu tạo sinh vật tương ứng. Tâm lý con người cũng được hình thành và phát triển
trên nền tảng của một dạng vật chất đặc biệt, có tổ chức cao đó là óc người. Song
cũng cần lưu ý rằng, Những tổ chức thể xác dù phát triển đến đâu nếu không có sự
ảnh hưởng của các nhân tố xã hội, cũng không tự hình thành phát triển tâm lý ý
thức được. Những tổ chức thể xác không hoàn toàn tồn tại biệt lập, tách rời với cái

xã hội. Nó chỉ có thể phát triển được dưới những ảnh hưởng của các nhân tố xã
hội. Hay có thể hiểu là, cái sinh vật đã được xã hội hoá.
Đề cập đến tính quy định của nhân tố xã hội đối với tâm lý ý thức
người, Sô-rô-khô-va cũng cho rằng cái xã hội trong con người không phải do
lực lượng siêu nhiên ban tặng như quan niệm của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo.
Nó cũng không phải hoàn toàn là sản phẩm của gien di truyền, như quan niệm
của các nhà sinh vật luận. Cái xã hội chính là toàn bộ những nét bản tính của
con người nảy sinh trong hoạt động và giao tiếp. Tác giả cũng thống nhất với
các nhà tâm lý học Mác xít cho rằng, cái xã hội của con người được hình
thành từ hai góc độ.
Theo góc độ của sự tiến hoá chủng loại người, cái xã hội bao gồm: lao
động; ngôn ngữ; tâm lý cộng đồng…
Còn theo góc độ trưởng thành của mỗi cá nhân, cái xã hội bao gồm:
những kinh nghiệm xã hội lịch sử; ý thức xã hội mà cá nhân đã lĩnh hội;


5
những phẩm chất, những thuộc tính tâm lý cá nhân nảy sinh trong hoạt động
và giao tiếp.
Trong các nhân tố xã hội trên, tác giả cho rằng: “ vai trò đặc biệt thuộc về
lao động. Môi trường xã hội, hoạt động của con người đã tác động mạnh mẽ
vào sự phát triển của hệ thần kinh, vào quá trình tiến hoá của hệ thần kinh, hình
thành các cơ quan cảm giác của con người. Các cơ quan cảm giác ở người là
sản phẩm của sự phát triển xã hội. Nhờ có lao động mà tri giác ở con người
phong phú hơn ở động vật. Trong lao động thực tiễn, con người biến đổi thực
tại và tri giác của con người hoàn toàn khác với động vật” 5. Vì vậy Sô-rô-khôva cho rằng: Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, con người phát
triển như một tồn tại tự nhiên, nhưng chính cái tự nhiên đó cũng là sản phẩm của
lịch sử. Do đó, trong tác phẩm của mình, một mặt tác giả khẳng định tính di
truyền sinh vật không thể quy định trực tiếp sự phát triển tâm lý người. Ngược
lại tác giả cũng chỉ ra rằng, trong cái quyết định sự phát triển tâm lý người, lại

không thể bỏ qua vai trò của tính di truyền sinh vật. Bởi vì, những tố chất đó ảnh
hưởng đến sự phát triển tiếp sau của con người. Chúng đi vào thành phần bên
trong những điều kiện giãn tiếp của sự tác động từ bên ngoài đối với sự phát
triển tâm lý. Để minh chứng cho luận điểm của mình, Sô-rô-khô-va đã trích lời
của C.Mác trong “bản thảo kinh tế - triết học” năm 1844 rằng: “…Cảm giác của
con người xã hội là những cảm giác khác với cảm giác của những con người
phi xã hội. Chỉ có thông qua sự phát triển phong phú đã được phát triển về mặt
vật chất của bản chất con người thì sự phong phú của tính cảm giác chủ quan
của con người mới phát triển và một phần, thậm chí lần đầu tiên mới được sản
sinh ra: lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức…cảm
giác của con người, tính nhân loại của cảm giác chỉ nảy sinh nhờ có sự tồn tại
của đối tượng tương ứng, thông qua bản tính đã nhân loại hoá. Sự hình thành
năm giác quan là công việc của toàn bộ lịch sử…” 6. Như vậy, thông qua trích
5
6

. Sđd, tr. 233-234.
. C. Mác, Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1962, tr. 137.


6
dẫn lời của C.Mác và việc trình bày quan điểm của mình trong tác phẩm, chúng
ta thấy rằng tác giả đã luôn coi trọng cả hai yếu tố sinh vật và xã hội trong sự
hình thành và phát triển tâm lý người. Trong đó yếu tố sinh vật là cơ sở vật chất
cho sự phản ánh tâm lý. Nó giữ vai trò quan trọng không thể thiếu được trong sự
hình thành phát triển tâm lý người. Còn cái xã hội giữ vai trò quyết định đến sự
hình thành phát triển nhân cách con người. Cũng như quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, tác giả cho rằng: vai trò đặc biệt thuộc về lao động. Nhờ có
lao động con người không chỉ biến đổi điều kiện hoàn cảnh nhằm đáp ứng nhu
cầu tồn tại và phát triển của chính mình. Ngược lại, cũng nhờ có lao động đã

làm biến đổi hàng loạt bản tính tự nhiên hoang dã của con người. Thông qua lao
động xã hội, con người cần phải giao tiếp với nhau, đó cũng chính là nguồn gốc
ra đời của ngôn ngữ. Như vậy, bắt nguồn từ lao động và cùng với lao động là
ngôn ngữ đó là hai điều kiện tất yếu làm cho vượn trở thành người. Như
Ăngghen đã từng chỉ ra: “Lao động là nguồn gốc của mọi của cải…nhưng lao
động còn là cái gì lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên
của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa
nào đó chúng ta phải nói: lao động sáng tạo ra bản thân con người” 7. Như vậy,
lao động đã góp phần biến đổi cái sinh vật, góp phần hình thành và quy định bản
chất con người.
Từ sự phân tích cụ thể hoá nguyên lý quyết định luận duy vật biện chứng
về sự quy định sinh vật và xã hội của cái tâm lý. Tác giả đi đến kết luận: “ giữa
cái tâm lý và cái sinh lý không có mối liên hệ kiểu nhân quả” 8. Nghĩa là không
phải cứ có cái sinh lý tốt là có cái tâm lý tốt và ngược lại. Giải thích điều này tác
giả chỉ rõ: Cái tâm lý phản ánh không phải các quá trình sinh lý sảy ra trong não
vốn như là cơ sở vật chất của các quá trình tâm lý, càng không phải là não sinh
ra tâm lý như gan tiết ra mật theo như quan niệm của các nhà duy vật máy móc.
Tác giả cho rằng: “Cái tâm lý phản ánh hiện thực khách quan bên ngoài con
. Ăngghen. Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1997, tr. 251.
. Sđd, tr. 235.

7
8


7
người. Cả cái tâm lý và cái sinh lý đều được quy định bởi các nguyên nhân từ
bên ngoài”9. Hiểu nguyên nhân bên ngoài của sự hình thành tâm lý ở đây không
phải theo như quan niệm của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo, là do sự ban tặng của
chúa trời…mà chính là do tính quy định lịch sử đối với vấn đề hình thành tâm lý

người. Sô-rô-khô-va cho chúng ta thấy rằng, tính quy định xã hội được biểu hiện
trên các mặt sau: Một là, tính quy định xã hội được thực thực hiện trên một nền
tảng tự nhiên của con người; Hai là, tính quy định xã hội chứa đựng các nhân tố
phát triển của lịch sử nhân loại; Ba là, tính quy định xã hội chứa đựng các nhân tố
phát triển của thế giới xung quanh và dựa vào sự phát triển của mỗi cá thể người.
Tính quy định xã hội được thực thực hiện trên một nền tảng tự nhiên của
con người? Đề cập đến vấn đề này, tác giả thống nhất với quan niệm của các
nhà

tâm lý học Mác xít cho rằng nền tảng tự nhiên của con người là sản phẩm

của sự tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên, như học thuyết tiến hoá của Darwin đã
đề cập ở trên. Trong đó phải đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của hệ thần kinh
cấp cao, với cấu trúc cực kỳ phức tạp của não người gồm: (khoảng 50 vùng
chức năng khác nhau, với khoảng 16 tỷ nơ ron thần kinh, đặc biệt là vùng vỏ
não với nhiều lớp tế bào hình tháp lớn, hình sao, tế bào hình tháp nhỡ, lớp tế bào
ngang. Mỗi lớp tế bào mang những chức năng chuyên biệt cực kỳ tinh vi phức
tạp. Chỉ có cấu trúc ấy mới có thể mang chức năng phản ánh tâm lý ý thức.
Song cũng từ nền tảng tự nhiên của mỗi cá thể người khác nhau, mà sinh ra
những đặc điểm tâm lý ở mỗi con người cũng hết sức khác nhau, tạo nên sự đa
dạng các kiểu loại người trong cùng một chế độ xã hội.
Tính quy định xã hội chứa đựng các nhân tố phát triển của lịch sử nhân
loại? Theo ý này, tác giả muốn chỉ ra rằng con người sinh ra bao giờ cũng ở
trong một thời đại lịch sử nhất định, là thành viên của một cộng đồng dân tộc,
một giai cấp, một tầng lớp nhất định. Trong sự tồn tại người ấy, họ chịu sự tác
động mạnh mẽ của các yếu tố của thời đại, giai cấp, dân tộc và cộng đồng làng
. Sđd, tr. 235.

9



8
xã… Do đó, mỗi điều kiện lịch xã hội sử khác nhau, thì sản sinh ra những kiểu
nhân cách khác nhau. Thực tiễn lịch sử chứng minh, xã hội càng phát triển bao
nhiêu, thì con người sinh ra trong xã hội ấy càng có sự phát triển tâm lý bấy
nhiêu. Bởi vì, thế hệ người sau luôn có sự kế thừa những giá trị vật chất và giá
trị tinh thần của toàn bộ lịch sử trước đó để lại, thông qua các giá trị văn hoá vật
thể và văn hoá phi vật thể mà con người cụ thể ấy có thể lĩnh hội được những tri
thức, kinh nghiệm của các thế hệ trước đó để lại. Như Xôcrat từng nói: Đứng
trên vai những người khổng lồ, chúng ta sẽ nhìn xa hơn họ. Như vậy, tác giả
muốn nói rằng những biến đổi trong tâm lý cũng như hành động bên ngoài của
con người đều được quy định bởi chế độ xã hội. Đó là cái chung cho tất cả mọi
người sống trong xã hội đó, thời đại đó. Vì vậy, khi điều kiện xã hội lịch sử thay
đổi, thì các hiện tượng tâm lý con người cũng thay đổi theo. Thực tiễn lịch sử
chứng minh, xã hội phong kiến dựa trên kiểu nhà nước trung ương tập quyền,
chế độ vua - tôi; cha – con đã sản sinh ra mẫu người trong xã hội phong kiến là
mẫu người trung quân ái quốc “ vua bảo thần tử, thần bất tử – thần bất trung”,
hoặc những con người độc đoán gia trưởng, ích kỷ hẹp hòi. Còn con người trong
xã hội tư bản điển hình là con người thực dụng, là con người được tạo ra để đáp
ứng yêu cầu của một khâu trong dây truyền sản xuất, con người hành động theo
trả lời những kích thích. Vở hài kịch của vua hề Sác ler là một minh chứng cho
mẫu người đó ( một người công nhân khi ra khỏi xí nghiệp còn cầm trên tay
chiếc cà lê, khi ra đường anh ta nhìn thấy chiếc cúc áo lót sau lưng người phụ
nữ… anh ta bám theo và dùng chiếc cà lê vặn chiếc cúc áo đó…). Dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa, là xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mục
đích của xã hội xã hội chủ nghĩa là vì sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân.
Do đó đã sản sinh ra những con người sống không chỉ cho chính mình mà họ
còn biết sống vì người khác. Hành vi của họ không phải là sự đáp lại những kích
thích giản đơn, mà còn biết vì những lý tưởng tốt đẹp khác. Anh vệ quốc quân,
anh giải phóng quân… là những mẫu người đó.



9
Tính quy định xã hội chứa đựng các nhân tố phát triển của thế giới xung
quanh và dựa vào sự phát triển của mỗi cá thể người? Ở góc độ này tác giả chỉ
ra cho chúng ta thấy rằng, tâm lý người không chỉ chịu sự quy định của dấu ấn
thời đại, giai cấp…mà còn chịu sự quy định của những cái riêng, cái đặc thù của
điều kiện hoàn cảnh sống cụ thể. Do đó, trong cùng một chế độ xã hội có thể sản
sinh ra những kiểu nhân cách khác nhau. Bởi vì, mỗi con người cụ thể bao giờ
cũng phải tham gia vào các hoạt động mang tính xã hội, như quá trình giao tiếp
với các thành viên trong gia đình, nhóm bạn, cộng đồng làng xã,…Thông qua
quá trình giao tiếp ấy, cá nhân có sự tiếp thu tri thức; kinh nghiệm và các giá trị
văn hoá khác từ những người xung quanh, chuyển hoá thành cái của chính mình.
Cần lưu ý rằng, quá trình này có cả sự tiếp thu có chủ định và cả sự hấp thụ
không chủ định. Như thành ngữ Việt Nam có câu: gần mực thì đen, gần đèn thì
rạng; hay ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Trong sự tác động của môi trường xung
quanh này, yếu tố quan trọng bậc nhất là quá trình giáo dục có mục đích của gia
đình, nhà trường và xã hội. Quá trình giáo dục có mục đích là yếu tố cơ bản
quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Thực tiễn chứng minh, có
vô số những đứa trẻ sinh cùng sinh ra có cùng tố chất như nhau, có cùng chế độ
xã hội như nhau…Nhưng do được sống trong các môi trường khác nhau, được
đào tạo theo các ngành nghề khác nhau mà sinh ra những con người với những
bản tính tâm lý, nghề nghiệp và trình độ khác nhau. Từ những minh chứng trên
cho ta cơ sở khoa học khẳng định rằng, tâm lý cá nhân được hình thành trên một
nền tảng tự nhiên nhất định. Tâm lý cá nhân không chỉ mang dấu ấn thời đại,
giai cấp, mà còn chứa đựng các nhân tố phát triển của thế giới xung quanh và
dựa vào sự phát triển của mỗi cá thể người. Do đó, một mặt Sô-rô-khô-va khẳng
định vai trò quyết định của nhân tố xã hội. Mặt khác, tác giả cũng luôn coi trọng
vai trò không thể thiếu được của yếu tố sinh vật. Hai yếu tố đó luôn gắn bó chặt
chẽ với nhau tạo nên thể thống nhất quy định sự hình thành và phát triển tâm lý

người. Sự phát triển của yếu tố sinh vật, cùng với sự gia tăng của yếu tố xã hội


10
càng làm cho hai cái đó hoà quyện vào nhau tạo nên những hiện tượng tâm lý
phong phú, phức tạp ở con người. Như tác giả viết: “ Những tổ chức thể xác,
những đặc điểm sinh vật di truyền tạo nên những tiền đề nhất định cho sự phát
triển sau này. Sự phát triển đó được thực hiện dưới những ảnh hưởng của nhân
tố xã hội. Trong các nhân tố đó, vai trò đặc biệt thuộc về lao động. Môi trường
xã hội, hoạt động của con người đã tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của hệ
thần kinh, …Các cơ quan cảm giác ở con người là sản phẩm của sự phát triển
xã hội”10. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhận thức rằng, mặc dù tâm lý người
chịu sự quy định của cái sinh vật và cái xã hội, song đó không phải là sản phẩm
thụ động của hai nhân tố trên. Ngược lại, tâm lý người luôn có sự tác động tích
cực trở lại cải tạo cái tự nhiên và cái xã hội đã sản sinh ra nó. Tác giả cho rằng:
“Nhờ có lao động xã hội mà tri giác ở con người phong phú hơn ở động vật.
Trong lao động thực tiễn, con người biến đổi thực tại và tri giác nó hoàn toàn
khác với động vật”11. Đây là một trong những điểm khác nhau căn bản giữa tâm
lý ý thức người với tâm lý bản năng của loài động vật thường. Nghiên cứu thế
giới động vật chúng ta thấy được, cách đây hàng triệu năm trước khi bước vào
giai đoạn sơ kỳ đồ đá, con người cũng như các loài động vật khác đều sống hoà
đồng với thiên nhiên, lệ thuộc vào tự nhiên. Nhưng nhờ có lao động sự khác biệt
giữa con người với con vật ngày càng gia tăng. Chúng ta có thể lấy một ví dụ về
nơi ở giữa con người và con sói để chứng minh. Nếu như hàng triệu năm trước,
tổ tiên của loài người chỉ biết dựa vào hốc cây, hang đá như loài sói, thì cách
đây nhiều ngàn năm con người đã biết tạo dựng cho mình những căn nhà bằng lá
cây và gỗ đất…Ngày nay, con người đã tự tạo cho mình những ngôi nhà cực kỳ
hiện đại, bằng nhiều loại vật liệu nhân tạo khác nhau. Con người không chỉ tạo
dựng được ngôi nhà của mình ở mặt đất mà còn đưa chúng xuống dưới lòng đất,
lòng đại dương, thậm chí đưa ra ngoài khoảng không vũ trụ. Trong khi đó nhìn

lại loài sói, loài động vật được mệnh danh là thông minh trong số các loài động
. Sđd, tr. 233-234.
. Sđd, tr. 234.

10
11


11
vật, vẫn như tổ tiên xưa của chúng. Bằng lịch sử hàng triệu năm đã chứng minh
rằng, loài động vật thường hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên, lệ thuộc vào hoàn
cảnh sống mà nó có mặt trong đó. Động vật thường chỉ biết gắn mình với tự
nhiên, chúng hoàn toàn không có khả năng tự tách mình ra khỏi tự nhiên để
nhận thức và cải tạo tự nhiên. Ngược lại, con người trong mối quan hệ với tự
nhiên, con người luôn là chủ thể tích cực nhận thức và cải tạo tự nhiên. Quá
trình con người cải tạo tự nhiên chính là quá trình con người tự cải biến mình.
Bằng việc đưa ra những luận điểm khoa học trên, cùng với việc trích dẫn
lời của C. Mác trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, tác giả đặt ra nhiệm
vụ của các nhà tâm lý học phải: “ thúc đẩy việc xây dựng cuộc sống xã hội sao
cho nó phù hợp với bản chất thực của con người, giúp cho con người sử dụng
và nắm được một cách tốt nhất những kinh nghiệm mà loài người đã tích luỹ
được, mở ra những khả năng vô hạn cho việc hoàn thiện con người” 12. Trên cơ
sở đó tác giả chỉ ra rằng: “ Nguyên tắc quyết định luận đóng vai trò là phương
thức lý giải các hoạt động tâm lý, và cuối cùng nó là phương thức điều khiển
các hiện tượng tâm lý”13. Từ việc đánh giá đúng vị trí, vai trò của nguyên tắc,
tác giả đưa ra những luận điểm chính cho tâm lý học vận dụng theo nguyên tắc
này như sau:
Một là, cái tâm lý được hiểu như là chức năng của não, như là thuộc tính của
vật chất có tổ chức cao đã hình thành và phát triển lâu dài của thế giới hữu cơ.
Hai là, cái tâm lý chỉ là sự phản ánh thực tại khách quan. Những hiện tượng

tâm lý của cuộc sống được quy định bởi thế giới thực tại khách quan đó. Trong sự
phát triển của phản ánh có nhiều hình thức. Hình thức cao nhất là phản ánh của ý thức.
Ba là, Ý thức con người được quy định bởi xã hội, suy cho cùng ý thức
chịu sự quy định bởi điều kiện đời sống vật chất của xã hội. Tính quy định xã
hội của ý thức phụ thuộc vào các điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc sống xã hội,

12

. Sđd, tr. 236.
. Sđd, tr. 237.

13


12
thể hiện trong những điểm đặc thù của nhân cách thuộc vào một thời đại lịch sử
nhất định, trong một nhóm xã hội nhất định.
Bốn là, cái tâm lý không phải là hiện tượng, là quá trình thụ động, mà là
hoạt động tích cực của con người. Con người biến đổi hiện thực phù hợp với cái
mà con người đã phản ánh thế giới đó như thế nào? định hướng trong đó như thế
nào?
Những kết luận trên của tác giả, là cơ sở lý luận khoa học cho chúng ta
hiểu thực chất tâm lý là gì, nó là chìa khoá cho chúng ta biết cách điều khiển,
điều chỉnh các quá trình tâm lý. Vì vậy, tác giả cho rằng: “khi nghiên cứu sự
phát triển tâm lý của các cá thể người, đòi hỏi yêu cầu hàng đầu là phải xét đến
các điều kiện bên ngoài, trước tiên là môi trường sống, các điều kiện dạy học
và giáo dục. Vấn đề tổ chức các điều kiện xã hội một cách phù hợp là những
nhân tố quyết định trong quá trình dạy học và giáo dục”14.
Tóm lại, nguyên lý quyết định luận duy vật các hiện tượng tâm lý của Sôrô-khô-va đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng: Tâm lý người chịu sự quy định của
cái sinh vật và cái xã hội. Trong hai nhân tố trên, cái sinh vật là cái có trước, nó

có vai trò quan trọng là tiền đề không thể thiếu được trong sự hình thành và phát
triển tâm lý người. Còn cái xã hội là cái có sau, nó được hình thành và phát triển
thông qua hoạt động của mỗi con người. Mặc dù giữa hai nhân tố trên có mối
quan hệ biện chứng với nhau, song đó không phải là mối liên hệ kiểu nhân quả.
Cả cái sinh lý và cái tâm lý đều được quy định bởi nguyên nhân từ bên ngoài.
Do đó, khi nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm lý cá thể người, trước hết
chúng ta phải xét đến các điều kiện bên ngoài. Cũng như khi muốn tác động
điều chỉnh các hiện tượng tâm lý người, chúng ta cũng phải bắt đầu từ các điều
kiện bên ngoài, trước tiên là môi trường, các điều kiện dạy học và giáo dục.
Đồng thời phải tổ chức các điều kiện xã hội một cách phù hợp theo mục đích
của việc tác động đặt ra.
14

. Sđd, tr. 238.


13
Trong lĩnh vực hoạt động quân sự, vấn đề hình thành và phát triển tâm
lý quân nhân cũng tuân theo nguyên tắc quyết định luận duy vật các hiện
tượng tâm lý. Song do tính chất, đặc điểm cơ bản của nhân cách quân nhân
là những con người đã và đang trưởng thành. Họ có sự phát triển khá hoàn
thiện cả về yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội, nhân cách quân nhân mang nặng
dấu ấn giai cấp, dân tộc va vùng miền… trước khi vào quân ngũ. Do đó, để
hình thành, phát triển và hoàn thiện các phẩm chất tâm lý của nhân cách
quân nhân, phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của chuyên môn nghiệp vụ quân sự
theo yêu cầu chức trách nhiệm vụ được giao. Nhiệm vụ đó đặt ra cho các
cấp lãnh đạo chỉ huy phải quán triệt và vận dụng đúng đắn nguyên lý quyết
định luận duy vật các hiện tượng tâm lý vào trong thực tiễn công tác ở mỗi
đơn vị. Trước hết, cần tuyển chọn những thanh niên có sự cường tráng về
mặt thể chất. Trong suốt quá trình phục vụ quân đội, chúng ta cần quan tâm

bảo đảm tốt đời sống vật chất để phát triển một nền thể lực mạnh mẽ cho bộ
đội. Đây là yếu tố hàng đầu, đồng thời là tiền đề cho sự hình thành và phát
triển các phẩm chất nhân cách quân nhân trong suốt quá trình phục vụ trong
quân đội. Song song với việc bảo đảm tốt đời sống vật chất cho bộ đội,
chúng ta cần tăng cường các công tác xã hội tích cực đối với các quân nhân
thông qua mở rộng các quan hệ xã hội, kết hợp với củng cố các tập thể vững
mạnh. Đồng thời các cấp lãnh đạo chỉ huy cần phải quan tâm giáo dục rèn
luyện nhân cách quân nhân. Bởi vì, nhân cách quân nhân chỉ có thể hình
thành nhanh và chuẩn mực nhất thông qua sự tác động có mục đích, có kế
hoạch thống nhất của lãnh đạo chỉ huy đơn vị. Cùng với việc quan tâm xây
dựng tập thể mạnh, bản thân mỗi cán bộ lãnh đạo chỉ huy phải thực sự là
tấm gương tốt cho mọi quân nhân noi theo. Các biện pháp trên chỉ thực sự
mang lại hiệu quả cao nhất khi cán bộ các cấp biết động viên, khuyến khích
quân nhân tự tu dưỡng rèn luyện nâng cao thể chất và các chuẩn mực xã hội
cho chính mình. Bởi vì, sự cường tráng về thể chất và sự phong phú về tinh


14
thần của mỗi quân nhân, không chỉ là kết quả của sự quan tâm của các cấp
lãnh đạo chỉ huy. Ngược lại, khi các phẩm chất đó được hình thành họ sẽ có
khả năng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính mình. Nếu làm tốt
các biện pháp trên, chính là sự quán triệt và vân dụng triệt để lý luận về tính
quy định sinh vật và xã hội của cái tâm lý do Sô-rô-khô-va đề xuất.



×